Phân tích hình tượng Sông Đà - Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân

Discussion in 'Học Online' started by Alice101296, Jan 19, 2023.

  1. Alice101296

    Messages:
    30
    Trong văn học Việt Nam có biết bao dòng sông đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca, văn chương. Nhưng có lẽ, chưa có dòng sông nào cá tính, sống động như Sông Đà của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân gặp sông Đà giống như hai người tri kỉ gặp nhau nên ông viết về Sông Đà có một cái gì đó khiến chúng ta liên tưởng đến Nguyễn Tuân đang viết về chính mình. Với ngôn ngữ tài hoa, ông đã lay con sông vô tri thức dậy, tưới linh hồn vào nó, biến nó thành một hình tượng đa tính cách: Vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình.

    Sông Đà là hình tượng chính trong tuỳ bút "Người lái đò Sông Đà", và nó cũng chính là phông nền để chân dung người lái đò hiện lên. Sông Đà hiện lên ngay từ lời đề từ: "Chúng thuỷ giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu" (Mọi dòng sông đều chảy về Đông/ Riêng Sông Đà chảy về hướng Bắc). Nguyễn Tuân đã đối sánh "Đà giang" với "chúng thuỷ" để làm nổi bật hướng chảy độc đáo của một đoạn Sông Đà. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, Sông Đà là một dòng sông có bản lĩnh và đầy cá tính, dám chọn cho mình một lối đi riêng. Một dòng sông mà dưới các nhìn của Nguyễn Tuân trở thành một sinh thể sống có cả diện mạo lẫn tâm hồn, tính cách. Để làm nổi bật vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo của Sông Đà, Nguyễn Tuân đã ngược lên thượng nguồn của Sông Đà, nơi con sông chảy qua địa hình Tây Bắc nhiều đèo dốc, đồi núi gập ghềnh tạo nên dòng chảy xiết mạnh của dòng sông. Sự hùng vĩ và hung dữ của Sông Đà trước hết thể hiện ở cảnh "đá bờ sông dựng thành vách.

    Biện pháp nghệ thuật so sánh kết hợp với liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân đã diễn tả thành công độ cao của đá hai bên bờ sông, sự lạnh lẽo, âm u của những khúc sông có đá dưng vách thành. Đó là những đoạn dòng chảy của Sông Đà rất nhỏ và hẹp. Dòng sông hẹp đến mức:" Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời ". Chi tiết này vẽ ra hình ảnh những vách đá cao, dựng đứng cùng với khoảng cách hai bên bờ sông hẹp khiến ánh sáng mặt trời không thể chiếu vào mặt sông. Bởi vậy, chỉ giữa trưa khi ánh sáng chiếu thẳng mới lọt được vào Sông Đà. Khung cảnh ven sông vừa kì vĩ hoành tráng vừa âm u, rợn ngợp. Bên cạnh đó, tác giả còn lấy một bộ phận nhỏ, hẹp ở cổ họng con người để miêu tả sự nhỏ, hẹp của dòng sông:" Có vách đá chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu ". Hình ảnh Nguyễn Tuân miêu tả giúp cho người đọc không chỉ hình dung được sự nhỏ, hẹp mà từ" chẹt "còn gợi cảm giác bức bối, khó chịu khi nước sông bị đá chẹn lại. Để tô đậm thêm cho sự nhỏ hẹp của sông, nhà văn lại sử dụng liên tiếp 2 hình ảnh:" Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bờ bên kia vách: Và "có quãng con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia". Đi vào những quãng sông như thế con người ta không thể không cảm thấy nguy hiểm đang rình rập. Cuối cùng, để khắc sâu ấn tượng về độ cao của vách đá, sự lạnh lẽo, u tối của đoạn sông và sự nhỏ hẹp của dòng chảy bằng một hình ảnh so sánh độc đáo: "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Thật thú vị, bất ngờ khi nhà văn so sánh cảm giác của con người giữa thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ với một khoảnh khắc của đời sống hiện đại giữa chốn thị thành. Tưởng như xa cách mà lại hóa gần, ai chưa có dịp trải nghiệm cái cảm giác "ngồi trong khoang đò qua quãng ấy" cũng có thể cảm nhận được điều đó trong một hiện thực rất gần với mình. Phải là một người có óc tưởng tượng sáng tạo và trường liên tưởng phong phú Nguyễn Tuân mới tạo ra được những đoạn văn độc đáo, thú vị đến vậy. Cảnh đá bờ sông hiện lên vô cùng sống động, trang văn của Nguyễn Tuân đã đi đến tận cùng của cái hẹp, sâu, lạnh, tối, dựn đứng của thành vách đá Sông Đà.

    Sự hung bạo của Sông Đà tiếp tục được đẩy lên cao hơn trong đoạn văn miêu tả "cảnh mặt ghềnh Hát Loóng". Với kiến thức địa lí uyên bác, cùng với sự khảo sát chi tiết, tỉ mỉ Nguyễn Tuân đã cho người đọc biết: Trong số 73 ghềnh thác trên Sông Đà thì mặt ghềnh Hát Loóng chính là nơi dài nhất, nguy hiểm nhất. Để diễn tả được điều này, Nguyễn Tuân đã dùng một câu văn đầy giá trị tạo hình: "Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào qua quãng ấy". Ở câu văn này, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ khả năng sáng tạo ngôn ngữ bậc thầy, một "người thợ kim hoàn của chữ". Đúng như nhà văn Anh Đức từng nhận xét: "Ngẫm không biết đến chừng nào mới có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng". Thứ nhất, câu văn tuy dài song lại không tạo nên cảm giác dàn trải, chậm rãi vì được tác giả chia thành nhiều vế ngắn, tạo nhịp điệu nhanh, mạnh, gấp gáp. Nhiều nhịp ngắn kết hợp với nhịp dài ở cuối đoạn khiến cho những chuyển động của sóng, của gió và đá ngày càng lớn, càng bức thúc tạo nên một mối đe dọa thực sự đối với bất cứ người lái đò nào đi qua những ghềnh thác như thế. Thêm nữa, biện pháp tu từ điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc.. "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió.." đã tạo nên một phản ứng dây chuyền, tạo vòng tròn kín khít giữa bốn đối tượng: Nước, đá, sóng, gió. Bình thường mỗi thế lực này đã mang sẵn trong mình sức mạnh ghê gớm của tự nhiên, nay chúng lại được gối lên nhau để tạo nên một sức mạnh vô cùng khủng khiếp. Đó là một vòng quay vĩnh viễn, không ngừng nghỉ, sống động, dữ dội của cảnh sắc nơi đây. Đặc biệt, lối viết ngược "sóng xô gió" (vì "sóng bắt đầu từ gió") đã biểu đạt sức mạnh dị thường của dòng chảy. Cuối cùng, từ láy "gùn ghè" và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào "cũng như đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy" đã thể hiện sinh động sự hung hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông ngày đêm hăm dọa, uy hiếp con người. Qua một đoạn văn ngắn, tác giả không chỉ đặc tả được sự hùng vĩ, dữ dội của quãng mặt ghềnh Hát Loóng mà còn khắc trạm được tâm tính, diện mạo của Sông Đà hiểm ác, bạo ngược.

