Đề bài: Phân tích hình ảnh ông lái đò Tham khảo: Bài làm Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi. Đọc những câu thơ trong trích đoạn Đất Nước, trích trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm, tôi lại liên tưởng đến ông lái đò trong tùy bút "Người lái đò Sông Đà" của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ miêu tả vẻ đẹp của con Sông Đà hung bạo và trữ tình mà còn miêu tả vẻ đẹp của ông lái đò với hai tư cách người nghệ sĩ trên sông nước và người anh hùng trong lao động bằng một phong cách rất tài hoa, uyên bác. Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là nhà văn lớn, nhà văn hóa lớn của dân tộc, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách tài hoa, uyên bác, độc đáo. Ông luôn tiếp cận thiên nhiên ở vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội hoặc thơ mộng, tuyệt mĩ; luôn tiếp cận con người dưới tư cách của một người nghệ sĩ. Nếu trước Cách mạng tháng Tám, ông nổi tiếng với tập truyện "Vang bóng một thời" thì sau cách mạng ông nổi tiếng với tập tùy bút Sông Đà (1960). Tập tùy bút là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, không chỉ để thỏa mãn cái thú tìm đến những miền đất lạ cho thỏa niềm khát khao xê dịch, mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng đó. Vì thế, Sông Đà nói chung và tùy bút Người lái đò Sông Đà nói riêng cho ta nhận ra diện mạo của một nhà văn Nguyễn Tuân mới mẻ, khao khát được hòa nhập với đất nước và cuộc đời. Tùy bút Người lái đò Sông Đà tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: Uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả nawg làm lay động người đọc nhiều nhất. Đến với trận thủy chiến kinh điển của ông lái đò với Sông Đà hung bạo sẽ thấy rất rõ điều này. Trong tùy bút Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã miêu tả rất thành công hình ảnh người lái đò, tiêu biểu cho con người lao động trong thời đại mới. Nếu như con Sông Đà là thứ vàng của thiên nhiên Tây Bắc, thì người lái đò chính là chất vàng mười của thứ tâm hồn Tây Bắc đã qua thử lửa. Ông lái đò là kết tinh tư tưởng, tình cảm và tài năng của nhà văn Nguyễn Tuân Ấn tượng đầu tiên về ông lái đò chính là diện mạo quắc thước của vị tướng chỉ huy. Ông lái đò gần 70 tuổi, cái đầu quắc thước được đặt trên thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun. Khuôn mặt ông he hé một nửa nụ cười. Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh như lúc nào cũng kẹp cái cuống lái trong tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng thác trước mặt ghềnh, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng trông thấy cái bến ở đằng xa trong sương. Có thể khẳng định diện mạo của ông lái đò in hằn dấu ấn của công việc lao động sông nước gian nan khắc nghiệt, hiểm nguy. Ấn tượng thứ hai về ông lái đò là ông có trí nhớ siêu việt. Trí nhớ của ông được rèn luyện cao độ. Ông lái đò nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào từng luồng nước, của tất cả những con thác hiểm trở. Nếu coi con Sông Đà là bản trường ca, thì ông lái đò nhớ từng dấu chấm, dấu phẩy đến dấu chấm xuống dòng. Cuộc sống của ông lái đò gắn liền với công việc gian nan khắc nghiệt bởi ông làm nghề chở dọc đò sông Đà suốt 10 năm liền. Chính vì thế, bao