Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng từ Truyện Kiều

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi AiroiD, 3 Tháng mười hai 2024.

  1. AiroiD

    Bài viết:
    83
    Phân tích 18 câu thơ từ đoạn trích "Chí khí anh hùng"​

    Nguyễn Du là ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam, là nhà thơ với cái nhìn hiện thực sâu sắc, là nhà nhân đạo chủ nghĩa, "người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại ở nước ta" (Đào Duy Anh). Một trong những tác phẩm kiệt xuất của ông là "Truyện Kiều" - trở thành đỉnh cao của văn học Việt Nam. Trong phần hai "gia biến và lưu lạc" thuộc tác phẩm "Truyện Kiều", độc giả không chỉ cảm nhận được nét tinh tế trong việc xây dựng nhân vật Thúy Kiều, nỗi lòng thương xót của Nguyễn Du trước số phận khổ đau của nhân vật mà còn thấy chân dung của một bậc anh hùng khí phách, tài hoa – Từ Hải.

    Đoạn trích "Chí khí anh hùng" thuộc phần "Gia biến và lưu lạc" của tác phẩm "Truyện Kiều", từ câu thơ thứ 2213 "Nửa năm hương lửa đương nồng" đến câu thứ 2230 "Gió mây bằng tiện đã lìa dặm khơi". Đoạn trích "Chí khí anh hùng" đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp người anh hùng Từ Hải và khát vọng tự do, công lý, chí khí, lý tưởng của chàng. Sau khi rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Kiều may mắn gặp Từ Hải - người anh hùng "đầu đội trời, chân đạp đất". Từ Hải cứu nàng ra khỏi chốn lầu xanh và cười nàng làm vợ. Cuộc hôn nhân giữa "Trai anh hùng, gái thuyền quyên" vẹn tròn nhưng Từ Hải vẫn mong muốn tiếp tục thực hiện khát vọng công danh. Chàng từ biệt Kiều để lên đường tìm kiếm sự nghiệp. Đoạn trích "Chí khí anh hùng" gồm 18 câu thơ là hoàn cảnh Từ Hải lúc lên đường và cuộc đối thoại trước lúc chia tay của Kiều và Từ Hải đã cho thấy chí khi của chàng.

    Mở đầu đoạn trích bằng 4 câu thơ đã cho thấy hoàn cảnh lên đường của Từ Hải:

    "Nửa năm hương lửa đương nồng,

    Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

    Trông vời trời bể mênh mang,

    Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong."

    Câu thơ đầu khắc họa lên thời gian "nửa năm" êm đềm có lẽ là hiếm hoi trong cuộc đời Thuý Kiều chính là thời gian nàng và Từ Hải chung sống hạnh phúc. Hình ảnh ẩn dụ "Hương lửa đương nồng" thể hiện tình cảm vợ chồng đang lúc đằm thắm, mặn nồng. Câu thơ gợi ra cuộc sống hôn nhân của Kiều và Từ Hải đầy viên mãn, hạnh phúc trong mái ấm gia đình. Từ Hải chọn ra đi trong hoàn cảnh ấy như một sự thử thách chí lớn. Nguyễn Du đã chọn từ Hán Việt "Trượng phu" để gọi Từ Hải, không chỉ thể hiện tình cảm trân trọng của tác giả khi dùng từ ngữ mang sắc thái trang trọng mà còn thể hiện Từ Hải là đấng nam nhi, bậc hảo hán có hoài bão, bản lĩnh. Trong "Truyện Kiều", Từ Hải là nhân vật duy nhất được Nguyễn Du gọi là "anh hùng". Từ "thoắt" bộc lộ suy nghĩ dứt khoát, quyết định nhanh chóng giống như tính cách của đấng nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất. Điển tích "lòng bốn phương" là người xưa khi sinh con trai thường dùng cung tên bằng gỗ dâu, mũi tên bằng cỏ bồng bắn ra bốn phương tám hướng với mong muốn người con trai sau này lớn lên chí khí để ở nơi "phương trời", vẫy vùng trong thiên hạ, làm được những điều lớn lao, hiển hách. Nhân vật Từ Hải với chí lớn được đặt trong không gian "bốn phương", "trời bể mênh mông", rộng lớn, mang tầm vóc vũ trụ. Không gian rộng mở, kì vĩ vô cùng nhưng không hề lấn át đi hình ảnh người anh hùng mà còn như nâng hình ảnh Từ Hải lên sánh ngang với trời bể, thể hiện khát khao vùng vẫy, tung hoành khắp nơi như sức mạnh tự nhiên không gì có thể ngăn cản. Khi cuộc sống lứa đôi đang yên ổn, Từ Hải không dễ bằng lòng bởi chàng khao khát dựng xây sự nghiệp cho thỏa chí làm trai, khát vọng lên đường trở thành tiếng gọi thôi thúc mãnh liệt. Điểm nhìn "trông vời" của Từ Hải là nhìn xa nhưng chứa đựng những khát khao hoài bão lớn. Hình ảnh "thanh gươm yên ngựa" đã vẽ nên hình ảnh người anh hùng ngạo nghễ, tự tin. Không chỉ vậy hình ảnh "lên đường thẳng rong" thể hiện phong thái quả quyết, đầy khí phách của người anh hùng. Câu thơ cuối đã khắc họa một tư thế đẹp, hiên ngang cùng thái độ mạnh mẽ, dứt khoát quyết tâm dựng lên nghiệp lớn của người quân tử. Qua bốn câu thơ đầu độc giả hình dung được vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải với niềm khao khát lý tưởng lên đường thực hiện chí lớn, không vì tình yêu mà quên đi lý tưởng cao cả. Có thể thấy, hình tượng Từ Hải đã trở thành chuẩn mực của người anh hùng truyền thống, khẳng định chàng là người anh hùng của bốn phương trời.