    Bất cứ ai cũng có thể hình dung ít nhiều về những chỗ xoáy nước xiết trên sông, nhưng nó không thể hiểm độc bằng những cái hút nước Nguyễn Tuân miêu tả trên Sông Đà. Để miêu tả hình ảnh này, tác giả đã huy động rất nhiều kiến thức của nhiều ngành nghề khác nhau, nhìn dòng sông từ nhiều góc độ, nhiều giác quan, nhiều vị thế trải nghiệm để tạo ra những ấn tượng về sự ghê rợn của những cái hút nước trên Sông Đà. Trước hết là ấn tượng về hình ảnh: "Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu". Phép so sánh cùng với kiến thức ngành xây dựng ở đây đã giúp người đọc hình dung được sự thẳng đứng, độ sâu hun hút của những cái hút nước. Tiếp theo hình ảnh "Trên mặt cái hút nước xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn" đã gợi lên bao sự chết chóc. Trong văn hóa và tâm thức của con người Việt Nam, quạ là con vật gắn với điềm gở, sự đen đủi và chết chóc. Bản thận sự xuất hiện của những hình ảnh này đã tạo nên ấn tượng ghê rợn nhưng tác giả còn tô đậm thêm bằng việc tạo hình dáng bay lừ lừ của cả đàn quạ trên mặt sông những chỗ có cái hút nước. Câu văn tạo cảm giác như cái chết đang bủa vây, không có cách nào thoát được. Ấn tượng nhất là âm thanh của những cái hút nước: "Nước ở đây thở và kêu như của cống cái bị sặc", "những cái giếng sâu nước ằng ặc lên như vừa rót dầu sôi vào". Hai chữ "ằng ặc" mô phỏng rất tài thứ âm thanh quái vật, khiến sông Đà như loài thuỷ quái bị bóp cổ đang quằn quại. (ằng ặc: Gợi tả âm thanh của đối tượng bị thắt lại, trào lên). Sau đó nhà văn đã minh chứng cho sự ghê rợn của những cái hút nước: Đi qua những cái hút nước có thể liên tưởng giống như đi trên một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực, muốn vượt qua được đoạn đường đó thì ô tô phải "sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua". Nghĩa là muốn thoát chết khi đi qua những cái hút nước trên Sông Đà con thuyền phải đi vào gần sát mép cái hút nước nhưng phải vút qua thật nhanh, chuyển động với tốc độ cao, gấp gắp, vượt qua khoảnh khắc sinh tử cận kề. Đây thực sự là một cảm giác rất phiêu lưu, mạo hiểm. Thuyền, bè bị lôi tuột vào cái hút nước thì sẽ dẫn đến hậu quả: "Thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Tất cả những hình ảnh trên đã đưa đến một ấn tượng thật sâu đậm về sức mạnh khủng khiếp của hút nước sông Đà. Tài hoa và độc đáo nhất trong việc miêu tả những cái hút nước chính là việc tác giả tạo ra một giả tưởng li kì, dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận dáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng anh bạn quay phim táo tợn. Vì thế, những cái hút nước đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh. Nhà văn đã liên tưởng đến cảnh một anh bạn quay phim táo bạo đã dũng cảm ngồi vào một chiếc thuyền thúng để cả mình và máy quay rơi vào cái hút nước của Sông Đà. Để rồi từ đáy cái hút nước nhìn ngược lên, quay được toàn cảnh cái hút nước. Một khung cảnh thật tráng lệ, tuyệt mĩ hiện ra: Một cái thành giếng "xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày" và khối thuỷ tinh ấy có thể "vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim và cả người xem". Rõ ràng, cái đẹp mà Nguyễn Tuân hướng đến ở đây là cái đẹp mang tính chất tráng lệ, phi thường. Không dừng lại ở đây, nhà văn lại tiếp tục liên tưởng đến cảm giác của người xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy sẽ truyền đến cho người xem cảm giác: Đang lấy gân "giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng" mà chiếc lá rừng ấy vừa bị vứt vào một chếc cốc pha lê khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn. Bằng những liên tưởng vô cùng phong phú, Nguyễn Tuân đã đưa ta đến một bữa tiệc cảm giác. Đáng chú ý là, trong đoạn văn này, Nguyễn Tuân còn sử dụng từ ngữ rất độc đáo. Nếu trong thơ có những chữ "lấp lánh", "kêu giòn và tỏa hương" (Pauxtoxky) thì trong trang văn của "ông vua tuỳ bút" cũng có những chữ như thế. Chữ "áng" trong câu "áng thuỷ tinh đúc dày" thật giàu giá trị. Từ "áng" chỉ cái đẹp, tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao như "áng văn chính luận mẫu mực" để nói về "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh, "áng thiên cổ hùng văn" để nói về "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Ở đây, Nguyễn Tuân lại dùng từ "áng" để chỉ những cái hút nước Sông Đà. Ông quả đúng là "người nghệ sĩ đi tìm cái đẹp, cái độc đáo". Ông không chỉ thấy được nghệ thuật ở phương diện trữ tình mà còn cảm nhận được nghệ thuật trong sự hung bạo, dữ dội của dòng chảy. Có thể nói, Nguyễn Tuân đã mĩ hóa sự hung bạo của Sông Đà. Đọc những trang tuỳ bút của Nguyễn Tuân, người đọc có cảm giác như nhìn thấy con mắt của Nguyễn Tuân đầy cảm hứng, cảm xúc trữ tình, đắm say, ngưỡng mộ trước kì quan, tuyệt tác của tạo hóa – Sông Đà.