nhiêu sự độc dữ nguy hiểm là cuộc chiến đấu với bao nhiêu thác ghềnh ông đều phải vượt qua. Cuộc sống của ông là một cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên nhiên có diện mạo, có tâm địa như kẻ thù số một của con người để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Chính vì thế, Sông Đà càng hung bạo, cuồng nộ bao nhiêu, khi chiến thắng nó người lái đò càng được tôn vinh bấy nhiêu. Trong cuộc chiến này, ông lái đò hiện lên uy nghi, sừng sững trước con sông hung bạo. Vẻ đẹp của ông lái đò được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả rất độc đáo, sáng tạo qua trận thủy chiến với ba thạch trận. Phải khẳng định rằng, ba thạch trận chính là thiên la địa võng, là trận đồ bát quái mà thiên nhiên, thần sông thần đá giăng ra để tiêu diêt ông lái đò. Ba thạch trận là thách thức không nhỏ buộc ông lái đò phải vượt qua. Ở thạch trận một có năm cửa trong đó có bốn cửa tử và một cửa sinh, cửa sinh được bố trí bên phía tả ngạn. Ở thạch trận này, con Sông Đà đã tung ra những món đòn hiểm độc như đá trái, thúc gối, túm chặt lấy thắt lưng, rồi đánh đòn âm, đòn tỉa, đòn hồi lùng, truy kích. Chúng đã có sự hợp sức của sóng, nước, đá đánh phủ đầu ông lái đò khi tung ra những đội "quân liều mạng" hò la vang dậy "ùa vào bẻ gãy cán chèo". Rồi chúng tung ra cả món đòn hiểm độc nhất khi "bóp chặt hạ bộ của người lái đò" khiến ông lái đò bị thương mặt méo bệch đi. Dòng nước quá nham hiểm, độc ác, quá hung bạo, chúng là đại diện cho sức mạnh của uy vũ cuồng nộ. Mặc dù bị đánh phủ đầu, tấn công vào chỗ hiểm khiến ông lái đò mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. Bị đánh dồn dập, liên tiếp bằng nhiều mảng miếng biến ảo nhưng ông lái đò vẫn ông nao núng tinh thần, ông vẫn kìm nén vết thương để chỉ huy con thuyền một cách ngắn gọn tỉnh táo trên một chiếc thuyền có sáu bơi chèo. Vâng, sự tỉnh táo, rõ ràng trong hoàn cảnh này không phải ai cũng làm được, điều đó chỉ xuất hiện đối với những bậc anh hùng, cao nhân. Chi tiết này khiến ta liên tưởng đến Quan Vũ khi được Hoa Đà mổ cạo chất độc ở xương, ông vẫn ung dung chơi cờ. Và ông lái đò cũng vậy: Uy vũ bất năng khuất. Rõ ràng, ở thạch trận một, ông lái đò mang dáng dấp của một vị tướng chỉ huy bản lĩnh, kiên cường, dũng cảm. Sang thạch trận hai, thách thức dành cho ông lái đò càng chồng chất. Con Sông đã tăng thêm nhiều cửa, cửa sinh được bố trí bên phía hữu ngạn. Điều đặc biệt, thạch trận hai được bố trí gần ngay sát thạch trận một khiến cho người lái đò không được nghỉ ngơi một phút mà phải luôn tay luôn cả tim. Hơn nữa, khi tiến vào thạch trận hai, ông lái đò đã bị thương, bị hao mòn sức lực, giờ lại bị đặt trong thế "tiến thoái lưỡng nan". Mặc dù khó khăn chồng chất, hiểm nguy rình rập, nhưng do nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá ở nơi ải nước hiểm trở, cho nên có chỗ thì ông lái đò "cưỡi lên thác nước Sông Đà như cưỡi hổ phải cưỡi tới cùng". Có lúc thì ông rảo bơi chèo, có khi đè sấn lên chặt đôi mà mở đường tiến. Ở thạch trân hai này ông lái đò rất mạnh mẽ "nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng, ông ghì cương lái phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo"; có lúc nhớ mặt bọn đá, ông khi thi tránh mà rảo bơi chèo