    Hai câu thơ tiếp theo là lời của nàng Kiều:

    "Nàng rằng:" Phận gái chữ tòng,

    Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi ".

    Lời Thuý Kiều được thể hiện qua duy nhất một cặp câu lục bát nhưng đã bộc lộ sâu sắc tình cảm và sự khéo léo của nàng. Về lý nàng nói về bổn phận của người vợ trong đạo Nho quy định" tam tòng ", phận gái phải theo chồng. Về tình nàng" một lòng xin đi ", thể hiện tình cảm thuỷ chung, một lòng một dạ để theo chồng. Lời của Kiều xuất phát từ đạo lí vợ chồng, Kiều muốn đồng hành, cùng san sẻ bớt gánh nặng với Từ Hải. Lời nói của Kiều vừa có lý vừa có tình qua đó ánh lên vẻ đẹp người phụ nữ truyền thống, vẻ đẹp nhân cách của người vợ quan tâm, yêu thương, sẵn sàng sẻ chia với chồng và sự tế nhị khéo léo trong giao tiếp của nàng. Và ẩn sau đó là mong muốn giữ gìn hạnh phúc bởi những cuộc chia tay trước đó của nàng đều để lại cho Kiều nỗi bất hạnh.

    Hai câu thơ tiếp đó là lời của Từ Hải:

    " Từ rằng: "Tâm phúc tương tri

    Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?"

    Trước lời nói thuận tình thuận lý của vợ nhưng Từ Hải vẫn từ chối. Chàng coi Thuý Kiều không chỉ là vợ mà còn là "tâm phúc tương tri" ý chỉ tri kỉ, người thấu hiểu nhau sâu sắc. Câu hỏi tu từ "Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình" như một lời trách cứ nhẹ nhàng rằng đã coi nhau là tri kỉ, thấu hiểu lòng dạ nhau sau còn giữ nếp nghĩ của nữ nhi bình thường. Lời trách cứ nhưng lại như lời khuyên nhủ Thuý Kiều vượt lên tình cảm thông thường để sánh với tư tưởng người anh hùng.

    Bốn câu thơ tiếp đó là những tưởng tượng, suy nghĩ của Từ Hải về tương lai:

    "Bao giờ mười vạn tinh binh,

    Tiếng chiêng dậy đát bóng tinh rợp đường.

    Làm cho rõ mặt phi thường,

    Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia."

    "Bao giờ", "bấy giờ" là những từ chỉ thời gian trong tương lai. Sau lời từ chối là lời hứa hẹn được tô đậm bởi biện pháp phóng đại. Hình ảnh "mười vạn tinh binh", "bóng tình" cùng âm thanh "tiếng chiêng" được phóng đại cùng biện pháp đối đã cho thấy sức mạnh khí thế rung chuyển thiên hạ của đại quân, khắc họa khát vọng to lớn của Từ Hải về chiến thắng lừng lẫy, vang dội, một sự nghiệp ghi danh kì vĩ ở vùng trời tự do. Hình ảnh "mặt phi thường" hoán dụ chân dung Từ Hải – con người tài năng, xuất chúng với nội lực bên trong thôi thúc người anh hùng thực hiện giấc mộng công danh. Khát vọng lập công danh của chàng không tách rời với hạnh phúc lứa đôi với Kiều. Mục đích đằng sau khát vọng về chiến thắng lừng lẫy không chỉ là hoài bão lập nghiệp lớn mà còn đề "rước nàng nghi gia". Nghi gia là một nghi thức trang trọng khi người chồng đón vợ về nhà. Từ Hải lên đường tìm kiếm sự nghiệp không chỉ cho bản thân mình mà còn vì Kiều, chàng muốn cho nàng cuộc sống êm đềm, đủ đầy, những thứ mà nàng xứng đáng có.

    Qua đó mà ta thấy sự trân trọng của Từ Hải đối với nàng Kiều, dù xã hội có đưa đẩy nàng vào vũng bùn, thì Từ Hải vẫn quyết đứng lên đòi lại cuộc sống êm đềm nàng đáng được hưởng. Chí khí anh hùng của Từ Hải gắn với tình yêu thương, tinh thần trách nghiệm của một người chồng. Ước vọng lớn nhất của chàng là hoàn thành sự nghiệp cũng là thời khắc đưa Kiều về nhà trong chiến thắng vang dội khiến hạnh phúc thêm ý nghĩa hơn.

