Phân tích MQH biện chứng giữa tồn tại XH và ý thức XH. Biểu hiện của sự lạc hậu của ý thức XH ở VN

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Bát Bảo Muội Muội, 10 Tháng mười hai 2024.

  1. Bát Bảo Muội Muội .

    Bài viết:
    55
    Xin chào các bạn, như chúng ta đã biết, Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phạm trù được nhắc tới trong Triết học Mác – Lenin. Vậy để biết rõ hơn về hai phạm trù này chúng ta sẽ cùng đi trả lời các câu hỏi: Tồn tại xã hội và Ý thức xã hội được hiểu như thế nào? Áp dụng trong cuộc sống ra sao? Và để trả lời được các câu hỏi này thì hãy đi vào bài viết với nội dung: "Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Biểu hiện sự lạc hậu của ý thức xã hội ở Việt Nam hiện nay."

    Trước khi đi vào tìm hiểu nội dung trên, mình sẽ nói qua về nội dung chính của bài, bài viết gồm ba phần: Phần 1 tìm hiểu về tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Để từ đó đến phần 2, chúng ta sẽ cùng nhau thảo luận và tìm hiểu về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cuối cùng, dựa trên lý thuyết ở phần 1 và 2 chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về biểu hiện của sự lạc hậu của ý thức xã hội ở Việt Nam hiện nay.

    Phần 1: Khái quát về Tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

    Khi thảo luận về bất cứ một nội dung nào, trước hết chúng ta đều phải tìm hiểu xem nó là gì? Vì vậy, trong phần 1 của bài viết mình sẽ đưa ra và làm rõ hai nội dung: Thứ nhất là Khái niệm Tồn tại xã hộicác yếu tố cơ bản cấu thành nên tồn tại xã hội, thứ hai làkhái niệm ý thức xã hội và kết cấu, tính giai cấp và các hình thái của nó.

    Trước hết, ta sẽ đi tìm hiểu khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản cấu thành nên tồn tại xã hội. Đầu tiên, tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Tồn tại xã hội được cấu thành từ các yếu tố cơ bản như:

    Phương thức sản xuất vật chất - là cách tiến hành sản xuất của cải vật chất trong từng giai đoạn lịch sử của xã hội


    (VÍ DỤ: Thời kỳ nguyên thủy con người sử dụng các công cụ thô sơ bằng đá, đồng và sắt. Sau này, khi con người đã biết chăn nuôi các loại gia súc như trâu, bò, ngựa.. thì đã biết tận dụng sức kéo của chúng vào trong sản xuất; trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa, con người dần sáng tạo ra các công cụ để giảm sức người trong các hoạt động sản xuất và thậm chí là thay thế sức người bằng máy móc với nhưng công việc mang tính chất nguy hiểm)

    [​IMG]

    Dân số và mật độ dân số- là những yếu tố của dân số như số lượng, chất lượng, mật độ, tốc độ phát triển.. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển mọi mặt của một đất nước.

    (VÍ DỤ: Xuất phát điểm từ 1 nền kinh tế thấp, nước ta lại là 1 nước có tốc độ gia tăng dân số vào loại cao nhất thế giới, dân cư phân bố không đồng đều tập trung chủ yếu ở nông thôn việc này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế cũng như mức sống của người dân: Mật độ dân cư không đồng đều dẫn tới sự phát triển không đồng đều giữa các vùng và địa phương trên cả nước.. nước ta có những siêu đô thị lớn hàng chục triệu dân nhưng cũng có không ít những bản làng với dân cư thưa thớt, có đời sống lạc hậu)

    Bên cạnh đó, còn có một yếu tố không thể thiếu, cấu thành nên tồn tại xã hội, đó chính là điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh địa lý: Bao gồm điều kiện địa lý, của cải, những nguồn năng lượng. Đó là điều kiện tồn tại và phát triển của xã hội (có thể là thuận lợi nhưng cũng có thể là những khó khăn)

    (VÍ DỤ: Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, nằm sát biển Đông nên có lượng mưa lớn vì thế có khí hậu khác với các khu vực có cùng vĩ độ như Bắc Phi, hay Tây Nam Á tuy nhiên nước ta có thời tiết diễn biến thất thường do nằm trong vùng gió mùa châu Á)

    Những yếu tố này có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại hợp thành điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong đó, phương thức sản xuất vật chất chính là yếu tố cơ bản nhất, quyết định các yếu tố khác (Ví dụ phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam)

    Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống của một cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển xã hội nhất định. Nó là sản phẩm của những hoạt động mang tính xã hội của con người, là sự phản ánh của con người về đời sống xã hội của họ, trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ý thức xã hội được biểu hiện thông qua ý thức cá nhân, ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong một mối quan hệ biện chứng, thâm nhập vào nhau, làm phong phú nhau. Ý thức cá nhân là cái riêng phản ánh cái chung, ý thức xã hội là cái chung. Do đó ý thức cá nhân mang tính xã hội ở một mức nhất định.

    Ở đây ta cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những con người riêng biệt, cụ thể (tôi, anh, cậu ta) Nói đến ý thức cá nhân là nói đến toàn bộ sự tồn tại của con người trong những mối quan hệ cụ thể. Nó gắn với những nhu cầu vật chất, tinh thần, tư tưởng và tình cảm, thẩm mỹ của mọi đối tượng. Ý thức của các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với những mức độ khác nhau. Do đó, nó hiển nhiên là mang tính xã hội. Song, ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội nhất định mà ý thức của các cá nhân khác nhau được quy định bởi những đặc điểm của cuộc sống riêng, quá trình giáo dục và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân. Bởi nếu ý thức của cá nhân bạn hay bản thân tôi chỉ là những cảm xúc nhất thời, hoặc không đúng đắn với ý thức xã hội tại thời điểm đó thì sẽ không thể hiện được ý thức chung của xã hội vì thế nó cũng không được coi là một ý thức xã hội.

