Phân Tích Nguồn Gốc, Bản Chất Và Đặc Điểm Của Nhà Nước - Trích Bài Thảo Luận 9.3 Điểm

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Chiên Min's, 27 Tháng năm 2022.

  1. Chiên Min's I purple you!

    Bài viết:
    555
    I. PHÂN TÍCH NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC:

    1.1 Nguồn gốc của nhà nước.

    Trong lịch sử có nhiều quan điểm giải thích nguyên nhân, nguồn gốc hình thành Nhà nước, có thể kể các học thuyết như sau:

    1.1. 1 Học thuyết phi Mác Xít.

    Thời kì cổ đại, trung đại đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về sự ra đời của Nhà nước. Gồm một số học thuyết tiêu biểu như:


    - Thuyết thần học:

    Cho rằng nguồn gốc của nhà nước là do Thượng đế sáng tạo ra, để bảo vệ trật tự chung. Do đó quyền lực Nhà nước là vĩnh cửu, sự phục tùng quyền lực trong xã hội là tất yếu và thượng đế đã trao quyền lực Nhà nước cho một số người thay mặt thượng đế để quản lý xã hội.

    - Thuyết gia trưởng:

    Cho rằng Nhà nước ra đời từ sự phát triển của hình thức gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của đời sống con người. Xã hội cần có người quản lý đó là Nhà nước cũng giống như gia đình cần có người đứng đầu gia đình đó là người gia trưởng, về mặt bản chất quyền lực Nhà nước cũng giống như quyền gia trưởng.

    - Thuyết khế ước xã hội:

    Cho rằng sự ra đời của Nhà nước là kết quả của một khế ước được ký kết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có Nhà nước. Vì vậy Nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên trong xã hội và mỗi thành viên đều có quyền yêu cầu Nhà nước phục vụ và bảo vệ lợi ích của họ.

    - Thuyết bạo lực:

    Cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc chiến tranh xâm lược chiếm đất, là việc sử dụng bạo lực của thị tộc đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng đặt ra một hệ thống cơ quan đặc biệt – nhà nước – để nô dịch kẻ chiến bại.

    Có thể nói, các học thuyết Phi mác xít do nhiều nguyên nhân khác nhau, đều chưa giải thích đúng đắn về nguồn gốc của nhà nước và pháp luật. Mặt khác, nguồn gốc nhà nước vẫn được lý giải theo phương pháp luận của chủ nghĩa duy tâm, coi nhà nước được lập ra theo ý muốn, nguyện vọng chủ quan của các bên tham gia khế ước mà không giải thích được cội nguồn vật chất và bản chất giai cấp của nhà nước.


    1.2. 2. Quan điểm học thuyết Mác – Lênin.

    Với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chứng minh một cách khoa học rằng nhà nước là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, nó xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của đời sống xã hội khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định, trong xã hội xuất hiện chế độ tư hữu và phân chia thành các giai cấp đối kháng.

    Trong lịch sử xã hội, loài người đã trải qua quá trình phát triển gồm 5 hình thái kinh tế xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản và xã hội chủ nghĩa. Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội nguyên thuỷ, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, cho nên chưa có nhà nước. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là các tộc trưởng (hay tộc chủ) do những người dân ở đó bầu ra, quyền lực của những người đứng đầu thuộc về uy tín và đạo đức, việc điều chỉnh các quan hệ xã hội được thực hiện bằng những quy tắc chung, những tập quán trong cộng đồng. Trong tay họ không có và không cần một công cụ cưỡng bức đặc biệt nào.

    Theo triết học Mác – Lênin, nguồn gốc ra đời của nhà nước gắn với 2 yếu tố:


    Yếu tố kinh tế:

    Theo đó xã hội loài người qua quá trình phát triển đã dẫn đến sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Vào thời cổ đại đã diễn ra ba lần phân công lao động xã hội.