    Hai câu thơ tiếp theo đã cho thấy Từ Hải quay trở về thực tại còn nhiều khó khăn:

    "Bằng nay bốn bể không nhà,

    Theo càng thêm bận biết là đi đâu?"

    "Bằng nay" đã cho thấy Từ Hải không quên đi những khó khăn của thực tại. Hai câu thơ như là lời đối thoại lại như lời độc thoại của Từ Hải. Nỗi khổ tâm của người anh hùng về hoàn cảnh thực tại "bốn bể không nhà", "biết là đi đâu". Sẽ còn rất nhiều thử thách, khó khăn đang chờ Từ Hải nên chàng mong Kiều thấu hiểu cảm thông mà ở lại. Trong tay chàng còn chưa có gì mà bên ngoài còn đầy rẫy những khó khăn cho thấy Từ Hải không hề mơ mộng, ảo tưởng.

    Hai câu thơ tiếp theo là những lời Từ Hải dặn dò, an ủi nàng Kiều:

    "Đành lòng chờ đó ít lâu,

    Chầy chăng là một năm sau vội gì!"

    Khép lại lời nói của Từ Hải là lời hẹn đối với Thuý Kiều một năm sau sẽ có chiến thắng, sự nghiệp lẫy lừng trong tay. Một lời hứa chắc nịch với thời gian cụ thể "một năm sau" như một sự khẳng định của Từ Hải – một con người tự tin vào chí hướng tài năng của bản thân.

    Hai câu thơ cuối kết thúc đoạn trích là hình ảnh Từ Hải lúc lên đường:

    "Quyết lời dứt áo ra đi,

    Gió mây bằng đã đến kì dặm phơi."

    Hai câu thơ kết lại đoạn trích thể hiện khát vọng, hoài bão, hành động lên đường của người anh hùng. Ba động từ mạnh "quyết lời", "dứt áo", "ra đi" cho độc giả thấy được hành động mạnh mẽ, quyết đoán, dứt khoát, không chút do dự, không bịn rịn, lưu luyến của bậc trượng phu. Câu thơ cuối gợi lên hình ảnh chim bằng cất cánh cùng gió mây trên biển khơi. Đây là hình ảnh ẩn dụ mang tính ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du sử dụng hình ảnh này để ví Từ hải như cánh chim bằng cưỡi gió mà bay lên bầu trời tự do, ca ngợi vẻ đẹp lớn lao, kì vĩ của người anh hùng. Hình ảnh đã cho thấy nhân vật Từ Hải với tư thế hiên ngang giữa vũ trụ, thiên nhiên, mang tinh thần lạc quan, lãng mạn, bay bổng. Khác với Kim Trọng – mối tình đầu của Thuý Kiều, Từ Hải mang nét anh hùng, ngạo nghễ, khí phách của một đấng nam nhi. Hình ảnh Từ Hải với khát vọng lập công danh, bước chân ra đi mà như cánh chim bằng giữa bầu trời tạo ra khí thế hào hùng, sự lạc quan, tin tưởng sẽ làm nên nghiệp lớn. Ở hai câu thơ cuối, tác giả đã khái quát hình ảnh anh hùng Từ Hải với khát vọng, lý tưởng cao đẹp, phi thường, thể hiện sự khâm phục ngợi ca trước người anh hùng với chí khí cao cả.

    Với cảm hứng sáng tạo, lãng mạn cùng bút pháp nghệ thuật ước lệ, lý tưởng hóa đã vẽ nên một nhân vật Từ Hải có chí khí, lý tưởng anh hùng. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, Từ Hải mang khát vọng tự do trong cuộc sống, có tư tưởng nhân văn cao đẹp, thể hiện nét bình dị, bình thường trong con người phi thường, cao cả. Nhân vật Từ Hải đã vượt qua khỏi tư tưởng, lễ giáo phong kiến mà theo đuổi khát vọng, tự do. Bằng ngôn ngữ trang trọng, ngợi ca, Nguyễn Du qua hình tượng Từ Hải gửi gắm ước mơ về công lý, tự do trong xã hội.

    Đoạn trích "Chí khí anh hùng" đã khắc họa cuộc chia tay của Thuý Kiều và Từ Hải nhưng không hề có sự bịn rịn, níu kéo mà là sự dứt khoát, mạnh mẽ qua đó nổi bật lên chí khí người anh hùng Từ Hải. Nguyễn Du đã ca ngợi, trân trọng trước vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải theo quan niệm truyền thống – con người phi thường xuất chúng với vẻ đẹp sánh ngang tầm vũ trụ. Hình ảnh người anh hùng ấy không chỉ là ánh sáng của cuộc đời Kiều mà còn là ánh sáng trong xã hội phong kiến thối nát, là giấc mơ công lý của Nguyễn Du trong thời đại lịch sử đầy biến động. Bởi vậy mà dù rất tiếc nuối nhưng vẫn để Từ Hải thất bại và sự sụp đổ ấy là nỗi xót xa của Kiều cũng như của Nguyễn Du.
     
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...