    Sự hung bạo của Sông Đà không chỉ được thể hiện ở dòng chảy cuộn xiết, những ghềnh thác mà con người có thể cảm nhận bằng mắt. Sự hung bạo của nó còn được thể hiện ở tâm địa, những mưu mô xảo quyệt vừa thâm hiểm vừa độc ác. Khi còn xa mới tới thác: Nhà văn miêu tả thác nước Sông Đà qua âm thanh. Từ âm thanh giúp người đọc liên tưởng đến hình ảnh. Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh tiếng nước thác bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ của con người: Khi "oán trách"... "

    Van xin", khi "khiêu khích" "giọng gằn mà chế nhạo". Với việc liệt kê ra một loạt từ chỉ cảm xúc ấy, Nguyên Tuân đã gợi ra vô vàn các cung bậc khác nhau, cực kì đa dạng của âm thanh thác nước. Sông Đà thực sự đã trở thành một sinh thể sống đang giận dữ gầm gào, de dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Đặc biệt, nhà văn đã sử dụng các từ ngữ miêu tả âm thanh thác nước theo mức độ tăng tiến cả về âm lượng và sắc thái cảm xúc. Điều đó vừa gợi được sự hung hãn của dòng sông vừa gợi tả được khoảng cách ngắn dần giữa người quan sát với thác đá Sông Đà. Mặt khác, đây cũng là cách để làm tăng dần cảm giác hãi hùng, hồi hộp, tò mò đầy hứng thú cho người đọc. Tất cả cho thấy, mối hiểm nguy của Sông Đà không đơn giản và khó lường trước. Độc đáo nhất là hình ảnh so sánh trong câu văn: "Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng". Nguyễn Tuân quả là đã "chơi ngông", một cái ngông mà không ai làm được. Ông đã lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy tiếng gầm thét của đàn trâu mộng đang trong cơn nguy khốn để tả tiếng nước thác ào ào từ trên cao đổ xuống. Cách liên tưởng đó khiến người đọc như được dẫn ngược về với nạn động đất động rừng thời tiền sử. Ở đó, những khu rừng hoang dại đang bốc cháy, những đàn trâu da của chúng đang cháy "bùng bùng" và chúng đang "rống lên" hoảng loạn tìm hướng chạy thoát thân. Trong câu văn này, Nguyễn Tuân không chỉ thay đổi giác quan của chính ông mà còn nới rộng giác quan của người đọc. Trong bài thơ Tây Tiến Quang Dũng đã viết: "Chiều chiều oai linh thác gầm thét", đến Tuỳ bút "Người lái đò Sông Đà" của Nguyễn Tuân, người đọc đã thực sự được nghe, được cảm nhận âm thanh "gào thét" của thác nước. Đó là âm thanh vang động cả núi rừng, âm thanh ghê rợn man dại, hung dữ để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người. Như vậy, với sự kết hợp độc, lạ về ngôn từ, Nguyễn Tuân đã tạo nên một khúc tráng ca về âm thanh. Dù chưa hề nhìn thấy thác nhưng cũng cảm nhận được sự dữ dội của thác đá Sông Đà. Đọc những câu văn trên, người đọc càng hiểu sâu sắc năng lực sáng tạo hình ảnh độc đáo của Nguyễn Tuân. Khi thác đá hiện ra: Nhà văn đồng thời miêu tả cả đá và nước thác. Càng đến gần, bản chất hung bạo, dữ dội, nham hiểm của thác dữ Sông Đà càng hiện lên chân thực, cụ thể và đáng sợ hơn. Nhà văn đã miêu tả từ khái quát đến cụ thể. Câu văn đầu tiên khi đến thác "tới cái thác rồi" ngắn gọn, như một tiếng reo thích thú. Phải chăng, nhà văn muốn truyền cái cảm giác hứng thú đến người đọc khi đang dấn sâu vào cuộc thuỷ chiến trên Sông Đà. Thật đúng với phong cách nghệ thuật của cụ Nguyễn: Ưa tìm những cảm giác sắc nhọn. Lực lượng đá hùng hậu: "Sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá". Câu văn đã gợi mở một không gian hùng vĩ, mênh mông của đá Sông Đà. Đá Sông Đà chẳng khác nào một đội quân hùng mạnh với đủ tường dữ, quân tợn. Diện mạo dữ tợn: "Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược", "hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó". Ba từ láy: "Ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó" được nhân cách hóa để đặc tả hình dáng đá. Đó là hình dáng du côn của thiên nhiên hoang dã. Tác giả truyền cái hồn sống cho từng thớ đá, tạo nên những sắc diện người trong hình đá vô tri. Vì thế mà hòn thì như đang "hất hàm hỏi các thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến". Hòn khác lại như thách thức con thuyền "có giỏi thì tiến vào". Có thể nói, từ quan sát thực tế, lọc qua trí tưởng tượng phóng khoáng nhà văn đã thấy được cả tâm hồn của đá qua hình vẻ bề ngoài.