    Lần phân công thứ nhất, chăn nuôi đã trở thành một ngành kinh tế độc lập và tách ra khỏi trồng trọt, từ đây mầm mống của chế độ tư hữu phát triển và "gia đình cá thể đã trở thành một lực lượng đang đe dọa thị tộc"

    Lần phân công thứ hai, thủ công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp, lần phân công này dẫn đến hình thành bước đầu chế độ nô lệ với số lượng nô lệ ngày càng tăng và họ bị đẩy đi làm việc ở ngoài đồng ruộng và trong xưởng thợ, thành từng đoàn mười người, người hai người một điều đó cho thấy sự phân hóa xã hội, phân tầng xã hội sâu sắc.

    Lần phân công thứ ba, sản xuất tách bạch với trao đổi dẫn đến sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân, lần đầu tiên xuất hiện một giai cấp tuy không tham gia sản xuất một tí nào nhưng lại chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuất và bắt những người sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế.. và bóc lột cả hai, một giai cấp mà lịch sử loài người trước đó chưa hề biết đến.

    Qua ba lần phân công lao động này cho thấy lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến năng suất lao động tăng, của cải làm ra ngày càng nhiều, và dẫn đến có của cải dư thừa kèm theo đó là sự tích trữ, đồng thời xuất hiện một bộ phận chiến đoạt của cải dư thừa đó (do nắm quyền quản lý, cai quản) hoặc giàu lên nhờ tích trữ, đầu cơ từ đây đã có sự phân hóa giàu nghèo, giữa người có của và người không có của, sự phân hóa giàu nghèo này dẫn đến hiện tượng phân tầng xã hội, phân chia thành các tầng lớp khác nhau từ đó dẫn đến phân chia giai cấp đồng thời và kéo theo xuất hiện mâu thuẫn giai cấp và điều không tránh khỏi là đấu tranh giai cấp, lúc này nhà nước đã có tiền đề rõ ràng cho sự ra đời của mình.


    Yếu tố xã hội:

    Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội, tạo ra một tình trạng loạn lạc hỗn độn. Xã hội lúc này đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy, hoặc cùng lắm là để làm cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp và để thảm họa đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời và đó chính là nhà nước. Từ nhu cầu phải kiềm chế sự đối lập của các giai cấp, làm cho cuộc đấu tranh của những giai cấp có quyền lợi về kinh tế mâu thuẫn nhau đó không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội.. và giữa cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự.

    Và như vậy là Nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, nó là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, nó không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt và xã hội mà là một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự.] Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước Chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không điều hòa giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Tiếp đó là Nhà nước Phong kiến, Nhà nước Tư sản và sau cùng là Nhà nước Xã hội chủ nghĩa.


    1.2 Bản chất của Nhà nước.

    Bản chất là khái niệm diễn đạt những đặc tính bên trong của sự vật, cái cốt lõi của sự vật gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của sự vật đó.

    Bản chất nhà nước là vấn đề then chốt và quan trọng bởi sự liên quan mật thiết đến lợi ích chính trị của giai cấp cầm quyền, Bản chất nhà nước là một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất được các học giả, các nhà văn và các nhà triết học tư sản tranh luận nhiều.

    Bản chất nhà nước được hiểu là tổng hợp những mặt, những thuộc tính tương đối ổn định bên trong của nhà nước, quy định sự tồn tại và phát triển của nhà nước.

    Bản chất của Nhà nước theo quan điểm học thuyết Mác -Lênin có 2 thuộc tính: Tính giai cấp và tính xã hội.

    Tính giai cấp: Tính giai cấp của nhà nước thể hiện thông qua sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, thể hiện trên ba mặt: Quyền lực kinh tế, chính trị, tư tưởng.

    Tính xã hội: Thể hiện qua vai trò quản lý xã hội của Nhà nước, giải quyết những vấn đề đời sống mà cộng đồng xã hội đặt ra. Nhà nước phải phục vụ những nhu cầu mang tính chất công cho xã hội như: Xây dựng bệnh viện, trường học, đường sá..

