Phân tích hình ảnh Huấn Cao trong cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Huongthu2401, 23 Tháng mười 2021.

  1. Huongthu2401

    Bài viết:
    483
    [​IMG]

    Phân tích hình ảnh Huấn Cao trong cảnh cho chữ trong "Chữ người tử tù"

    Nhà văn Pauxtopki từng khẳng định: "Nhà văn là người dẫn đường đến xứ xở của cái đẹp. Bước vào thế giới văn chương nghệ thuật là bước vào thế giới của cái đẹp". Tuy nhiên, mỗi nhà văn, mỗi một người nghệ sĩ lại có một lí tưởng riêng trong tác phẩm của mình. Nếu Thạch Lam đưa người đọc đến với thế giới cái đẹp dịu dàng, êm đềm mà u buồn, man mác hãy Vũ Trọng Phụng lại gào thét, đớn đau trong từng áng văn thì Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ tận hiến suốt đời cho cái đẹp lại dẫn ta đến thế giới sang trọng, thanh cao, lịch lãm mà bàng bạc cổ kính. Trong thế giới nghệ thuật độc đáo ấy của Nguyễn Tuân nổi bật lên hình tường Huấn Cao – nhân vật chính của "Chữ người tử tù", một nét son chói lọi trong văn nghiệp của Nguyễn Tuân, mà đẹp nhất chính là cảnh cho chữ của nhân vật này.

    Trước hết, chúng ta cần hiểu về tác giả Nguyễn Tuân. Ông sinh năm 1910 và mất năm 1987, là một trong những nhà văn xuất sắc nhất Việt Nam thế kỉ XX. Ông quê ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nho học khi Hán học đã tàn. Dấu ấn Nho học in đậm trong các tác phẩm của ông. Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ được mệnh danh "suốt đời đi tìm cái đẹp". Không chỉ vậy, Nguyễn Đình Thi đã tôn vinh Nguyễn Tuân là "một bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ" . Còn Tố Hữu thì nói đại ý, coi nhà văn là người "thợ kim hoàn" về chữ nghĩa. Nguyễn Tuân là người đã góp phần thúc đẩy thể tùy bút, bút kí đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc. Nhà văn có đầy đủ các trạng thái rung động một cách trực tiếp và cảm tính trước các hiện tượng thiên nhiên, đời sống và nghệ thuật – tức có được một cảm xúc thẩm mỹ mạnh mẽ. Qua đó, nhà văn đã khám phá ra vẻ đẹp của thế giới và con người và cái đẹp khách thể và của chính mình.

    Về tác phẩm "Chữ người tử tù", ban đầu có tên là "Dòng chữ cuối cùng" in năm 1938 trên tạp chí Tao đàn. Đây được coi là một truyện ngắn đặc sắc trong "Vang bóng một thời" – tập truyện (xuất bản năm 1940) bao gồm 11 truyện ngắn viết về "một thời" đã qua nay chỉ còn "vang bóng". Mỗi truyện trong "Vang bóng một thời" đi vào một cái tài, một thú chơi tao nhã, phong lưu của những nhà nho tài hoa lỡ vận: Chơi chữ, thả thơ đánh thơ, thưởng thức chén trà buổi sớm.. Nhân vật trong "Vang bóng một thời" chủ yếu là những nho sĩ cuối mùa, tuy buông xuôi bất lực nhưng quyết giữ "thiên lương" và "sự trong sạch của tâm hồn" bằng cách thực hiện "cái đạo sống của người tài tử". Qua tập truyện này, nhà văn không chỉ thể hiện sự nuối tiếc vẻ đẹp của một thời quá vãng mà còn bộc lộ niềm trân trọng và tự hào về truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc. "Chữ người tử tù" có lúc đã được coi là một ví dụ điển hình của cảm xúc duy mỹ, tập trung miêu tả cái đẹp của hoa tay – tức cái đẹp thiên về hình thức. Khi đọc kỹ, ta sẽ thấy điều gần như ngược lại. Ở đây, nhà văn ca ngợi cái đẹp của lòng người. Nổi bật trên tất cả là hai chữ "thiên lương", sống trên đời không được phụ những tấm lòng trong thiên hạ; phải biết tôn trọng tài năng và phẩm giá của con người.