    Tâm địa xảo quyệt: Được thể hiện qua các chi tiết: "Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông" . Nghĩa là đá giấu mình dưới mặt nước đợi thời cơ thuận lợi. Khi con thuyền tới, chúng sẽ "nhổm cả dậy vồ lấy thuyền". Như vậy, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân đá ở đây không bất động mà chúng biết hành động để tấn công con người. Biện pháp nhân hóa ở đây "mai phục" không chỉ diễn tả được cho người đọc thấy những nguy cơ bất trắc, tiềm ẩn của giới tự nhiên mà còn thể hiện tâm địa xảo trá, nham hiểm, một thứ trí tuệ của sông nước. Đá còn bày "thạch trận trên sông", dàn sẵn trận địa đưa con thuyền vào thế hiểm nghèo để tấn công. Nguyễn Tuân đã khắc họa Sông Đà không chỉ băng cái nhìn địa lí, cái nhìn điện ảnh mà bằng cả giác quan tinh tường và sự tỉnh táo của một nhà quân sự. Vì vậy trận địa thác đá Sông Đà đã hiện lên như là một nơi mai phục của cả một lực lượng đông đảo, hùng hậu, hiếu chiến của lũ người đá. Đá bày thạch trận dưới lòng sông để lừa người và thuyền vào cửa tử. Vòng 1: Mở ra 5 cửa: 4 cửa tử, 1 cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn (phía trái). Vòng 2: Tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại lệch qua phía bờ hữu ngạn. Vòng 3: Ít cửa hơn, bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói, cùng viết về sự hùng vĩ ở khúc thượng nguồn của các dòng sông; cùng vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực để khắc họa hình tượng; cùng có những liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ; cùng được viết bằng một thứ văn xuôi đậm chất trữ tình, giàu hình ảnh, âm thanh và nhịp điệu. Nhưng sông Đà của Nguyễn Tuân và sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường có những vẻ đẹp độc đáo riêng. Nếu sông Hương được tô đậm ở vẻ đẹp nữ tính, ở đoạn thượng nguồn, sự dữ dội của sông Hương được miêu tả giống như "cô gái di – gan phòng khoáng và man dại". Thì đến với Sông Đà của Nguyễn Tuân, người đọc thực sự được chiêm ngưỡng một con sông phi thường, khác lạ. Một con sông mang phẩm chất của một tướng lĩnh với vẻ đẹp và sức mạnh trí tuệ của tự nhiên. Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng nhiều kiến thức của: Quân sự, võ thuật, thể thao.. để miêu tả Sông Đà hung bạo, dữ dội. Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, dòng sông hiện lên như một loài thuỷ quái khổng lồ, khôn ngoan, mưu trí, nham hiểm, hung ác và có diện mạo, tâm địa như một thứ kẻ thù số một của con người. Nhà văn đã giúp dòng sông trở nên sống động hơn, không còn là dòng chảy vô tri mà trở thành một sinh thể, một thế lực quyền năng thách thức con người trong quá trình chinh phục tự nhiên. Có lẽ, bất cứ tay lái đò lão luyện nào cũng phải thốt lên rằng: "Bất đáo Đà giang phi hảo hán". Sông Đà chính là biểu tượng cho sức mạnh và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, đất nước.

    Nếu dữ dằn quá sẽ làm người ta sợ, hiền lành quá sẽ làm cho người ta chán. Vì vậy, Nguyễn Tuân đã xây dựng Sông Đà là một con người đa tính cách. Sông Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân vừa hung bạo như một loài thuỷ quái nham hiểm và độc dữ vừa dịu dàng, đắm say như một mỹ nhân Tây Bắc. Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là cảnh đá boè sông dựng vavhs thành, cảnh mặt ghềnh Hát Loóng "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió", cảnh những cái hút nước "chết người", thác đá gào thét.. Cuối đoạn trích, tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông.

    Để miêu tả vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà, Nguyễn Tuân lại xuôi về phía hạ lưu của Sông Đà. Ông quan sát dòng sông từ nhiều góc độ không gian và thời gian khác nhau. Có khi là trên tàu bay nhìn xuống, hay từ trong rừng nhìn ra hoặc từ trên thuyền nhìn lên, lúc vào mùa xuân, khi lại là mùa thu.

    Tóm lại, Sông Đà trữ tình được cảm nhận từ ba vị trí: Trên cao nhìn xuống, trong rừng nhìn ra (trên bờ), dưới thuyền nhìn lên bờ.

    Từ trên cao nhìn xuống: Sông Đà có dáng hình mềm mại, thướt tha. Ở vị trí này, Sông Đà được so sánh: "Cái dây thừng ngoằn ngoèo". Hình dáng này đã giúp người đọc hình dung được sự uyển chuyển, mềm mại, uốn lượn quanh núi rừng Tây Bắc của Sông Đà. Một vẻ đẹp đối lập đến mức không ai có thể tin đó là con sông bao đời nay "làm mình làm mẩy với người Tây Bắc", "giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà". Cũng không ai nghĩ đó là con sông của cuộc chiến giữa thần nước Thuỷ Tinh với thần núi Sơn Tinh. Vì thua cuộc nên hàng năm Thuỷ Tinh làm mưa làm gió, dâng nước để đòi lại Mị Nương. "Núi cao sông hãy còn dài/ Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".

