Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng --- Quang Dũng – là nhà thơ - chiến sĩ tiêu biểu trong thơ văn kháng chiến. Ông là một nghệ sĩ đa tài, vừa làm thơ, vẽ tranh, lại có thể soạn nhạc. "Tây Tiến" là bài thơ hay nhất của Quang Dũng cũng là một trong những bài thơ tuyệt bút viết về "anh bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến chống Pháp. Bài thơ viết cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh – Hà Tây sau khi tác giả rời xa đơn vị cũ. Lúc đầu bài thơ có tên "Nhớ Tây Tiến" sau đổi tên thành "Tây Tiến" được in trong tập "Mây đầu ô". Bao trùm cả bài thơ là nỗi nhớ da diết và niềm tự hào đối với đoàn quân Tây Tiến, đối với con sông Mã và thiên nhiên núi rừng Tây Bắc xa xôi. Đó là nỗi nhớ "chơi vơi" bao kỉ niệm đẹp và cảm động một thời trận mạc đầy gian khổ, hy sinh. Không chỉ thế "Tây Tiến" còn dựng lên đầy sống động bức chân dung những người lính Tây Tiến vừa kiêu dũng, ngoan cường vừa lãng mạn, hào hoa. "Tây tiến" đã làm nổi bật lên một hồn thơ hồn hậu, phóng khoáng, lãng mạn, thấm đượm nghĩa tình và tinh thần dân tộc của Quang Dũng, đặc biệt là đoạn thơ thứ ba đã khắc họa thành công hình tượng những người lính Tây Tiến với một vẻ đẹp bi tráng, vừa hào hùng lại vừa lãng mạn trong máu lửa: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành." Tây Tiến vừa chỉ hướng hành quân vừa là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 do Quang Dũng làm đội trưởng, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, đánh tan các cuộc tiến công biên giới Việt – Lào. Các chiến sĩ trong đội chủ yếu là những học sinh, sinh viên, trí thức Hà Nội. Cuộc sống nơi chiến địa gian khổ, thiếu thốn vật chất nhưng trong họ vẫn luôn ngời sáng phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ với tinh thần lãng mạn, lạc quan, dũng cảm, không sợ gian khổ. Đọc những dòng thơ đầu tiên, hiện lên trước mắt người đọc là chân dung người lính oai hùng, lẫm liệt, đậm chất bi tráng trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng thơ mộng, mỹ lệ của Tây Bắc: "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm" Hình ảnh "không mọc tóc" gợi ra sự bi hài của hoàn cảnh sống, chiến đấu gian khổ của các chiến sĩ Tây Tiến nhưng đậm khí chất ngang tàng. Hình ảnh "quân xanh màu lá" đối lập "không mọc tóc", "quân xanh" – "dữ oai hùm" gợi lên dáng vẻ xanh xao tiều tụy vì căn bệnh sốt rét, thiếu thuốc men, lương thực. Tuy nhiên, hơn hết từ trong sâu thẳm con người họ vẫn toát lên dáng vẻ hùng dũng oai nghiêm như những con hổ chốn rừng thiêng, làm nổi bật tính cách kiên cường, dũng cảm, không sợ hiểm nguy của người lính. Ở đây, Quang Dũng không hề che giấu những khó khăn, gian khổ nhưng nhà thơ cũng không miêu tả nó một cách trần trụi. Hiện thực ấy được khúc xạ qua bút pháp lãng mạn của Quang Dũng, trở thành cách nói mang khẩu khí của người lính Tây Tiến, cách nói rất chủ động "không mọc tóc" chứ không phải "tóc không thể mọc" vì sốt rét tạo nên nét dữ dội, ngang tàng, cứng cỏi của người lính Tây Tiến. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn vệ quốc quân "vệ trọc" đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Hai chữ "đoàn binh" mang âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế mạnh mẽ lạ thường của "Quân đi điệp điệp trùng trùng" (Tố Hữu). Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ: "Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu" Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô-típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông A. Dường như vẻ oai hùng cũng khiến người lính có phần dữ dằn nhưng sau vỏ bọc ấy là những tâm hồn lãng mạn luôn khao khát yêu thương: "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" Hai câu thơ như nuốt trọn hai thế giới ở trong mình, thế giới của giấc mộng chinh phục và giấc mộng giai nhân. Ban ngày, người lính "mắt trừng" đưa ánh mắt sục sôi căm thù của mình về phía quân địch để quyết tâm chiến đấu và chiến thắng dệt nên mộng quân tử. Hình ảnh "mắt trừng" còn thể hiện tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về thủ đô Hà Nội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ: "Từ thuở mang gươm đi mở nước Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long" Ban đêm, những chàng trai hào hoa gửi hồn mình để mơ dệt mộng giai nhân "dáng kiều thơm". Chiến tranh thật tàn khốc nhưng chiến tranh không thể cướp đi chất hào hoa của những chàng trai Hà thành. Không gì có thể ngăn được những phút giây mơ mộng trong tâm hồn người lính. "Dáng kiều thơm" là dáng vẻ thướt tha, yêu kiều, thanh lịch của người thiếu nữ Hà thành, là cái đẹp hội tụ sắc nước hương