    Về nhan đề tác phẩm thì "chữ" ở đây là chữ Hán. Đó là thứ chữ khối vuông, được viết bằng bút lông, vừa có tính chất tạo hình vừa ít nhiều mang dấu ấn nhân cách người viết. Từ xa xưa, ở nhiều nước Á Đông, trong đó có Việt Nam, con người ta đã biết thưởng thức chữ đẹp và có thú chơi chữ. Người viết chữ đẹp được coi là nghệ sĩ và viết chữ được xem là một hành vi sáng tạo nghệ thuật, một hoạt động sản sinh cái đẹp. Bộ môn nghệ thuật ấy được gọi là "thư pháp". Còn "Người tử tù" trong nhan đề chính là Huấn Cao, người nổi tiếng về viết chữ đẹp, thiên lương trong sáng, có khí phách hơn người. Huấn Cao đâu chỉ là người nghệ sĩ có khả năng sáng tạo cái Đẹp mà còn là người kết tinh, lưu giữ một trong những vẻ đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.

    Huấn Cao chính là sự đổ bóng của Cao Bá Quát - con người vừa tài hoa nghệ sĩ vừa cứng cỏi anh hùng, vừa là nhà nho uyên bác vừa là lãnh tụ nông dân khởi nghĩa. Tuy nhiên, Cao Bá Quát chỉ là một điểm tựa, một "chất liệu văn học" để Nguyễn Tuân xây dựng nên nhân vật của mình. Phần hư cấu, sáng tạo của nhà văn vẫn là chủ yếu bởi Huấn Cao đã xuất hiện trong tác phẩm theo đúng lý tưởng thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật của tác giả. Và đây mới chính là điểm mấu chốt tạo nên một hình tượng Huấn Cao đặc sắc, đọng lại được nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ.

    Tình huống của tác phẩm "Chữ người tử tù" là cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường. Đó là "viên quản ngục" – kẻ đại diện cho bạo lực tăm tối nhưng lại rất khát khao ánh sáng của chữ nghĩa và Huấn Cao – người tử tù có tài viết chữ đẹp nổi tiếng. Lẽ ra đây phải là cuộc hội ngộ tương đắc của hai tâm hồn nghệ sĩ yêu cái đẹp, của những kẻ biệt nhỡn liên tài. Nhưng oái oăm thay, họ lại phải gặp nhau giữa chốn ngục tù và trong một tình thế éo le: Cuộc chạm trán giữa một tên "đại nghịch", cầm đầu cuộc nổi loạn đang đợi ngày ra pháp trường với kẻ đại diện cho trật tự xã hội đương thời. Tình huống truyện này trước hết đã góp phần làm nổi rõ tính cách của Huấn Cao – nhân vật chính của truyện, đó là một người tài hoa, hiên ngang, bất khuất trước cái ác, cái xấu nhưng lại mềm lòng trước cái thiện, cái đẹp; đồng thời soi sáng vẻ đẹp tâm hồn khuất lấp của viên quản ngục – một "thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ". Vậy mới thấy được cái tài hoa của Nguyễn Tuân khi xây dựng cốt truyện.

    Trong cảnh cho chữ, hình ảnh Huấn Cao như tỏa sáng lên gấp bội phần. Ở con người này có sự hội tụ của cả ba phẩm chất, cũng là ba vẻ đẹp đáng trân trọng của con người: "Tài" – "tâm" – "dũng". Ba vẻ đẹp ấy hòa quyện với nhau và tỏa sáng rực rỡ. Điểm hội tụ của tài năng nghệ sĩ và khí phách nghĩa sĩ của Huấn Cao trước hết là ở tư thế. Tuy phải bó buộc trong hình hài của một phạm nhân: "Cổ đeo gông, chân vướng xiềng" nhưng Huấn Cao vẫn có cái tư thế của một người nghệ sĩ thư pháp. Con người ấy đang dồn tinh lực để viết nên những "dòng chữ cuối cùng" cho đời – những dòng chữ mà "nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người".

    Tương phản với hình ảnh Huấn Cao là hình ảnh của ngục quan và thơ lại – những kẻ đại diện cho uy quyền, pháp luật đương thời, nắm trong tay quyền sinh, quyền sát nhưng lại đang "khúm núm", "run run" trước từng nét chữ của Huấn Cao. Chính sự tương phản này đã gián tiếp khắc họa cái hiên ngang, khí phách của người tử tù. Đồng thời cho thấy trong khoảnh khắc này, tại chính gian nhà ngục này không phải cái ác, cái xấu đang làm chủ mà chính là cái đẹp, cái tài của người nghệ sĩ đang tỏa sáng, hùng tâm, tráng chí của người anh hùng đang được tôn vinh.