    Hơn nữa, sợi dây thừng mềm mại ấy lại nằm giữa một "đại dương đá". Sự đối lập một lần nữa đã tô đậm thêm tính cách độc đáo của sông Đà. Một con sông đa tính cách, và thay đổi thất thường như người con gái đang yêu, lúc "dữ dội" "ồn ào" lúc lại "dịu êm" "lặng lẽ". Đẹp nhất là hình ảnh so sánh: "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Câu văn chứa đến hai tầng miêu tả: Tầng thứ nhất" con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình "." Tuôn dài "được điệp lại liên tiếp hai lần, không sử dụng dấu câu (dấu phẩy) ngăn cách như thông thường mở ra trước mắt người đọc độ dài bất tận của dòng sông. Mái tóc của Đà giang như nối dài ra mãi, trùng điệp giữa màu xanh lặng lẽ của núi rừng. Và đây là lần thứ hai, Nguyễn Tuân sử dụng từ" áng "(lần một:" Áng thuỷ tinh khối đúc dày "). Cùng nói về sự tuyệt mỹ của dòng sông nhưng nếu lần trước Nguyễn Tuân gợi mở cái đẹp trong sự hùng vĩ thì lần này là cái đẹp lãng mạn, thơ mộng. Tầng thứ hai," đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân ". Hai chữ" ẩn hiện "cùng với không gian mênh mông, mộng mơ của" mây trời Tây Bắc ", với hình ảnh đậm chất Tây Bắc" cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân "đã gợi vẻ đẹp kín đáo, bí ẩn của dòng sông. Những hình ảnh này gợi cho người đọc liên tưởng đến cái ẩn hiện thấp thoáng trong" Tây Tiến "của Quang Dũng trong câu thơ" Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi "hay" Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ "trong thơ của Chế Lan Viên. Bên cạnh đó, mái tóc dài của Đà giang còn được tô điểm bởi" hoa ban "," hoa gạo "bung nở đầy sức sống. Hình ảnh này đã làm tăng thêm vẻ đẹp kiều diễm của dòng sông. Đặc biệt, trong câu văn này tác giả dùng rất nhiều vần bằng, chính điều đó đã tạo nên ấn tượng về một dòng chảy nhẹ nhàng, êm đềm của dòng Sông Đà ở hạ nguồn. Câu văn của Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy sự say mê của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp của Tổ quốc. Nhà văn của những vẻ đẹp" vang bóng một thời "nay đã có sự thay đổi trong quan điểm thẩm mĩ. Cái đẹp không còn cô đơn, lạc lõng, xa xôi, cái đẹp hiện ra ngay giữa cuộc đời bình dị, giữa thiên nhiên tươi đẹp của quê hương, đất nước. Câu văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp được coi là" tờ hoa "trong văn học Việt Nam. Màu nước Sông Đà thay đổi theo mùa. Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường phát hiện ra màu nước sông Hương thay đổi theo thời gian trong ngày" sớm xanh, trưa vàng, chiều tím "; thì Nguyễn Tuân lại nhìn thấy nước sông Đà thay đổi theo mùa. Nguyễn Tuân đã viết:" Tôi đã nhìn say sưa.. tôi đã xuyên qua.. "Có nghĩa là phát hiện về sắc nước sông Đà là kết quả của những trải nghiệm, quan sát thực tế cùng với cảm hứng say đắm và tha thiết. Mùa xuân nước sông Đà" xanh ngọc bích ". Một màu xanh trong, sáng và sâu. Màu xanh ấy có được là bởi sự kết hợp của nhiều yếu tố: Ánh sáng, dòng chảy, nước.. Chính vì vậy nó khác hẳn cái màu" xanh canh hến "của sông Gâm, sông Lô. Nhà văn đã lấy một sắc xanh không có trong bảng màu:" Xanh canh hến "để so sánh phủ định, thể hiện sự ưu ái, thiên vị với con sông mình yêu quý. (Màu nước sông Đà không có màu xanh nhờ đục do pha phù sa như sông Gâm, sông Lô). Màu nước sông Đà mùa xuân mang màu xanh của sự sống, của những" búp ngô non ", cỏ gianh" nõn búp ". Sắc xanh của dòng sông là sắc xanh trong khu vườn của Hàn Mặc Tử ta đã từng bắt gặp" vườn ai mướt quá xanh như ngọc ". Mùa thu màu nước sông Đà lại biến đổi trái ngược hoàn toàn" nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa" "lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về". Nguyễn Tuân đã so sánh màu nước sông với sắc màu bệnh lí của khuôn mặt người. Hơn nữa, ông còn dùng sắc thái tâm lí, nỗi bực bội của con người để tả màu nước sông. Quả đúng "nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo", quá trình sáng tạo tác phẩm văn học là một quá trình sản xuất "riêng lẻ, cá biệt". Nguyễn Tuân đã sử dụng một phép so sánh khác trường nghĩa, táo bạo. Điều đó đã khơi mở các giác quan của người đọc, buộc ta thoát khỏi những tư duy tình cảm thông thường để rồi gật gù thốt lên: Sao liên tưởng lạ lùng mà chính xác nhường ấy, mà gọi trúng bản chất sự vật đến vậy. Ông không chỉ làm hiện hên màu sắc rất đặc trưng của nước sông Đà trong mùa thu mà còn thể hiện được sức mạnh tiềm tàng, ẩn chứa của một dòng sông có tính cách thất thường. Sắc nước hai màu đối chọi gay gắt, cho thấy sự biến đổi lạ lùng của dòng chảy và sự quan sát tinh nhạy của người nghệ sĩ. Nguyễn Tuân đã tạo ra một áng văn giàu chất hội họa. Chính sự quan sát tỉ mỉ nước sông trong thời gian lâu dài, Nguyễn Tuân đã thẳng thắn phản bác và bực bội khi thực dân Pháp đã gọi một cách lếu láo trên bản đồ: Sông Đà là sông Đen. Tình yêu tha thiết với non sông gấm vóc và lòng tự tôn dân tộc sâu sắc.

