Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, ông miêu tả đời sống nông thôn với ngòi bút giản dị, ấm áp. Thế nhưng, những vần thơ của ông còn gửi gắm tâm sự yêu nước, nỗi u hoài trước sự đổi thay của thời cuộc. Thế kỉ XIX với những khủng hoảng về tư tưởng và kinh tế khiến nhà thơ không khỏi cảm thấy bất lực. "Tiến sĩ giấy" là bài thơ trào phúng thể hiện cái nhìn mỉa mai, châm biếm của nhà thơ đối với hạng người mang danh khoa bảng mà không có thực chất, đồng thời cũng mang thoáng chút tự trào của tác giả. Bài thơ được viết theo lối thơ song quan, song quan là hai cánh cửa, là lối thơ mà đối tượng được miêu tả trực tiếp trong đó gợi người đọc liên tưởng tới một đối tượng khác có nhiều nét tương đồng về mặt hình thức hoặc tính chất với nó. Khác với hình tượng án dụ thông thường hay thúc đẩy người ta đến nhanh với điều được ám chỉ, hình tượng thơ song quan lại thường gây nên chút phân vân cho người đọc, buộc họ phải "tích cực" nhiều hơn trong việc phân định đâu là điều chính, đối tượng chính mà tác giả muốn nói tới. Tiến sĩ giấy được nhắc đến như đối tượng miêu tả và châm biếm trong bài. Trong dân gian, Tiến sĩ giấy là danh từ chỉ những đồ chơi hình ông tiến sĩ làm bằng giấy cùng một ít phẩm màu xanh đỏ, dành cho trẻ em trong dịp tết Trung thu. Thực chất, nhà thơ dùng hình ảnh "tiến sĩ giấy" trong bài nhằm nói về những kẻ mang danh khoa bằng mà không có thực chất, luôn vênh vang, vô sỉ, hữu danh vô thực. Đồng thời, "tiến sĩ giấy" còn là hình ảnh chính con người tác giả với thân phản co le và cảnh đời trớ trêu, bạc bẽo, đỗ đạt cao, có tài năng, chịu ơn vua, ơn nước đã nhiều mà không làm được gì cho quốc gia, dân tộc trong buổi đất trời nghiêng ngửa. Tất cả các đối tượng này được hợp nhất vào một hình tượng: Ông tiến sĩ giấy. Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai. Cũng gọi ông nghè có kém ai. Khi phân tích hai câu 1 – 2 không thể bỏ qua từ cũng. Sắc thái mỉa mai và dụng ý châm biếm của toàn bài thơ được biểu lộ ngay trong cách lập từ này. Trong Tử diễn tiếng Việt từ "cũng" được giải thích như sau: "Từ biểu thị ý khẳng định về một sự giống nhau của hiện tượng, trạng thái, hoạt động, tính chất". Trong hai câu 1 – 2 của bài thơ từ "cũng" vẫn mang nét nghĩa cơ bản, ổn định như trên khiến là thoạt tiên có thể nghĩ rằng tác giả khen đó chơi được chế tác khéo, rất giống người thất người thật có cờ, biển, cân dài thì "người đồ chơi" cũng chẳng khác. Nhưng nếu để ý hơn, ta lại thấy từ cũng được thốt ra với giọng điệu miệt thị, do nó xuất hiện liên tiếp tới bốn lần trong hai câu, mà lại đúng vào vị trí dấu của các nhịp thơ. Hơn thế, nó lại đi kèm với những từ chỉ các vật hiếm quý và chỉ tặng lớp người có địa vị đáng nể trong xã hội, khiến sắc thái mỉa mai bật ra: Làm sao giống được ông nghè thật, bởi cờ, biển, căn, đai đâu có sẵn vậy, đâu thể cứ giơ tay ra là vơ về được! Rõ ràng, do được đặt trong một văn cảnh mới, từ cũng có thêm được sắc thái ngữ nghĩa mới, giúp nhà thơ bắt được cái giả của đối tượng ngay lúc đối tượng giống thật hơn bao giờ hết. Nhưng đối tượng đây là đối tượng nào? Hẳn nhiên, nhà thơ không hoài hơi chế giễu một thứ đồ chơi vô tri. Vậy thì, đối tượng bị chế giễu không còn ai khác ngoài những ông nghè thật-thật mà giả. Như vậy, sự chú ý, cảm thụ của người đọc đã bất ngờ được lái sang một hướng khác. Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng, Nét son điểm rõ mặt văn khôi. "Giáp bảng" là bảng đề tên từ học vị tiến sĩ trở lên, còn "văn khôi" là đầu làng văn, ý chỉ người có đỗ đạt cao. Nghĩa bề nổi của hai câu 3 – 4 là thuật kể "thành phần cấu tạo" có tính vật chất của ông - tiến sĩ - đó – chơi mấy mảnh giấy được khéo léo cắt, tỉa, bồi. Dán, một chút phẩm đỗ to mật thể là xong! Nghĩa ngầm của hai câu thơ là nói về giá trị xoàng xĩnh của những ông nghè "thật", thật hiểu theo nghĩa là người bằng xương bằng thịt chứ không phải là người chân chính. Danh phận những ông nghề ấy xem ra chẳng được tạo dựng bằng một nội lực, công phu gì ghê gớm mà ngược lại, bằng một cái gì đó rất mực hình thức, phủ phiếm, đến từ ngoài thân. Tại sao độc giả có thể lĩnh hội được nghĩa ngầm ấy? Xuất phát điểm của vấn để nằm ở cách nhà thờ ghép các từ biểu thị những sự vật có giá trị