    (Ví dụ như: Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa và nhân dân Việt Nam thì rất cần cù chăm chỉ với truyền thống hiếu học được truyền từ đời này sang đời khác. Đây là ý thức xã hội của cộng đồng người Việt, và điều đó được thể hiện qua ý thức của mỗi cá nhân chúng ta.

    Còn mỗi người trong dân tộc Việt có thể theo một tôn giáo khác nhau, và họ có cuộc sống riêng của họ nên ta không thể áp đặt người theo đạo Phật phải đi nhà thờ, cũng không thể bắt ép người theo Thiên Chúa giáo phải đi lễ chùa được bởi vì đó là ý thức của cá nhân họ và điều mà họ làm thì không vi phạm pháp luật)

    Sau đây, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về kết cấu của ý thức xã hội. Lĩnh vực tinh thần của ý thức xã hội có kết cấu hết sức phức tạp nên mời mọi người xem biểu đồ sau để rõ hơn về kết cấu của ý thức xã hội:


    [​IMG]

    Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai phương thức, hai trình độ phản ánh xã hội khác nhau của ý thức xã hội nhưng có mối quan hệ tác động qua lại và có cùng nguồn gốc là tồn tại xã hội, phản ánh tồn tại xã hội.

    Ví dụ như: Việt Nam có hệ thống tư tưởng lớn và chi phối dân tộc Việt trong nhiều thế kỉ, nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo. Do đó, tâm lý của người Việt nói chung phần nào đều bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng của đạo Nho. Điều đó được biểu hiện ở chỗ: Người Việt ta có truyền thống tôn sư trọng đạo, tin vào thần linh, có tư tưởng trọng nam khinh nữ.. và một số những thói quen khác được biểu hiện trong đời sống thường ngày của người Việt, những điều này đều bắt nguồn từ lịch sử nước ta hơn nghìn năm Bắc thuộc và sự ảnh hưởng của nền kinh tế nông nghiệp)

    Bên cạnh đó, chúng ta sẽ đi tìm hiểu về tính giai cấp của ý thức xã hội. Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội cũng có tính giai cấp bởi bản chất nó là sự phản ánh tồn tại xã hội mà mỗi giai cấp lại có những điều kiện sinh hoạt vật chất nhất định. Mỗi giai cấp có đời sống sinh hoạt tinh thần đặc thù nhưng hệ tư tưởng thống trị ( Trong triết học Marx, hệ tư tưởng thống trị hay ý thức hệ thống trị là một tập hợp các ý tưởng về xã hội được sử dụng để biện minh cho một nhóm lợi ích cụ thể) sẽ chính là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.

    (Ví dụ: Tư tưởng Hitler được hình thành từ những động lực vô đạo: Tuổi thơ bất hạnh, thời niên thiếu chán chường, những thất vọng trong hoạt động nghệ thuật, việc bị thương khi tham gia chiến tranh thế giới lần thứ nhất, sự khinh miệt của giới quý tộc và quân đội, hay sự căm ghét vô cùng đối với người Do Thái.. Những tư tưởng ấy của Hitler dần dần trở thành một hệ thống học thuyết bài bản và được hiện thực hóa, xâm nhập, thẩm thấu vào dân chúng Đức, đặc biệt là tầng lớp thanh niên)


    [​IMG]

    Tuy nhiên, khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội thì quan niệm duy vật lịch sử cho rằng ý thức của các giai cấp trong xã hội có sự tác động qua lại với nhau. Không chỉ ý thức của giai cấp bị thống trị chịu ảnh hưởng của giai cấp thống trị mà ý thức của giai cấp thống trị cũng chịu sự ảnh hưởng của giai cấp bị thống trị. Khi đó những người tiến bộ trong giai cấp thống trị, nhất là những trí thức sẽ từ bỏ giai cấp xuất thân để chuyển sang hàng ngũ của giai cấp cách mạng. Lịch sử cho thấy, không ít những người trong số những trí thức đó trở thành nhà tư tưởng của giai cấp bị thống trị (Như Hồ Chí Minh lãnh đạo nhân dân Việt Nam trong công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân phương Tây, hay Lenin lãnh đạo cuộc cách mạng tháng mười Nga)

    Nói đến hình thái của ý thức xã hội là nói tới các phương thức nắm bắt khác nhau về mặt tinh thần đối với hiện thực xã hội. Do đó, ý thức xã hội tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau: Ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức triết học, ý thức nghệ thuật (thẩm mỹ), ý thức tôn giáo. Tính phong phú đa dạng của các hình thái ý thức xã hội phản ánh tính phong phú, đa dạng của bản thân đời sống xã hội. Trong các hình thái ý thức xã hội có những hình thái gần với cơ sở kinh tế của tồn tại xã hội hơn, có những hình thái ý thức xã hội xa cơ sở kinh tế hơn so với các hình thái ý thức xã hội khác. Trong đó, các hình thái ý thức chính trị và ý thức pháp quyền gần gũi cơ sở kinh tế hơn cả.