    Từ trong rừng ra (trên bờ) – Cảm nhận sông Đà như một cố nhân. Trước hết, nhà văn đã gọi Sông Đà là "cố nhân". Hai chữ "cố nhân" vừa là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ, vừa mang đến cho dòng sông chút vương vấn cổ kính, xưa cũ của Đương thi. Lý Bạch cũng đã từng dùng từ này trong câu thơ "cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu" để chỉ người đã thân thiết từ rất lâu, người bạn tri âm, tri kỉ. Ở đây, Nguyễn Tuân và Sông Đà cũng là những người bạn như vậy. Hơn nữa, "cố nhân" còn gợi cảm xúc bâng khuâng, da diết của một nối nhớ sâu đậm. Tiếp theo, Nguyễn Tuân lí giải cảm xúc với người bạn Sông Đà bằng một kỉ niệm, một trải nghiệm của chính ông: "Chuyến ấy ở rừng đi núi hơi lâu" bất ngờ gặp lại dòng sông yêu thương, niềm vui đã vỡ òa trên trang văn bằng một loạt cấu trúc câu so sánh đặc biệt. Từ rừng nhìn ra mặt sông: Thấy loang loáng giống như "trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy". Đó là vẻ đẹp của kí ức tuổi thơ, sự tinh nghịch, hồn nhiên của trò chơi trẻ con. Nắng chiếu trên mặt sông đà đẹp đến "mê hồn". Nguyễn Tuân đã tạo ra một kết hợp từ độc đáo: "Nắng tháng ba Đường thi". Trong câu văn có cả màu sắc, thời gian và thi ca. Câu văn đã đưa người đọc trở về với vẻ đẹp lãng mạn của thơ Dường: "Yên hoa tam nguyệt há Dường Châu" (Lí Bạch). Liên tưởng của nhà văn làm xao xuyến những tâm hồn luôn yêu nhớ phong vị Đường thi cổ điển, để rồi nỗi xao xuyến ấy mơ hồ lan tỏa trên dòng sông gợi cảm, khiến sông Đà không chỉ chảy trong không gian mà còn trôi chảy trong dòng thời gian.. xa xăm của thế giới Đường thi (Trịnh Thu Tuyết). Ấn tượng để lại cho người đọc ở đoạn này là hình ảnh một dòng sông phẳng lặng, yên bình, trong sáng, lấp lánh và đầy sắc xuân. Câu văn tiếp theo: "Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà" nhà văn đã sử dụng dày đặc các biện pháp tu từ tiếng Việt. Điệp ngữ "Sông Đà"; phép liệt kê (bờ, bài, chuồn chuồn bươm bướm) ; cấu trúc câu đặc biệt chỉ có danh từ; câu văn ngắn, giữa các vế có sự trùng điệp về cấu trúc tạo nên nhịp điệu nhanh, dồn dập. Tất cả đã dựng dậy trước mắt độc giả bức tranh xứ sở thần tiên, phong phú, sống động. Dường như cái nhìn của Nguyễn Tuân chạm tới đâu là cảnh sắc, vẻ đẹp hiện lên tới đó. Người đọc gián tiếp thấy được bước chân nhanh vội để đến với người bạn đã lâu không gặp của Nguyễn Tuân. Niềm vui tười, háo hức ngấm vào từng từ từng chữ chất thơ ngấm vào từng hình ảnh thiên nhiên. Cảm xúc được bộc lộ trực tiếp: "Chao ôi! Trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Thán từ: "Chao ôi" : Thể hiện sự ngỡ ngàng, trào dâng, hạnh phúc. Đây là hai hình ảnh so sánh rất lạ vì những đối tượng được mang ra so sánh đối lập nhau: "Nắng giòn tan" là một ẩn dụ đẹp gợi ra cái nắng trong trẻo, nhẹ nhàng, hoàn toàn tương phản với cái u ám, trĩu nặng của bầu trời những ngày mưa dầm. Cách so sánh này giúp người đọc dễ dàng hình dung ra niềm vui của sự mong đợi đã lâu của nhà văn được thỏa mãn. Đặc biệt, "nối lại chiêm bao đứt quãng" là một việc gần như không thể có trong đời người. Và nó càng hi hữu, càng hiếm hoi, đáng quý bao nhiêu thì càng đem lại cảm giác sung sướng, thú vị bấy nhiêu. Nguyễn Tuân đã dùng những niềm vui khác nhau, những cảm giác đời thường mộc mạc, chân thật để tả niềm vui khi gặp lại con sông. Nguyễn Tuân đã nhiều lần tới Sông Đà, và bất cứ lúc nào muốn ông đều có thể tới với "cố nhân" của mình. Vậy mà qua so sánh có thể thấy cảm giác khi gặp lại dòng sông, lần nào cũng tươi mới, kì diệu như được tận hưởng niềm vui chưa từng có trong đời, "lần gặp nào cũng như đó là lần đầu tiên, lần cuối cùng, lần duy nhất" (Trịnh Thu Tuyết). Cuối cùng, nhà văn nhấn mạnh lại một lần nữa cảm giác đi rừng dài ngày gặp lại Sông Đà bằng hình ảnh so sánh: "Nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân". Hai từ láy "đằm đằm ấm ấm" gợi cảm giác ấm áp, trìu mền. Sông Đà đã thực sự trở thành người bạn cũ với bao kỉ niệm, tình yêu thương và nhớ nhung. Dù người bạn ấy "lắm bệnh lắm chứng" "chốc dịu dàng đấy" "chốc lại bẳn tính và gắt gỏng". Sông Đà nhìn từ góc độ nào cũng luôn mới mẻ, bất ngờ. Thật là một dòng sông cố nhân, tình nhân trái tính mà mê hoặc lòng người.

    Từ dưới thuyền nhìn lên bờ: Câu văn mở đầu toàn thanh bằng: "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà" tạo âm hưởng nhẹ nhàng, thanh thoát. "Câu văn đã đưa con thuyền, nhà văn và cả người đọc vào một cõi mơ êm đềm, yên ả, một cõi hoang sơ vắng lặng như chưa từng có dấu vết của con người" (Trịnh Thu Tuyết). Cảnh ven sông: "Lặng tờ" : Điệp lại hai lần, gợi ra không gian yên tĩnh hoàn toàn, không một tiếng động. Khung cảnh nơi đây dường như chưa từng đổi thay từ thủa khai thiên lập địa đến giờ: "Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Tác giả đã đẩy dòng sông về quá khứ để nó trở nên nguyên sơ, trong trẻo, tĩnh lặng và tinh khiết. Thiên nhiên hài hòa và mang vẻ đẹp nguyên sơ tràn trề sức sống: Lá ngô non đầu mùa, cỏ gianh nõn búp, một đàn hươu, đẫm sương đêm. Tất cả đều tinh khôi, non tơ, ngọt ngào hương sữa. Dường như mọi vật đang cựa quậy, đang bung ra trong màu xanh mỡ màng, mơn mởn. Để rồi thiên nhiên bống biến thành khu vườn cổ tích. Bờ sông: "Hoang dại như một bờ tiền sử", "Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Đây là những so sánh lạ lẫm, chính xác mà cũng thật Nguyễn Tuân. "Bờ tiền sử" gợi kí ức về thủa hồng hoang của nhân loại. Ở đây, nhà văn muốn nhấn mạnh vẻ đẹp hoang sơ như chưa có dấu chân của con người. "Tuổi xưa" (không phải ngày xưa, thủa xưa) đã đánh thức miền hoài niệm của mỗi cá nhân về thế giới cổ tích có ông Bụt, bà tiên. Nguyễn Tuân đã giải thích một đặc tính vốn đã khá trừu tượng bằng nhưng khái niệm trừu tượng hơn nữa. Điều đó khiến trí tưởng tượng của độc giả được phiêu lưu, trôi theo con thuyền êm đềm, yên ả đi vào thế giời huyền ảo của cổ tích. Trong thế giới ấy, người đọc sẽ cảm nhận rõ hơn sự "lặng tờ" "hoang dại" của một dòng sông trong trẻo, yên ả. Niềm mong ước của tác giả: "Thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp – lê của một chuyến xe lửa". Niềm khao khát này không chỉ là ước mơ hiện đại hóa miền Tây Bắc, giống như Chế Lan Viên từng giả tưởng trong bài thơ "Tiếng hát con tàu" – "Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?". Niềm mơ ước ấy còn là biểu tượng của âm thanh cuộc sống hiện tại, giúp nhà văn nhận ra rằng mình vẫn đang ở thế giới thực của hiện tại, vẫn là con người trong nền văn minh hiện tại. Đặc biệt nhất là hình ảnh: "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh có sương.. tiếng nói riêng của con vật" chi tiết này đã làm tăng thêm vẻ đẹp thần tiên của Sông Đà. Cảnh vật hai bên bờ sông yên tĩnh đến khôn cùng, yên tĩnh đến mức người va vật có thể giao cảm để lặng tìm âm thanh từ tâm hồn. Sông Đà không chỉ thơ mộng mà đó còn là dòng sông của sự giàu có và trù phú: "Đàn cá.. tiếng cá đập nước sông". Nhà văn đã sử dụng bút pháp cổ điển: Lấy động tả tĩnh. Không gian tĩnh lặng quá khiến con người có thể nghe được cả âm thanh cá quẫy rộn ràng âm vang. Để gia tăng thêm chất trữ tình cho dòng sông, Nguyễn Tuân đa khéo léo trích dẫn một vài câu thơ của Tản Đà, Nguyễn Quang Bích mà không cần thêm bất cứ lời bình lụan nào. Tác giả đã chứng minh được vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của dòng sông đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca. Đoạn văn khép lại bằng hình ảnh miêu tả trực tiếp dòng chảy ở hạ nguồn: "Con sông lững lờ..". Dòng sông chảy chậm rãi, êm đềm, duyên dáng khác hẳn với hình ảnh con sông Đà cuồn cuộn ghềnh thác ở thượng nguồn. Những câu văn của Nguyễn Tuân như những giai điệu êm ái, trữ tình, vừa làm sống dậy những vẻ đẹp của đời sống hiện tại, vừa đưa người đọc trở về với những miền kí ức xa xăm của những thời đã qua nay chỉ còn "vang bóng".