khác hẳn nhau (mảnh giấy thân giáp bằng, hết sản chính là "mặt văn khôi") vào trong một kết cấu song hành - đối lập. Thần giáp bảng cao trọng dường ấy sao lại có thể được làm tiền từ vài mảnh giấy mông mạnh, tâm thường? "Mặt văn khôi" quy hiển, rõ ràng thế kia sao lại có thể được điểm rõ nhờ máy nét sơn bôi quệt sơ sài? Nhưng sự thực đã là thế, vậy thì cái "thân giáp bảng" kia, cái mặt văn khôi nở hoa ra cũng chẳng lấy gì làm danh giá. Hướng triển khai của hai câu này cũng tương tự hưởng triển khai của hai câu trên, có tác dụng tạo nên ở người đọc thể cảm thụ nước đối về hình tương được miêu tả, cuối cùng giúp họ nhận ra ở đây có sự chập một của hai hình tượng giả -hình nộm, và thật -người, đồng thời lĩnh hội được ý mỉa mai thâm thuý của nhà thơ. Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ? Cái giá khoa danh thế mới hời! Cặp câu luận là sự bình phẩm, đánh giá về xiêm áo, về khoa danh của ông nghè: "Sao mà nhẹ", "thế mới hời". "Hời" là tiếng cổ, nghĩa là dễ dãi, giá rẻ. "Nhẹ" và "hời" vì tầm thường. Không phải là thực tài, thực danh nên mới "nhẹ", nên mới "hời". "Nhẹ" và "hời" vì vô dụng và chỉ là hư danh, hư vị mà thôi. Tác giả sử dụng câu nghi vấn và câu cảm thán khẳng định, đối chọi nhau rất tài tình để châm biếm, để giễu cợt; giọng điệu thơ nhẹ nhàng mà mỉa mai. Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ, Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi! Cái tư thế ngồi rất oai: "Ngồi bảnh chọe" trên "ghế tréo", "dưới lọng xanh". Ra vẻ vênh vang và tự đắc, hợm mình về sự cao sang phú quý. Nhưng "chỉ là đồ chơi". Tương phản ý ở câu 7 và câu 8, tương phản giữa "đồ thật" với "đồ chơi". Tương phản để châm biếm cái hư danh, hư vị của những tiến sĩ giấy dưới thời Pháp thuộc. Câu kết "Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi" đến một cách vừa bất ngờ vừa tự nhiên. Nói là bất ngờ bởi chính bài thơ đã lập một giao ước ngầm với độc giả rằng ở đây nhà thơ đang nói về một thứ đồ chơi của con trẻ vào dịp tết Trung thu ; tại sao bỗng dưng ông "quên" điều đó để thốt lên nghĩ rằng đồ thật, như một lời trách hay như một sự khám phá? Nhưng nói là tự nhiên cũng hoàn toàn hợp lẽ, bởi trong ý đồ sáng tạo, nhà thơ thực sự chỉ nhắm đến việc bóc trấn thực chất trống rỗng của những ông nghề bằng xương, bằng thịt. Rất nhiều chứng cứ ngôn từ trong bài xác nhận điều này. Có thể nói, nếu không "vì" những ông nghè thật -thật mà giả thì bài thơ đã chẳng được viết ra, hoặc có viết ra mà không hàm chứa một nghĩa lí gì đáng để bàn hết. Có thể nói, bài thơ còn toát ra ý tự trào bởi nó viết về những ông nghè, mà bản thân Nguyễn Khuyến cũng là người thuộc số đó, dù trên thực tế, ông rất khác với loại "hữu danh vô thực". Và chăng, Nguyễn Khuyến không bao giờ là kẻ hợm mình, thậm chí còn là người nghiêm khắc với bản thân hơn ai hết. Đã nhiều lần ông tự vịnh, tư trào mình và luôn day dứt với tâm sự "Ơn vua chửa chút báo đến - Cứu trong hổ đất, ngửa lên then trời" (Di chúc), hoặc "Sách vở ích gì cho buổi ấy - Áo xiêm nghĩ lại then thần già" (Ngày xuân dặn các con). Trong một ít tài liệu có nói tới bài Tiến sĩ giấy, người ta từng nhấn mạnh cái đích nhấm tới của bài thơ là châm biếm, phê phán tệ mua quan bán tước. Nhưng ý nghĩa của bài thơ lớn hơn thế. Qua bài thơ, ta thấy tác giả đã mất lòng tin về một hình mẫu con người từng được chế độ phong kiến để cao và ông hết sức nhạy cảm trong việc phát hiện ra mâu thuẫn giữa cái danh và cái thực ở loại người này. Thước đo của ông, không có gì khác, chính là khả năng ích gì cho buổi ấy, tức là khả năng đảm trách được những việc lớn của quốc gia trong thời vận nước đang nguy khốn. Có thể thấy Nguyễn Khuyến đã hiểu thấu bản chất của thời cuộc với sự lên ngôi của cái nhố nhăng, sự tuột dốc của các giá trị tinh thần vốn một thời được đề cao, trọng vọng, sự bất lực của những kẻ mũ cao áo dài trước đòi hỏi của hiện tình đất nước. Nguyễn Khuyến cũng tỏ cái nhìn đầy nghi ngờ về hình mẫu con người được đào tạo nơi "cửa Khổng sân Trình" mà bản thân ông, oái oăm thay, là một ví dụ sinh động. Trong con mắt của ông, con người lí tưởng truyền thống bây giờ chỉ còn là cái vỏ rỗng tuếch. Nếu hiểu bài thơ như thế, ta sẽ hết băn khoăn khi cho rằng bài thơ có thoáng ý tự trào.