    Như vậy, tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước là hai thuộc tính gắn kế, đan xen chặt chẽ với nhau. Đặc biệt, trong xu hướng toàn cần hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay, tính xã hội của nhà nước có xu hướng ngày càng tăng, tính giai cấp có xu hướng giảm dần.


    1.3 Đặc điểm của Nhà nước

    Đặc điểm của Nhà nước là những dấu hiệu đặc trưng cơ bản riêng có của Nhà nước để phân biệt tổ chức là Nhà nước với các tổ chức khác trong xã hội. Các đặc trưng này làm cho Nhà nước giữ vị trí trung tâm trong hệ thống chính trị của đời sống xã hội. Có 5 đặc điểm chính:

    1.3. 1 Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt, không hòa nhập với dân cư:

    Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, quyền lực do toàn xã hội tổ chức ra, chưa mang tính giai cấp, phục vụ lợi ích của cả cộng đồng. Khi xuất hiện nhà nước thì quyền lực công cộng đặc biệt được thiết lập. Để thực hiện quyền lực này và để quản lý xã hội, nhà nước có một lớp người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý và bộ máy chuyên nghiệp, vừa thực hiện quản lý xã hội và nhiệm vụ cưỡng chế gồm quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù.

    1.3. 2 Nhà nước có chủ quyền quốc gia:

    Chủ quyền quốc gia là chủ quyền độc lập về lãnh thổ, dân cư và chính quyền, chủ quyền này được các nước trên thế giới tôn trọng. Các quốc gia dù lớn hay nhỏ đều được bình đẳng với nhau trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến chức năng đối nội và đối ngoại của một nước, thể hiện quyền tự quyết của một quốc gia. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính gắn liền với Nhà nước. Về mặt đối nội Nhà nước có quyền quyết định tất cả các vấn đề thuộc các ngành, các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Về mặt đối ngoại Nhà nước có quyền đại diện nhân dân tham gia vào các quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.

    Chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị pháp lý, nó thể hiện quyền độc lập tự quyết của nhà nước về những chính sách đối nội và đối ngoại không phụ thuộc vào các lực lượng bên ngoài.

    1.3. 3 Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ:

    Trong phạm vi lãnh thổ nhà nước phân chia dân cư thành các đơn vị hành chính nhằm bảo đảm cho hoạt động quản lý của nhà nước tập trung, thống nhất và chặt chẽ hơn, phạm vi tác động của nhà nước trên quy mô rộng lớn hơn. Mặt khác, việc phân chia này dẫn đến việc hình thành bộ máy hoàn chỉnh các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương.

    Chức năng quản lý xã hội còn cho phép nhà nước có quyền quản lý dân cư trong phạm vi lãnh thổ, có quyền ban hành và thực hiện chính sách quản lý, tác động tất cả mọi người trong lãnh thổ. Đặc tính này, ngoài nhà nước thì không có một tổ chức nào trong xã hội có được.

    1.3. 4. Nhà nước quy định thuế và thực hiện việc thu các loại thuế:

    Thuế là nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nhằm duy trì quyền lực xã hội của nhà nước, nuôi dưỡng bộ máy nhà nước - lớp người đặc biệt, tách ra khỏi lao động, sản xuất, để thực hiện chức năng quản lý, đồng thời, thuế cũng được sử dụng để điều tiết xã hội. Nhã nước là chủ thể duy nhất có quyền. Ban hành quy định về các loại thuế và thu thuế phù hợp với bản chất, nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động của mình.

    1.3. 5. Nhà nước ban hành pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật:

    Nhà nước là tổ chức có chức năng quản lý xã hội, để đảm bảo hiệu quả công việc quản lý xã hội, Nhà nước sử dụng Pháp luật là công cụ chủ yếu. Nhà nước có quyền ban hành Pháp luật nhằm định hướng xã hội theo ý chí của Nhà nước và đảm bảo việc thực hiện Pháp luật trong xã hội.

    Nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền được ban hành pháp luật và áp dụng pháp luật để quản lí xã hội.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...