    Ngòi bút tài hoa và biến hóa của Nguyễn Tuân đã thổi linh hồn cho Sông Đà, để vật thể vô tri hiện lên với những tính cách đối nghịch mà thống nhất: Vừa dữ dội, hung bạo, hùng vĩ vừa dịu dàng, trữ tình, nên thơ.

    "Người lái đò Sông Đà" là bức tranh đẹp về con sông của mảnh đất Tây Bắc. Trang văn của Nguyễn Tuân đã lay con sông vô tri thức dậy, thổi hồn vào nó, khiến nó trở thành một sinh thể sống động có cá tính độc đáo. Để từ đó, trong trái tim độc giả hình ảnh Sông Đà gợi bao cảm xúc. Đó là sự khát khao một lần được ngắm nhìn con sông đời thực, đó là niềm tự hào về núi sông hùng vĩ tráng lệ và đó còn làm niềm cảm phục một người nghệ sĩ "bậc thầy về ngôn từ".
     
    LieuDuong likes this.
  2. Alice101296

    Messages:
    30
    Đề bài: Phân tích hình tượng sông Đà

    Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác. Cả cuộc đời ông khát khao đi tìm cái đẹp để ngợi ca và tôn vinh nó. Nếu trước cách mạng ông đi tìm cái đẹp ở tầng lớp trên của một thời còn vang bóng, thì sau cách mạng ông đi tìm cái đẹp ở tầng lớp dưới ngay trong đời sống hiện thực. "Người lái đò sông Đà" in trong tập "Sông Đà" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng. Đọc tác phẩm để lại ấn tượng nhất trong lòng người đọc là hình tượng sông Đà.

    Sông Đà được bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam Trung Quốc, chảy vào miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Sông Đà là con sông có lai lịch, có số phận, có đặc điểm và tính cách khác thường. Nói đến đặc điểm của Sông Đà, trong lời đề từ, nhà văn đã mượn lời thơ của Nguyễn Quang Bích "Chúng thuỷ giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu" - Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng bắc. Nét độc đáo của Sông Đà còn ở chỗ, nó mang hai tính cách đối lập nhau, đó là một con sông hung bạo, hùng vĩ, nhưng cũng là một con sông thơ mộng trữ tình.

    Nói về vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ, hung bạo của sông Đà, tác giả đã miêu tả qua nhiều sự vật khác nhau. Trước hết, là cảnh đá ở đôi bờ sông. Đá ở đây dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có chỗ lại rất hẹp, hẹp tới mức đứng ở bờ bên này, nhẹ tay ném một hòn đá cũng có thể sang tới bờ bên kia. Có chồ con nai, con hổ nhảy từ bờ bên này sang bờ bên kia một cách dễ dàng. Lại có những chỗ "vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu". Bằng cách miêu tả tỉ mỉ, hình ảnh so sánh độc đáo, nhà văn đã gợi lên trước mắt người đọc vách thành, độ cao và dựng đứng của đôi bờ sông. Đó chính là vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở mà thiên nhiên ban tặng cho sông Đà. Đặc biệt câu cuối của đoạn: "Ngồi trên khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện" đã thể hiện một sự so sánh vừa chính xác, vừa tinh tế lại vừa bất ngờ, lạ lùng làm hiện lên vẻ đẹp rất ma mị: Vừa âm u vừa huyền bí, cuốn hút. Nếu như không có một óc tưởng tượng phong phú, một sự cảm nhận tinh tế và cách sử dụng ngôn từ tài hoa thì tác giả không thể viết lên được câu văn có sức kinh động hồn trí con người như thế.

    Quãng mặt ghềnh Hát Loóng thì sóng nước: "Dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm". Mặt ghềnh được gợi lên cả bằng chiều dài của thời gian "gùn ghè suốt năm", chiều rộng của không gian "dài hàng cây số", các câu văn ngắn, vừa liên hoàn vừa điệp cú pháp với các điệp từ liên tiếp, kế tiếp "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió" vừa tạo nên chất nhạc, chất họa cho lời văn, vừa hiện lên trước mắt chúng ta một cảnh tượng dữ dội của sóng nước sông Đà. Nước ở đây chảy mạnh, sức xô đẩy lớn. Những con sóng tới tấp va đập vào nhau, cuồn cuộn cùng với những luồng gió cứ gầm gào suốt một quãng sông dài.

    Vẻ hung bạo của sông Đà còn được thể hiện qua những cái hút nước. Những cái hút nước ở đây "giống như giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc [..] Những cái giếng sâu nước ằng ặc lên như vừa rót dầu sôi vào". Bằng hàng loạt các so sánh, cùng với biện pháp nghệ thuật nhân hóa, tác giả đã làm cho dòng sông trở thành loại thuỷ quái khổng lồ, khôn ngoan và hiểm ác, luôn là mối đe dọa với con người. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới.