    Đầu tiên là hình thái ý thức chính trị. Hình thái ý thức chính trị là

    - Hình thái ý thức chỉ xuất hiện và tồn tại trong các xã hội có giai cấp và nhà nước.

    - Nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.

    - Ý thức chính trị thực tiễn thông thường hình thành trực tiếp từ các hoạt động thực tiễn trong môi trường chính trị của xã hội.

    - Được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của các chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như trong luật pháp chính sách nhà nước – công cụ của giai cấp thống trị, hệ tư tưởng chính trị được hình thành một cách tự giác. Giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội,

    - Nó thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác.

    Ví dụ:

    Đảng ta, khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư tuởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột người. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh điều kiện cụ thể của nước ta; mà cốt lõi là sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta.

    Tiếp theo đó là ý thức pháp quyền. Ý thức pháp quyền là:

    - Toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con người trong việc thực thi pháp luật của Nhà nước.

    - Cũng như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước. Giữa hai hình thái này có sự gần nhau về cả nội dung và hình thức.

    - Ý thức pháp quyền phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất được thể hiện trong hệ thống pháp luật.

    - Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật lệ, do đó mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền. Nhưng trong xã hội có các giai cấp đối kháng, các giai cấp khác nhau lại có những ý thức khác nhau về pháp luật, phản ánh lợi ích của giai cấp mình. Do đó, hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào sức mạnh cưỡng chế của nhà nước mà còn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết và tâm lí pháp luật của xã hội.

    VÍ DỤ:

    Ở Việt Nam hiện nay, ý thức pháp quyền của xã hội ta là ý thức pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Sự thống nhất cao về mặt lợi ích cơ bản giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã tạo nên hệ thống pháp luật do Nhà nước ban hành. Việc thể hiện ý chí của giai cấp công nhân cũng đồng thời phản ánh và thể hiện lợi ích dân tộc trong công cuộc đối mới tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. (Bộ luật Lao động 2019- sửa đổi bổ sung 2021)

    Thứ 3 là ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức là:

    - Toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái cảm xúc, tâm lí chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng, v. V.. và về những quy tắc đánh giá, những chuẩn mực hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau và giữa các cá nhân với xã hội.

    - Là một trong các hình thái ý thức ra đời từ rất sớm.

    - Sự phát triển đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ xã hội.

    - Yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố đặc biệt quan trọng. Nếu thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng con đường lí tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức.

    - Trong một xã hội có sự phân chia giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo đức phản ánh quan hệ giai cấp nên nó có tính giai cấp. Trong các phạm trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp

    - Giai cấp tiêu biểu cho sự phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ. Còn các giai cấp phản động thì đại diện cho một đạo đức suy thoái

    Ví dụ: Từ xa xưa, ông cha ta đã đúc rút ra những bài học về đạo đức để răn dạy con người, thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ (Kính trên nhường dưới, Uống nước nhớ nguồn, Một điều nhịn chín điều lành, Công cha nghĩa mẹ ơn thầy, Ngày sau khôn lớn ơn dày biển sâu)

    Ý thức khoa học là

    - Một hình thái ý thức xã hội, lại vừa là một hiện tượng xã hội đặc biệt.

    - Xem xét khoa học như một hình thái ý thức xã hội không thể tách rời xem xét nó như một hiện tượng xã hội.

    - Ý thức khoa học - với tính chất là một hình thái ý thức xã hội - là hệ thống tri thức phản ánh chân thực dưới dạng lôgic trừu tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Đối tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đó là một trong những sự khác biệt giữa ý thức khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác.

    - Hình thức biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học là phạm trù, định luật, quy luật.

    - Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, hình thành các khoa học tương ứng với từng hình thái ý thức đó.

    Ví dụ: Ý thức chính trị và chính trị học, ý thức đạo đức và đạo đức học, ý thức nghệ thuật và nghệ thuật học, ý thức tôn giáo và tôn giáo học. Nhờ tri thức khoa học, con người không ngừng vươn tới cái mới "sáng tạo ra một thế giới mới" và ngày càng làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình.

    Đối với phần ý thức thẩm mĩ, thì đây là

    - Sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo cái Đẹp. Trong các hoạt động thưởng thức và sáng tạo cái đẹp nghệ thuật là biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mĩ.

    Ví dụ: Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, khi phản ánh về con người nói chung, khoa học chỉ quan tâm về những gì mà nó vốn có (cấu tạo cơ thể con người gồm những bộ phận nào; chức năng cụ thể của từng bộ phận này ra sao;) còn các nghệ sĩ thì lại quan tâm phản ánh đến đời sống tâm hồn, tâm tư tình cảm con người; đặc biệt là đi sâu tìm tòi phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm ẩn từ sâu bên trong những con người bình dị, đời thường.

    - Nghệ thuật ra đời từ rất sớm, ngay từ khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp, quá trình hình thành nghệ thuật gắn liền với lao động của con người, với thực tiễn xã hội. Những dấu vết đầu tiên của nghệ thuật thuộc về thời kì khi con người biết sản xuất ra những công cụ bằng đá, bằng xương, bằng sừng.

    - Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức thẩm mĩ bắt nguồn từ tồn tại xã hội.

    - Khác với khoa học và triết học – phản ánh thế giới bằng khái niệm, phạm trù, quy luật; nghệ thuật phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ thể, bằng những hình tượng nghệ thuật.