    Như mọi dòng sông đều chảy về biển, ở Huấn Cao, nơi hội tự của thiên lương trong sáng và nhân cách CON NGƯỜI dừng lại ở một lời khuyên chí tình dành cho quản ngục: "Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét vuông tươi tắn [..] Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi". Lời khuyên này giống như một di huấn – di huấn của người nghệ sĩ truyền lại cho đời và hậu thế: Muốn chơi chữ thì trước hết phải giữ lấy "thiên lương". Chữ nghĩa và "thiên lương" không thể chung sống với cái ác, cái xấu, đừng để những cái cao quý ấy bị hoen ố, bị mất đi ở chốn ngục tù đen tối tàn bạo. Trong "di huấn" của người tử tù tài hoa nghệ sĩ, lời nói sau đây ngỡ như lời nói thông thường, vậy mà xem ra cũng đầy ngụ ý, đầy sức gợi: "Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?". Đây đâu phải chỉ là lời khen tặng của Huấn Cao dành cho ngục quan – kẻ không chỉ có "sở nguyện cao quý" mà còn rất "chịu chơi"; đó cũng chẳng hoàn toàn là lời gợi nhắc của Huấn Cao với quản ngục, rằng: Cần phải biết cảm nhận mùi thơm của mực, của chữ nghĩa, mà thâm ý sâu xa trong câu nói ấy là: Phải biết nhận ra trong mực, trong chữ cái "hương vị của thiên lương". Cái gốc của chữ, xét cho cùng, là "thiên lương" đó thôi. Chơi chữ không chỉ là chuyện chữ nghĩa mà trên hết đó là chuyện về cách sống, chuyện văn hóa, là đạo làm người chân chính của bậc quân tử.

    Ta cũng hiểu vì sao trước những lời nói và lời khuyên chí tình này của ông Huấn, ngục quan đã "cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào:" Kẻ mê muội này xin bái lĩnh ". Có thể khẳng định, chính nhân cách cao thượng và cách hành xử đầy tinh thần trượng nghĩa, văn hóa của Huấn Cao đã khiến ngục quan thực sự cảm phục. Đó cũng là chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, của" thiên lương ", là sự chứng thực hùng hồn cho một chân lý: Giữa nơi tưởng như chỉ có thể tồn tại cái ác, cái xấu, tài năng và phẩm giá cao cả của con người vẫn tìm thấy không gian, thời gian để sinh tồn và tỏa sáng. Không gian ấy, dù chỉ là một nhà ngục tăm tối, bẩn thỉu. Thời gian ấy, dù chỉ là khoảnh khắc cuối trong cuộc đời một con người. Đấy là gì nếu như không phải là lí tưởng thẩm mĩ, là niềm tin mãnh liệt của nhà văn vào những điều tốt đẹp trên đời.