ung dung tự tại. Ông lái đò đã chiến thắng bằng trí nhớ siêu việt của một con người tự do khi đã "nắm chắc được binh pháp của thần sông thần đá". Ở thạch trận này ông mang vẻ đẹp của Triệu Tử Long tả xung hữu đột xông vào giữa quân Tào để cứu ấu chúa; có lúc ta lại thấy ông như một cao bồi miền Tây đang thuần phục con ngựa bất kham; có khi ông như Võ Tòng đánh hổ rất dũng mãnh; có lúc ông ung dung tự tại như một người nghệ sĩ. Ở thạch trận này ta vừa thấy được sức mạnh của thể chất, trí dũng vô song của ông lái đò. Ông như mang sức mạnh của một chàng trai tuổi đôi mươi, khi thì là một con người đã lão luyện trong trận mạc. Nói tóm lại, bằng đoạn văn, Nguyễn Tuân đã miêu tả rất sống động vẻ đẹp của ông lái đò là một con người lao động trí dũng nhưng vẫn toát lên cốt cách của một người nghệ sĩ. Ông lái đò là sự tổng hòa của những hình tượng anh hùng để đời trong các pho sử nổi tiếng trên toàn thế giới. Chất anh hùng và tâm hồn nghệ sĩ đã hòa làm một. Ở thạch trân 3, ít của tử hơn khi chỉ có hai cửa, cửa sinh được bố trí ở giữa những cánh cửa đá khép mở trong làn hơi nước. Tuy chỉ có hai cửa tử nhưng khó khăn chồng chất, hiểm nguy dữ dội. Sông Đà quá nham hiểm, quá mưu mô, xảo quyệt khi bố trí cửa sinh ở những cánh cổng đá khép mở để đánh lừa thị giác của người lái đò. Nhìn thì tưởng "ngon ăn" khi cửa sinh đã được mở toang, nhưng chỉ cần một chút sơ suất nhỏ, chỉ cần thiếu chính xác một chút xíu thôi ông lái đò sẽ phải trả giá bằng cả tính mạng. Hơn nữa, ở thạch trận này ông lái đò phải đi với một tốc độ rất cao, vút vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng theo một đường zich zắc để lượn qua những cánh cổng đá khép mở là điều không hề dê dàng gì. Ấy vậy, những khó khăn hiểm nguy không làm cho ông lái đò lùi bước, mà ngược lại tay lái của ông lái đò lại thăng hoa để vượt qua những cánh cổng đá đó rồi cho "con thuyền tự động lượn được lái được". Có thể nói, con thuyền đi với một tốc độ rất cao, tốc độ của tia chớp xé gió "vút vút" kinh hoàng như vậy đòi hỏi người lái đò phải có bản lĩnh và sự khéo léo mới có thể vẽ được một đường cong rất mềm mại giữa sóng nước Sông Đà, giữa mây trời Tây Bắc. Ở thạch trận này ông lái đò hiện lên như một tay đua công thức một, một người nghệ sĩ trên sân cỏ đã đi bóng với tốc độ rất cao, mềm mại, khéo léo vượt qua các cầu thủ đối phương và rỗi tạo ra một siêu phẩm với một đường cong tuyệt mĩ. Ông lái đò đã để lại một tuyệt phẩm có một không hai, một siêu phẩm để đời "xưa nay chưa từng có". Để đi với tốc độ cao như thế khi vào đường cua, ô tô và xe máy có sự hỗ trợ của côn, phanh, ga, số, còn ông lái đò chỉ có sự hỗ trợ của cán chèo vậy mà ông vẫn vẽ được một đường cong tuyệt mĩ khi cho con thuyền tự động lượn được và lái được thì quả thực quá tài hoa, quá vi diệu. Với siêu phẩm này, ông lái đò đã đạt đến trình độ thượng thừa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh. Ông chính là người nghệ sĩ trên sông nước có tay lái ra hoa. Trong cuộc chiến đấu sinh tử với con Sông Đà quá hung bạo mà chất nghệ sĩ vẫn được phát huy thì thật là bản lĩnh, thật tài hoa. Chất nghệ sĩ trong ông lái đò bỗng chốc thăng hoa để tạo nên một kiệt tác cho đời. Nói tóm lại, qua cuộc chiến đấu với ba thạch trận, ông lái đò