    - Hình tượng nghệ thuật tuy phản ánh cái bản chất của đời sống hiện thực nhưng phản ánh thông qua cái cá biệt, cụ thể - cảm tính, sinh động. Hình tượng nghệ thuật cũng nhận thức cái chung trong cái riêng, cái bản chất trong cái hiện tượng, nhận thức cái phổ biến trong cái cá biệt. Song cái cá biệt trong nghệ thuật phải là cái điển hình. Và nếu nhà nghệ thuật tạo ra cái điển hình thì phải là cái điển hình đã được cá biệt hóa. (Ví dụ: Như cách mà nhà văn Nam Cao diễn tả giọt nước mắt của nhân vật, dùng nó như một "miếng kính biến hình vũ trụ" : Đó là giọt nước mắt ân hận nhục nhã vì trót lừa một con chó của Lão Hạc, giọt nước mắt trong văn Nam Cao là giọt nước mắt phản chiếu nhân tính của con người: Giọt nước mắt của những con người có "cái chết đòi được sống" như Chí Phèo hay nhiều mảnh đời khác trong truyện Nam Cao, chi tiết giọt nước mắt trong văn học không phải là mới lạ, mà nó là cái điển hình, nhưng Nam Cao cùng với ngòi bút của mình đã biến những cái chung ấy thành cái "cá biệt" trên văn đàn Việt Nam với nét rất riêng: VớiNam Cao, nước mắt là biểu tượng của tình thương và giọt nước mắt là "giọt châu của loài người", là "miếng kính biến hình vũ trụ.")

    - Sự phát triển của nghệ thuật về cả nội dung và hình thức không thể tách khỏi sự phát triển của tồn tại xã hội nhưng nghệ thuật có tính độc lập tương đối rất rõ nét trong sự phát triển của mình.

    - Và nghệ thuật chân chính bao giờ cũng gắn bó mật thiết với đời sống hiện thực của nhân dân, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu thẩm mỹ của con nguời: Quan niệm "Nghệ thuật vị nhân sinh", "Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, và cũng không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than.." (trích tác phẩm "Trăng sáng" của Nam Cao)

    Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, bao giờ nghệ thuật cũng mang tính giai cấp. Tính giai cấp của nghệ thuật biểu hiện trước hết ở chỗ nó không thể không chịu sự tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của một giai cấp, không thể đứng ngoài chính trị và các quan hệ kinh tế. Trong xã hội chia thành các giai cấp mà phủ nhận mối liên hệ của nghệ thuật với chính trị thì hoàn toàn sai lầm.

    Ví dụ: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò của văn nghệ, của các văn nghệ sĩ, đồng thời cũng đòi hỏi ở văn nghệ và văn nghệ sĩ tinh thần trách nhiệm cao cả đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em nghệ sĩ cũng là chiến sĩ trên mặt trận ấy.

    Phần tiếp theo đó chính là ý thức tôn giáo. Ý thức tôn giáo với tính chất là hình thái xã hội gồm có tâm lí tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. Đứng về mặt lịch sử, tâm lí tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo là hai giai đoạn phát triển của ý thức tôn giáo nhưng chúng liên hệ tác động qua lại và bổ sung nhau. Tâm lí tôn giáo đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một tính chất đặc trưng, một sắc thái tình cảm riêng biệt.

    Hệ tư tưởng tôn giáo thuyết minh những hiện tượng tâm lí tôn giáo, khái quát chúng và làm cho chúng biến đổi theo một chiều hướng nhất định. Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội thực hiện chức năng chủ yếu của mình là chức năng đền bù – hư ảo trong một xã hội cần đến sự đền bù – hư ảo. Chức năng đó làm cho ý thức tôn giáo có một đời sống lâu dài, một vị trí đặc biệt trong xã hội. Chức năng đền bù hư ảo nói lên khả năng của tôn giáo có thể bù đắp, bổ sung một cách hư ảo cái hiện thực mà trong đó con người bất lực trước sức mạnh của tự nhiên và những điều kiện khách quan của đời sống xã hội. Những mâu thuẫn của đời sống hiện thực, những bất lực trong thực tiễn của con người được giải quyết một cách hư ảo trong ý thức của họ. Vì vậy tôn giáo luôn được các giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ áp bức tinh thần, một phương tiện củng cố địa vị thống trị của họ.

    (Ví dụ như trong thời kỳ cổ đại của nhân loại, cụ thể là thời kỳ phong kiến ở Trung Quốc, con người luôn có niềm tin vào thần linh Thượng Đế. Vì thế mà ở Trung Quốc lúc bấy giờ, nhà nước phong kiến có người đứng đầu là Vua (hoàng thượng) được coi là Thiên Tử- tức con trời, và bất cứ lời nói nào của Vua cũng là ý chỉ của Thượng Đế, vì thế vua là người đứng đầu thiên hạ, có quyền lực tuyệt đối)

    Cuối cùng đó chính là ý thức Triết học. Đây là loại ý thức đặc biệt và cao nhất của tri thức cũng như của các ý thức xã hội. Triết học nhất là Triết học Mác-Lênin cung cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể thông qua việc tổng kết toàn bộ lịch sử phát triển của khoa học và chính bản thân triết học. Đồng thời, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học nói chung và nhất là triết học duy vật biện chứng nói riêng, có sứ mệnh trở thành thế giới quan, mà cơ sở và hạt nhân của thế giới quan đó là tri thức. Chính thế giới quan đó giúp con người trả lời cho các câu hỏi được nhân loại từ xưa tới nay thường xuyên đặt ra cho mình. Chẳng hạn, thế giới xung quanh ta là gì? Thế giới ấy có điểm bắt đầu và điểm kết thúc hay không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và sự biến đổi đó? Con người là gì và sinh ra từ đâu và có quan hệ như thế nào với thế giới ấy? Triết học duy vật biện chứng có vai trò to lớn để nhận thức đúng đắn ý nghĩa và vai trò của các hình thái ý thức xã hội khác; để xác định đúng đắn vị trí của những hình thái ấy trong cuộc sống và trong xã hội để nhận thức tính quy luật cùng những đặc điểm và sự phát triển của chúng.