    Như vậy, nhà văn đã gọi cảnh cho chữ là" một cảnh tượng xưa nay chưa từng có ". Quả là như vậy, không gian cho chữ" xưa nay chưa từng có ". Đã bao giờ cảnh cho chữ" bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián "chưa? Đã bao giờ ánh sáng để viết chữ tỏa ra từ một bó đuốc tẩm dầu, khói bốc mù mịt khiến mọi người dụi mắt lia lịa? Chắc chắn là cũng chưa. Nhưng vào cái đêm khuya hôm ấy, trong trại giam tỉnh Sơn đã diễn ra một sự kiện đáng ghi tạc trọn đời đối với ba tấm lòng cao cả trong thiên hạ: Cho chữ – xin chữ thánh hiền. Trong thời gian, không gian, ánh sáng xưa nay chưa từng có ấy, tư thế của những con người cho chữ và nhận chữ cũng" xưa nay chưa từng có ". Người cho chữ" cổ "vẫn" đeo ngông, "chân" vẫn "vướng xiềng" nhưng tư thế thì hiên ngang, hành động thì nghĩa hiệp, đang phóng bút sáng tạo ra cái đẹp cho đời. Tương phản với tư thế, hành động của người tử tù, viên quản ngục – kẻ đầy uy quyền ở cái nhà lao ấy – lại đang "khúm núm" cất những đồng tiền kẽm còn thầy thơ lại – kẻ có lẽ chỉ dưới một người, trên nhiều người ở cái nhà ngục ấy – thì "run run bưng chậu mực". Cả hai người này đang xúc động, trân trọng và đầy ngưỡng mộ trước hành động cao cả của Huấn Cao. Hoàn cảnh cho chữ, tư thế của những con người cho chữ và nhận chữ "xưa nay chưa từng có" nêu trên đã làm nổi bật tính chất "chưa từng có" của cuộc gặp gỡ này. Đây là lần đầu tiên, nhưng thật đau xót – cũng là lần cuối cùng, ba con người này đồng thời gặp nhau với con người thật của mình. Rất nhiều lần trước họ chỉ gặp nhau tay đôi (theo từng cặp). Gặp nhau mà đâu đã thực hiểu lòng nhau. Gặp nhau theo con người chức phận Nhà nước, con người nghĩa vụ. Giờ đây, Huấn Cao ở cương vị người cho chữ, người truyền dạy. Quản ngục được ở vị trí người nhận chữ, được thỏa mãn ước nguyện của mình bấy lâu nay. Đâu còn kẻ tử tù. Đâu còn quan cai ngục. Lúc này chỉ có những tấm lòng biệt nhỡn liên tài đang rung cảm với những nét chữ vuông vắn trên tấm lụa trắng tinh còn nguyên vẹn lần hồ. Đánh giá về đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao cho chữ, nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng đó là một đoạn văn rất giàu "chất điện ảnh". Đoạn văn giống như một thước phim ngắn, chậm rãi. Cứ sau mỗi câu văn, từng hình ảnh của sự vật, từng động tác của con người lại hiện ra một cách rõ ràng và sống động, cứ như thể ta đang xem một đoạn phim trong rạp chiếu bóng: ".. trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián [..] Trong không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván..". Sự xuất hiện của từng sự vật, hình ảnh con người trong "thước phim" này dường như cũng đã được người "đạo diễn Nguyễn Tuân" cố ý sắp xếp theo chiều hướng đi từ bóng tối đến ánh sáng – cảnh cho chữ bắt đầu được đặc tả bởi sự bao phủ của bóng tối nhà lao.. rồi dần dần nhen lên và rực rỡ ánh sáng; và từ hôi hám, nhơ bẩn đến mùi thơm và cái đẹp: Cảnh Huấn Cao cho chữ hiện ra trong một buồng tối "bừa bãi phân chuột, phân gián" để rồi khép lại với chi tiết "mùi thơm của chậu mực bốc lên" và những con chữ được sinh thành. Mỗi nét chữ hiện hình là cái đẹp nảy sinh. Cùng với nghệ thuật dựng cảnh, dựng người thủ pháp tương phản cũng được nhà văn sử dụng một cách triệt để và hiệu quả. Sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối; giữa cái hỗn độn, xô bồ, nhơ bẩn của cảnh nhà giam với cái thanh khiết, cao cả của nền lụa trắng, nét chữ đẹp đẽ; giữa kẻ tử tù đang ban phát cái đẹp và cái thiện với viên quan coi ngục đang khúm núm, lĩnh hội, vái lạy.. Tất cả đã làm nổi bật hình ảnh Huấn Cao, khẳng định sự chiến thắng ánh sáng đối với bóng tối, cái đẹp đối với cái xấu xa, nhơ bẩn, cái thiện đối với cái ác.

    Đọc xong "Chữ người tử tù", những cảm xúc như bị lắng đọng lại sau cuộc gặp gỡ và lời khuyên của người tử tù Huấn Cao với viên quản ngục. Câu chuyện có kết thúc mở nên không ai biết số phận của Huấn Cao và quyết định của viên quản ngục sau đó như thế nào nhưng nhìn vào sự chân thành của Huấn Cao cùng thái độ trân trọng, sự xúc động của viên quản ngục khi nhận chữ chúng ta có cơ sở để tin rằng cái thiện, cái đẹp đã chiến thắng, rằng viên quản ngục sẽ "lĩnh giáo" lời khuyên của Huấn Cao mà từ bỏ chốn ngục tù, bảo vệ thiên lương trong sáng. Cái hay của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn này là mở ra nhiều liên tưởng, suy ngẫm cho người đọc mà không "đóng khung" câu chuyện trong một giới hạn hay những cảm nhận chủ quan. Đúng như nhà văn Bùi Việt Thắng đã cho rằng: "Điều quan trọng hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng".
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...