    Để lại ấn tượng nhất là thác nước Sông Đà. Nếu như các sự vật trên tác động chủ yếu vào thị giác người đọc thì thác nước đã tác động mạnh vào thính giác. Tiếng thác nước ở đây mỗi ngày một réo gần mãi, réo to mãi. Có những lúc thì nghe như là oán trách, lại có những lúc nghe như là van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn và chế nhạo.. Có những lúc "Nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa". Bằng biện pháp so sánh độc đáo "như tiếng một ngàn con trâu mộng", cùng với các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, Nguyễn Tuân tả tiếng thác nước sông Đà qua nhiều cung bậc, làm cho Sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân trở thành những hung thần trong cuộc đấu trí, đấu lực với con người.

    Để khắc họa kỹ vẻ hung dữ, nham hiểm của sông Đà, NT còn miêu tả cảnh đá dưới lòng sông. Đá ở đây từ ngàn năm nay vẫn mai phục, đá nổi, đá chìm đủ cả. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào như cũng có nhân hình, nhân tính, chúng bày binh bố trận gồm ba tuyến phòng thủ vững chắc, kiên cố, trong đó các thế lực thiên nhiên phối hợp, cấu kết với nhau nhằm tiêu diệt những tàu thuyền qua lại nơi đây. Chính trên quãng sông này đã hiện lên những trận thuỷ chiến ác liệt giữa ông lái đò với thần sông, thần đá. Khắc họa những nét gân guốc, hung bạo của Sông Đà, nhà văn vừa thể hiện niềm tự hào về một thiên nhiên hùng vĩ, mãnh liệt của núi rừng Tây Bắc. Chính nơi đây đã mang lại giá trị kinh tế rất lớn cho đất nước. Miêu tả sông Đà hùng vĩ hung bạo, tác giả còn nhấn mạnh những thử thách lớn lao của thiên nhiên đối với con người lao động. Từ đó nhà văn khẳng định sức mạnh và tài hoa của những người lao động Tây Bắc nói riêng, của con người nói chung.

    Nếu khi ở thượng nguồn, sông Đà là một con sông hung bạo thì về đến miền hạ lưu sông Đà lại mang vẻ đẹp thơ mộng trữ tình làm say đắm lòng người. Nói về vẻ đẹp này của dòng sông, tâm hồn nghệ sĩ dạt dào chất thơ. Là một nghệ sĩ tài hoa uyên bác Nguyễn Tuân đã nhìn ngắm sông Đà từ nhiều góc độ khác nhau. Vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà được gợi lên trước hết qua dáng vẻ của dòng sông. Nguyễn Tuân đã tả sông Đà qua cái nhìn từ trên cao, nhà văn như một nghệ sĩ quay phim cữ khôi, đã thu vào ống kính của mình tất cả vẻ đẹp của SĐ, con sông Tây Bắc. Dưới ống kính của NT, dòng sông uốn lượn quanh co dưới núi rừng Tây Bắc trập trùng "Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình. Đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Với câu văn dài mềm mại, uyển chuyển làm cho sông Đà hiện lên như một thiếu nữ kiều diễm vừa hiện thực lại vừa huyền ảo. Nhìn từ trên cao xuống, ẩn hiện dưới những đám mây trời xen lẫn những tầng hoa thấp thoáng trong làn khói núi của người Mèo đốt nương mùa xuân, sông Đà thật thơ mộng trữ tình, gợi cho ta nhớ tới vẻ đẹp của sông Hương trong cái nhìn của Nguyễn Bính "Cầu cong như chiếc lược ngà/ Sông dài mái tóc cung Nga buông hờ". Vẻ đẹp của sông Đà cũng chính là vẻ đẹp chung của mọi dòng sông chảy trong lòng đất Việt, để lại trong lòng người đọc một niềm tự hào sâu sắc về vẻ đẹp của non sông đất nước. Sông Đà còn đẹp bởi sự thay đổi sắc màu của nước qua mỗi mùa. "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa". Để có được những so sánh này, nhà văn phải là người từng đi nhiều, hiểu biết rất nhiều. Với lối so sánh trên, nhà văn vừa gợi lên vẻ đẹp rất riêng chỉ có ở sông Đà. Vừa gợi lên một dòng sông đang chở nặng phù sa tưới tắm cho cánh đồng tây Bắc tốt tươi. Vẻ đẹp thơ mộng của sông Đà còn thể hiện qua cảnh vật hai bên bờ sông. Cảnh ven sông ở đây lặng lờ, tuy không bóng người nhưng sự sống đang bắt đầu sinh sôi nảy nở. "Cỏ danh, đồi núi đang ra những nõn búp". Giữa khung cảnh ấy lại xuất hiện "Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm" Cảnh đẹp ấy đã gợi lên niềm say đắm thiên nhiên của tác giả. Nguyễn Tuân còn miêu tả cảnh hai bờ sông quãng này với một hình ảnh so sánh rất gợi cảm: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa" Với lối so sánh lạ, một năng lực tưởng tượng phong phú nhà văn mang đến cho người đọc một sự cảm nhận tinh tế về thiên nhiên nơi đây, một thiên nhiên vừa giản dị, sinh động, vừa rực rỡ, hoang sơ và cổ kính. Miêu tả sông Đà thơ mộng trữ tình, nhà văn đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp và niềm tự hào về thiên nhiên đất nước. Chính vì vậy mà trong lòng thi nhân, sông Đà dù có những lúc trái tính trái nết nhưng nó đã trở thành người bạn gần gũi, thân thương, tri âm, tri kỷ của nhà văn "Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân".

    Với cảm hứng sử thi, lãng mạn, với vốn hiểu biết phong phú trên mọi lĩnh vực: Quân sự, thể thao, điện ảnh.. ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, cùng với lối so sánh linh hoạt, Nguyễn Tuân đã làm sống lại trước mắt người đọc một con sông mang vẻ đẹp lạ thường, vừa hung bạo, vừa trữ tình. Thông qua đó tác giả đã thể hiện niềm tự hào và tình yêu sâu sắc của mình về non sông đất nước. Hình tượng Sông Đà góp phần mang đến cho Tuỳ bút "Người lái đò Sông Đà" xứng đáng là thiên tùy bút hay nhất của đời văn Nguyễn Tuân.
     
Trả lời qua Facebook
Loading...