    Phần 2: Mối quan hệ biện chứng giữa Tồn tại xã hội và Ý thức xã hội:

    Đến với phần 2 của bài viết, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Mối quan hệ biện chứng là mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, được thể hiện ở tính thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập. Do đó, khi đi vào tìm hiểu về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, chúng ta sẽ đi tìm hiểu mối quan hệ này dưới hai góc độ: Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội để từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.

    Đến với ý đầu tiên, vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Bởi vì tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất mà đời sống tinh thần của xã hội được hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất nên không thể tìm thấy nguồn gốc trong chính bản thân đời sống tinh thần mà phải lấy đời sống hiện thực để giải thích đời sống tinh thần nên chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Điều đó được phát biểu với các ý như sau:

    - Tồn tại xã hội là cơ sở, là nguồn gốc của ý thức xã hội. Vì vậy, tồn tại xã hội thế nào sẽ sinh ra ý thức xã hội tương ứng

    (Ví dụ: Trước kia, vào thời của các cụ khi chưa có kem đánh răng hay nước súc miệng thì việc nhuộm răng đen vừa được coi là phương thức bảo vệ răng miệng vừa được coi là một nét đẹp văn hóa không thể thiếu. Xã hội Việt Nam trong quá khứ thường đánh giá con người dựa trên vẻ bề ngoài hơn là tính cách. Do đó, nhuộm răng đen thường được xem là biểu hiện của trưởng thành và đạo đức. Chỉ những người trưởng thành, đáng tin cậy mới thực hiện nhuộm răng đen. Ngược lại, những người không nhuộm răng có thể bị coi là khác biệt hoặc không đứng đắn. Thậm chí có câu nói tục tiêu khiển như" răng trắng như răng chó. "Còn bây giờ, trong thời đại ngày nay khi chúng ta sống một cuộc sống đầy đủ vật chất hơn thì ý thức cũng đã có sự thay đổi, giờ đây chúng ta chuộng răng trắng chứ không ai tự nhuộm răng đen cho mình cả vì chúng ta đã hiểu rằng việc nhuộm răng đen không phải là cách vệ sinh răng miệng hiệu quả nhất cũng không phải là thước đo đánh giá nhân cách của con người nữa)

    - Tồn tại xã hội quyết định về nguồn gốc, nội dung, bản chất, kết cấu của ý thức xã hội.

    Ví dụ: Tại sao lại có tư tưởng trọng nam khinh nữ, nhất là ở các nước phương Đông? Vốn dĩ, các nước phương Đông có tư tưởng trọng nam khinh nữ là bởi: Các nước phương Đông (trong đó có Việt Nam) là các nước có nền nông nghiệp phát triển, mà đàn ông lại có lợi thế tuyệt đối so với phụ nữ trong phương diện sản xuất nông nghiệp: Do sức khỏe, vóc dáng.. vì vậy nên họ có thể tạo ra càng nhiều của cải hơn, từ đó khiến cho con người trong tiềm thức sẽ chuộng sinh con trai hơn, thường đàn ông sẽ là người đi lao động kiếm tiền còn người phụ nữ sẽ ở nhà chăm con, may vá thêu thùa và không có tiếng nói trong gia đình.. nên địa vị của người đàn ông trong xã hội thường cao hơn phụ nữ vì họ kiếm được nhiều của cải vật chất hơn

    - Tồn tại xã hội quyết định tính chất đối kháng hay không đối kháng của ý thức xã hội. Khi xã hội vẫn còn sự xuất hiện của các giai cấp đối kháng, thì sẽ sinh ra những ý thức xã hội có ý thức đối kháng. Còn nếu xã hội không có sự xuất hiện của các giai cấp đối kháng thì sẽ sinh ra những ý thức xã hội không mang tính chất đối kháng với nhau.

    (Ví dụ: Tầng lớp công nhân ra đời bởi sự phát triển của chủ nghĩa tư sản. Họ dần trở thành bộ phận quan trọng nhất có trình độ xã hội hóa cao. Công nhân không có tư liệu sản xuất nên buộc họ phải bán sức lao động của mình cho giới tư sản. Tuy nhiên, để làm giàu, giới tư sản đã bóc lột giá trị thặng dư của họ trong suốt quá trình lao động. Khi các nhà tư bản bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân thì sẽ khiến cho giai cấp công nhân nảy sinh các ý thức muốn đòi lại quyền lợi cơ bản của mình)

    - Mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) thay đổi thì ý thức xã hội sớm muộn cũng phải thay đổi theo cho phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể lúc đó.

    Ví dụ: Trong xã hội phong kiến, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời trong lòng xã hội này và dần dần lớn mạnh thì nảy sinh quan niệm cho rằng sự tồn tại của chế độ phong kiến là trái với công lý, không phù hợp với lý tính con người và cần được thay thế bằng chế độ công bằng và hợp lý tính của con người hơn.