trời. Chính "dáng kiều thơm" ấy là động lực, niềm cổ vũ để thôi thúc các anh hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình. Đồng thời nó cũng là niềm khao khát của những người lính biên cương. Càng gian khổ người lính càng căm thù giặc, nung nấu ý chí quyết tâm chiến đấu đến cùng để tồn tại trong đạn bom khắc nghiệt, bảo vệ quê hương đất nước. Có một thời, người ta đã gán cho Tây Tiến những "mộng rớt", "buồn rớt" chính là vì những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ đã diễn tả vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn đa tình của người lính Tây Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp này trong bài thơ "Đất nước" : "Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu." Qua 4 câu thơ đầu ta có thể thấy được rõ nét sự tài hoa của Quang Dũng. Thủ pháp đối lập được sử dụng đắc địa trong việc khắc họa sự tương phản giữa ngoại hình ốm yếu và nội tâm mãnh liệt, dữ dội, ngang tàng của người lính Tây Tiến. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" - xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về, các chiến sĩ Tây Tiến cũng không khỏi tránh phải những mất mát, hy sinh. Không trốn tránh hiện thực, tác giả đã khắc họa sự hi sinh của người lính mang vẻ đẹp bi tráng, thanh thản, thầm lặng và cao cả: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" Các từ Hán Việt cổ kính, trân trọng, mượn ý thơ cổ "Chinh phụ ngâm", "biên cương, viễn xứ" tạo không khí nghiêm trang, âm hưởng bi hùng làm giảm đi sự lạnh lẽo, hoang vu của những nấm mồ "rải rác" nơi rừng hoang. Nếu tách câu thơ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Vẻ đẹp bi tráng còn thể hiện qua khí phách người lính, lí tưởng anh hùng lãng mạn, thái độ dứt khoát ra đi với tất cả ý thức trách nhiệm, không tính toán, sẵn sàng hiến dâng "đời xanh" tuổi trẻ nhiệt huyết cống hiến vì nghĩa lớn "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Cả câu thơ vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: "Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Hai câu thơ sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy, gây xúc động lòng người, lay động thiên nhiên: "Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành ." Nhà thơ đã nhắc đến một sự thật bi thảm: Người lính hy sinh trên đường hành quân đến một manh chiếu liệm cũng thiếu, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm "áo bào" sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa "da ngựa bọc thay", coi cái chết "nhẹ tựa lông hồng" : "Áo chàng đỏ tựa ráng pha Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in" Cách nói giảm nói tránh "về đất" làm vơi đi sự đau thương, mất mát, trong cách nhìn ấy, cái chết của người lính Tây tiến không chìm trong cái lạnh lẽo, bi lụy như trong thơ của Đặng Trần Côn "Hồn tử sĩ gió ù ù thổi" mà được cường điệu nhân hóa trong một âm hưởng hùng tráng ca của sông Mã - điển tích Kinh Kha để tiễn đưa hương hồn người chiến sĩ về với đất Mẹ với bao tiếc thương, cảm phục. Sông Mã là con sông chảy dọc chặng đường hành quân của Tây Tiến, chảy suốt chiều dài bài thơ. Nó không đơn thuần là một con sông trên bản đồ địa lý mà còn là dòng chảy cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ, là người bạn đồng hành, là chứng nhân lịch sử. Các anh hòa vào linh hồn đất nước để bất tử hóa cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng đất nước để nói lời từ biệt, lời biết ơn, ngợi ca đồng đội. Tây Tiến mùa xuân ấy như khúc ca còn vang mãi trong lòng mỗi người. Đoạn thơ viết về chân dung chiến sĩ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất trong bài. Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc cùng sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như nhân hóa, đối lập.. tạo nên những câu thơ có hồn và khắc họa được vẻ đẹp bi tráng của chiến sĩ Tây Tiến. Các chiến sĩ Tây Tiến đã sống anh hùng và chết vẻ vang. Chính vì thế mà hình ảnh người lính Tây Tiến, người lính cụ Hồ mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc: "Anh vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế!" (Tố Hữu) Từ sự kết hợp hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới. Bằng những câu thơ mang âm hưởng bi tráng, đoạn thơ khắc họa chân dung người lính từ ngoại hình đến nội tâm, đặc biệt là tính cách hào hoa lãng mạn bi mà không lụy. Những con người đã làm nên vẻ đẹp hào khí của một thời, mang phẩm chất chung của người lính cụ Hồ. Để từ đó Quang Dũng khẳng định, ngợi ca tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời qua đó thể hiện nét bút tài năng và tình cảm yêu mến, gắn bó, tự hào về trung đoàn Tây Tiến của nhà thơ.