lên cốt cách của một người anh hùng trí dũng và vẻ đẹp của người nghệ sĩ có tay lái nở hoa. Điều đáng nói ở đây là ông lái đò gần 70 tuổi đã chiến thắng được con Sông Đà cuồng nộ, bung bạo, là biểu tượng cho sức mạnh của thiên nhiên Tây Bắc. Chiến thắng ấy vẻ vang biết chừng nào! Nó không khác gì chiến thắng của ông lão Xan –ti – a – gô trong tiểu thuyết "Ông già và biển cả" của nhà văn Hê – Minh – Uê. Chiến thắng của ông lái đò chính là chiến thắng của kinh nghiệm, của niềm tin, cảu một vẻ đẹp tâm hồn trí dũng và bàn tay của người nghệ sĩ khéo léo, tài hoa. Qua chiến thắng ấy, nhà văn Nguyễn Tuân đã tôn vinh và ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động trong thời đại mới. Ông lái đò chính là Sơn Tinh của thế kỉ XX. Qua hình tượng ông lái đò, Nguyễn Tuân như muốn khẳng định không chỉ có người anh hùng trong chiến đấu mà còn có người anh hùng trong lao động, không chỉ có người nghệ sĩ trong các lĩnh vực nghệ thuật mà còn có người nghệ sĩ trong công việc lao động bình dị đời thường. Với hình tượng ông lái đò, Nguyễn Tuân đã mở rộng để tài về người anh hùng và nghệ sĩ. Đây là một quan điểm rất mới mẻ, một tư tưởng rất tiến bộ và nhân văn. Đối với Nguyễn Tuân chỉ cần thuần thục, tài hoa, khéo léo trong các lĩnh vực nghề nghiệp của mình đang làm cũng xứng đáng được tôn vinh là người nghệ sĩ. Với quan điểm này, Nguyễn Tuân đã là người khai mở, người giải phóng để từ đây, con người sẽ phát huy toàn bộ tài năng, tâm huyết của mình trong công việc bình dị. Như vậy so với Chữ người tử tù, Người lái đò Sông Đà vừa có sự thống nhất, vừa có sự phát triển. Thống nhất trong ở cách tiếp cận con người với hai tư cách là người nghệ sĩ và người anh hùng. Còn phát triển là nếu như Huấn Cao trong Chữ người tử tù là lớp nho sĩ cuối mùa nay chỉ còn "vang bóng một thời", thì ông lái đò lại là con người lao động của thời đại mới. Ông lái đò chính là chất vàng mười của thứ tâm hồn Tây Bắc đã qua thử lửa, là kết tinh tài năng nghệ thuật và tư tưởng của nhà văn Nguyễn Tuân. Với việc sử dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực, cùng với việc huy động đội quân ngôn từ hùng hậu, công với sự liên tưởng phong phú, táo bạo bất ngờ, so sánh độc đáo; kết hợp với việc sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, điệp từ, điệp ngữ, Nguyễn Tuân đã rất thành công khi miêu tả ông lái đò trong cuôc jchieens đấu với ba thạch trận. Ông lái đò chính là một người anh hùng và người nghệ sĩ trong lao động sông nước. Cuộc chiến đấu của ông lái đò đã tạo nên một khúc tráng ca ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động trên sông nước khắc nghiệt. Ông lái đò chính là kết tinh những gì đặc sắc nhất của nhà văn Nguyễn Tuân. Chính từ hình tượng ông lái đò đã góp phần tạo nên một áng văn đẹp được dệt nên từ tình yêu nước đắm say của một con người muốn dùng văn chương để miêu tả vẻ đẹp kì công của tạo hóa và kì tích của con người trên vùng núi sông hùng vĩ và thơ mộng của Tổ quốc. Đọc Người lái đò Sông Đà đã làm thay đổi mắt ta nhìn, óc ta nghĩ, tác phẩm đã "soi rọi một thứ ánh sáng riêng" thứ ánh sáng ấy đủ tiếp thêm sức mạnh giúp ta vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân bởi một áng văn quá đẹp, đẹp từ câu chữ cho đến tấm lòng!