    Sau đó, ta đi vào tìm hiểu tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được thể hiện qua các ý:

    Trước hết, ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội. Ý thức xã hội lạc hậu hơn tồn tại xã hội khi tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng một số hình thái ý thức xã hội do xã hội đó sản sinh ra vẫn tiếp tục tồn tại. Được biểu hiện ở: Ý thức xã hội thông thường, ý thức lý luận, đặc biệt là trong tâm lý xã hội. Nguyên nhân gây ra sự lạc hậu của ý thức xã hội là:

    Đầu tiên, là do tác động mạnh mẽ và đa diện trong hoạt động thực tiễn của con người nên tồn tại xã hội diễn ra nhanh hơn khả năng phản ánh của ý thức xã hội (Ví dụ: Như việc con người phát minh ra máy móc, thay thế sức người bằng máy móc nhưng trong các ngành nghề truyền thống như: Làm nước mắm, làm bánh đa hay các làng nghề thủ công mỹ nghệ thì người ta vẫn sử dụng sức người là chủ yếu vì coi rằng máy móc không thể làm ra sản phẩm như con người làm ra được)

    Thứ hai là do sức mạnh của thói quen, phong tục tập quán truyền thống cũng như tính bảo thủ, lạc hậu của một số hình thái ý thức xã hội, hơn nữa những điều kiện tồn tại xã hội mới chưa đủ để thay thế hoàn toàn những thói quen, phong tục tập quán cũ. (Ví dụ: Thói quen tùy tiện tự do của những người sản xuất nhỏ lẻ trong nền sản xuất truyền thống của nền văn minh lúa nước, nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lẻ, lạc hậu)

    Thứ ba là ý thức xã hội mang tính giai cấp, tính dân tộc, ít nhiều đều ảnh hưởng tới lợi ích của các nhóm xã hội nên thường được cố gắng bảo tồn, duy trì. (Ví dụ: Như tư tưởng ngụy quân ngụy quyền được các thế lực phản động lưu giữ để chống đối nhà nước)

    Những tư tưởng lạc hậu, tiêu cực thường không mất đi một cách dễ dàng. Do đó, trong xây dựng xã hội mới phải tăng cường công tác tư tưởng để từng bước xóa bỏ tàn dư, những tư tưởng, ý thức của xã hội cũ song song với việc bồi đắp, xây dựng và phát triển ý thức xã hội mới.

    Bên cạnh đó, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội. Trong điều kiện nhất định, tư tưởng của con người có thể vượt trước tồn tại xã hội, dự báo tương lai, có tác dụng tổ chức chỉ đạo hướng dẫn hoạt động thực tiễn của con người. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc ý thức xã hội đã thoát ly hoàn toàn khỏi tồn tại xã hội. Có tư tưởng vượt trước là tư tưởng khoa học nhưng cũng có những tư tưởng vượt trước là tư tưởng không khoa học, lý do để ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội là do đặc điểm của những tư tưởng khoa học quy định. Tư tưởng khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có để rút ra quy luật phát triển chung của xã hội, không chỉ phản ánh đúng quá khứ hay hiện tại mà nó có thể dự báo chính xác tương lai.

    (Ví dụ: Ngay trong lòng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong thời kỳ phát triển tự do cạnh tranh thì C. Mác đã đưa ra dự báo rằng quan hệ sản xuất đó sẽ bị một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế trong thời gian tới)

    Ngoài ra, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội còn được thể hiện qua tính kế thừa trong sự phát triển của mình: Bất cứ tưởng tượng nào cũng có quan hệ kế thừa với những tư tưởng thời đại trước. Do đó, các nhà tư tưởng khi đề xuất những tư tưởng mới bao giờ cũng xuất phát từ lợi ích của giai cấp mình, đồng thời phải kế thừa những tư tưởng của thời đại trước để lại.

    Ví dụ: Sự ra đời của chủ nghĩa Mác; sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.. Trong số di sản của thế hệ trước, kế thừa cái gì, vứt bỏ cái gì, kế thừa như thế nào.. do lợi ích và nhu cầu của giai cấp mình quyết định, chẳng hạn khi giai cấp tư sản mới ra đời đã kế thừa và phát triển CNDV và tư tưởng vô thần của các nhà tư tưởng thời kỳ cổ đại để chống lại giai cấp quý tộc, hệ tưởng phong kiến nhưng khi trở thành giai cấp thống trị, giai cấp tư sản lại khôi phục và phát triển CNDT và tôn giáo..

    Do đó không thể giải thích hiện tượng, ý thức, tinh thần nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có mà không để ý tới các giai đoạn phát triển trước đó. Thừa nhận tính kế thừa của ý thức xã hội sẽ giúp giải thích hiện tượng chênh lệch giữa trình độ kinh tế và ý thức tư tưởng

    Ví dụ:

    Nước Pháp thế kỷ XVIII có nền kinh tế phát triển kém nước Anh, nhưng tư tưởng thì lại tiên tiến hơn nước Anh.

    So với Anh, Pháp thì nước Đức ở nửa đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng ở trình độ cao hơn về triết học.

    Ý nghĩa: Tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tinh thần của xã hội chủ nghĩa. V. I Lenin viết:" Văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu ".

    Hơn thế nữa, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội còn được thể hiện qua Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho ở mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất. Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác.

    Ví dụ:

    - Ở Hy Lạp cổ đại, triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt to lớn; còn ở Tây Âu trung cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần xã hội như triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền.

    - Ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng vai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác. Ở Pháp nửa sau thế kỷ XVIII và ở Đức cuối thế kỷ XIX, triết học và văn học là công cụ quan trọng nhất để tuyên truyền những tư tưởng chính trị, là vũ đài của cuộc đấu tranh chính trị của các lực lượng xã hội tiên tiến.

    – Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.

    Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học, văn học nghệ thuật.. mà tách rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.

    Cuối cùng, ta sẽ xét đến việcÝ thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.

    – Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường, hay chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.

    Như Ph. Ăngghen viết:" Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật.. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế ".

    Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào:

    + Những điều kiện lịch sử cụ thể;

    + Tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh;

    + Vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng;

    + Mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội;

    + Mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng.

    Cũng do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội.

    Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.


    Ý nghĩa phương pháp luận

    - Nhận thức toàn diện các lĩnh vực trong đời sống xã hội là tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Vì vậy, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội

    - Mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.

    - Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

    - Mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hóa, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


    Phần 3: Ứng dụng lý luận vào thực tiễn. Biểu hiện sự lạc hậu của ý thức xã hội ở Việt Nam hiện nay.

    Đến với phần 3, để áp dụng những lý luận đã nói ở trên, chúng ta sẽ đi trả lời câu hỏi đã đặt ra trong đề bài: Chỉ ra biểu hiện của sự lạc hậu trong ý thức xã hội của Việt Nam ngày nay. Để tìm hiểu về phần nội dung này thì ta sẽ xét trên ba phương diện: Ý thức xã hội thông thường, ý thức lý luận và đặc biệt là trong tâm lý xã hội.

    Người Việt vẫn quen với cách làm việc vẫn còn tùy tiện, tự do: Trong sản xuất kinh tế, trong việc đi làm hay đi học, có hẹn với bạn bè thường không chú ý giờ giấc, không có thói quen xếp hàng khi đi mua đồ, không có thói quen giơ tay khi phát biểu xây dựng ý kiến.

    Hay tâm lý cục bộ địa phương là tàn dư của thời kỳ quan liêu bao cấp: Trước và trong thời kì bao cấp, cục bộ địa phương chủ yếu là hiện tượng của cá nhân. Đến giai đoạn kinh tế thị trường, cục bộ là câu chuyện về quản lý nhà nước. Kinh tế thị trường một mặt thúc đẩy tự do kinh tế, nhưng mặt khác khiến các địa phương cạnh tranh khốc liệt với nhau để tăng nguồn thu.

    Hàng năm, các tỉnh ganh đua với nhau ở bảng xếp hạng Năng lực Cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), liên tục đưa ra những chính sách ưu đãi" kịch trần "để thu hút FDI và doanh nghiệp trong nước. Nhìn chung đây là một hiện tượng tốt: Nhờ cạnh tranh, môi trường kinh doanh của cả nước được cải thiện đáng kể trong vài năm qua. Thậm chí trong bảng xếp hạng Doing Business của Ngân hàng Thế giới năm 2018, Việt Nam còn vượt lên trên nước láng giềng Trung Quốc đến 10 bậc (68 so với 78). Tuy nhiên, cũng giống như các cuộc đua xuống đáy khi các doanh nghiệp Việt dìm nhau về giá để lấy thị phần xuất khẩu, cạnh tranh khiến nhiều tỉnh thành cố gắng đạt chỉ tiêu bằng mọi giá, bất chấp thiệt hại cho các địa phương khác. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà tư vấn nước ngoài thường nhắc nhở doanh nghiệp nước mình khi bước vào Việt Nam rằng, ở quốc gia này có 63 thay vì chỉ một điểm đến duy nhất.

    Với nhiều lãnh đạo địa phương, dường như thời gian vẫn dừng lại ở năm 1986. Như câu chuyện xảy ra vào năm 2018, công chúng được một phen cười ra nước mắt khi các chủ tàu ở Hải Phòng phàn nàn rằng bên phía Quảng Ninh không cho phép họ đưa khách tham quan vịnh Hạ Long, nếu như không vào đăng ký xuất bến ở Quảng Ninh. Ngược lại, tàu từ Quảng Ninh cũng không được phép đưa khách sang đảo Cát Bà, vốn là địa bàn thuộc Hải Phòng. Việc này không khác nào yêu cầu tàu thuyền phải được" cấp visa "khi đi qua hai tỉnh láng giềng của miền Đông Bắc.

    Và vẫn có các hội nhóm, phần tử phản động ngụy quân, ngụy quyền không chịu theo chế độ mới, Ví dụ như vụ án của Hoàng Cơ Minh (Năm 1982, Hoàng Cơ Minh lập" Việt Nam canh tân cách mạng đảng ", là cơ quan đầu não, chỉ huy mọi hoạt động của" Mặt trận "; các thành viên" Mặt trận "đồng thời cũng là thành viên của" Việt Tân ") tìm cách liên hệ, móc nối từ bên ngoài xâm nhập vào lãnh thổ VN để lật đổ chính quyền cách mạng (sau đó bị tiêu diệt) ; Quỹ người Thượng là một tổ chức phản động chống phá Nhà nước Việt Nam, chia rẽ đoàn kết dân tộc, lấy cái gọi là thành lập" nhà nước Đề Ga "gây nên các cuộc bạo loạn vào tháng 2 năm 2001 và tháng 4 năm 2004 tại Tây Nguyên, vụ tấn công 2 ủy ban xã tại Đắk Lắk năm 2023 do người dân chưa có hiểu biết nên bị các đối tượng phản động lợi dụng chuộc lợi. Điều đáng quan ngại hơn, là vẫn có những cá nhân tung hô, cổ súy, cổ vũ cho tư tưởng ngụy quân ngụy quyền phản động này.

    Việt Nam có nhiều tập quán được lưu truyền trong đời sống xã hội, hình thành thói quen lâu đời trong các cộng đồng dân cư. Trong số đó, có nhiều tập quán thể hiện truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc; tuy nhiên, cũng tồn tại nhiều tập quán lạc hậu cần được xóa bỏ như: Chế hộ hôn nhân đa thê, Kết hôn giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có liên quan dòng họ trong phạm vi ba đời, hay Tục cướp vợ để cưỡng ép người phụ nữ làm vợ, việc Thách cưới cao mang tính chất gả bán (như đòi bạc trắng, tiền mặt, của cải) Hay Về việc tang, quan niệm của không ít đồng bào dân tộc thiểu số là mời thầy Tào, thầy Mo, thầy cúng yểm bùa, trừ ma và con cháu lăn đường, đội mũ rơm; một. Số gia đình dân tộc Tày ở tỉnh Lạng Sơn có tục viếng thông gia và tế lễ riêng. Khi cha mẹ mất thì các con (đã trưởng thành) phải mỗi người một lễ, Tế rườm rà. Tốn kém; rồi tục đưa đám trước 12 giờ đêm ảnh hưởng cộng đồng dân cư; một số. Bản, làng dân. Và còn cả những hủ tục mang tính man rợ, mất nhân tính như Mẹ chết, con bị chôn sống" Dọ-tơm-amí"là hủ tục của tộc người Bana và Jrai ở Tây Nguyên. Theo tục lệ này, nếu người mẹ chẳng may chết khi vượt cạn thì trẻ sơ sinh phải chết theo. Ngay cả những đứa trẻ đang trong giai đoạn bú sữa mà người mẹ qua đời thì cũng bị chôn sống cùng hoặc bỏ mặc giữa rừng. Đẽo sọ người chết Ở Ninh Thuận, cộng đồng Chăm Bàlamôn có tục đẽo sọ người chết thành những đồng xu nhỏ để nhập vào đá, gửi ước nguyện sẽ được vĩnh hằng và bất tử. Phơi xác chết hàng chục ngày rồi mới mai tang Theo phong tục của người Mông ở Hà Giang và Mường Lát - Thanh Hóa, khi có người chết, gia đình không bỏ vào quan tài ngay mà để người chết nằm ở bên ngoài từ 5 đến 7 ngày. Cả gia đình vẫn giữ lối sinh hoạt thường ngày, đút cơm, cho nước vào miệng người đã khuất. Sau nhiều ngày, thức ăn lên men, thậm chí ruồi nhặng bâu đen quanh mặt người chết, họ vẫn tiếp tục đút cơm như thế.


    Bài viết của mình đến đây là kết thúc, nội dung của mình vẫn còn nhiều thiếu sót, nếu có góp ý hãy để lại cho mình bình luận ở phía dưới! Còn nếu bài viết đem lại những thông tin hữu ích cho bạn thì hãy cho mình xin một lượt thích và chia sẻ để mình có động lực viết thêm nhiều bài viết hơn nữa nhé!
     
  2. Đăng ký Binance
  3. ManSilian

    Bài viết:
    15
    Khoa học mà có thể dự báo chính xác được tương lai.. mình không hiểu.

    "Theo triết học duy vật biện chứng, khoa học không thể dự báo chính xác tương lai một cách tuyệt đối nhưng có thể đưa ra các dự báo mang tính xác suất dựa trên quy luật khách quan và sự hiểu biết về mối quan hệ nhân quả. Điều này xuất phát từ nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng rằng mọi sự vật, hiện tượng đều vận động và phát triển theo quy luật, nhưng sự phát triển này chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố phức tạp và không ngừng thay đổi."
     
  4. Bát Bảo Muội Muội .

    Bài viết:
    55
    Ở đây mình sẽ lấy ví dụ cho bạn như thế này nhé ạ. Khi thực hiện một nghiên cứu khoa học, thì sẽ phải đưa ra mục đích nghiên cứu. Ở đây mục đích nghiên cứu có thể là những phát hiện mới của bạn hoặc là đi sâu làm rõ những gì các nhà khoa học khác đã chứng minh. Nhưng để đạt được điều đó thì bạn phải đưa ra những mục tiêu sát với thực tiễn, có tính khả thi thực hiện được. Và để đạt được những cái mục tiêu hay mục đích nghiên cứu thì bạn phải dựa vào tri thức, hiểu biết và những quy luật để đưa ra dự đoán về câu hỏi nghiên cứu, những nhiệm vụ nghiên cứu để đi tìm câu trả lời. Những dự đoán đó có thể mang tính quy luật nhưng trong đó cũng đã dự báo trước những xu hướng có thể xảy ra trong tương lai.

    Ví dụ như những nhà Xã hội học, khi nghiên cứu về xu hướng phát triển của xã hội, dựa trên tri thức và những phương pháp tính toán chuyên môn thì họ đưa ra các dự báo về xu hướng phát triển của xã hội. Từ đó giúp ích cho Nhà nước trong việc xây dựng những chính sách, bộ luật.. phù hợp với xu hướng phát triển và vận hành của xã hội. Xu hướng phát triển đó không phải là cố định, nên những nhà nghiên cứu luôn luôn phải theo dõi và đưa ra những dự báo mới và các bộ luật hay văn bản pháp luật thì vẫn luôn phải thay đổi, bổ sung để phù hợp hơn.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...