Mình xin được gửi đến các bạn bài phân tích đoạn trích "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.." để phục vụ cho kì thi THPTQG. ĐỀ: Cho đoạn thơ sau: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. (Trích, Tây Tiến - Quang Dũng) Anh/chị hãy phân tích khổ thơ trên để làm rõ nhận định: Thơ Quang Dũng vừa hồn nhiên, vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn. BÀI VIẾT: "Mây ở đầu ô Mây lang thang Ôi! Chật làm sao Góc phố phường" Người viết nên những câu thơ như mơ như nhạc ấy không ai khác chính là "áng mây trắng xứ Đoài" Quang Dũng. Là con người trưởng thành trong khói lửa chiến tranh nhưng thơ Quang Dũng vẫn luôn giữ một sự hào hoa lãng mạn của chàng trai Hà thành. Ta thấy được đặc trưng đó trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng, một áng thơ hào hùng nhưng lại rất đỗi hào hoa, đặc biệt là trong đoạn trích "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.. . Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa" từ đó thấy được đặc điểm thơ Quang Dũng: Thơ Quang Dũng vừa hồn nhiên, vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn. Nhắc tới Quang Dũng, người ta sẽ nhớ ngay đến một con người đa tài, trong Quang Dũng ta sẽ thấy một nhà thơ, một nhạc sĩ, một họa sĩ.. Ông được tặng cho danh xưng là "áng mây trắng xứ Đoài" bởi những vần thơ bay bổng lãng mạn của mình. Phong cách thơ Quang Dũng hào hoa, tinh tế lại phóng khoáng, hồn nhiên. "Thơ là thơ, là họa, là nhạc, đồng thời là chạm khắc theo một nét riêng" có lẽ là để dành cho thơ Quang Dũng. "Tây Tiến" là một trong những bài thơ hay mà cho tới tận hôm nay, những vần thơ ấy vang lên vẫn giống như một khúc ca đi cùng năm tháng. Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. Đoạn thơ thứ hai là bức tranh diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. Cũng vì vậy nên có ý kiến cho rằng: Thơ Quang Dũng vừa hồn nhiên, vừa tinh tế, mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn. Nếu 14 câu đầu chủ yếu thể hiện sức mạnh hào hùng của người chiến sỹ Tây Tiến trong cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây hiểm trở thì tới đoạn hai, qua những kỷ niệm ngọt ngào tươi sáng, nhà thơ đã tập trung miêu tả nét hào hoa nghệ sỹ trong tâm hồn những chàng trai Hà thành lãng mạn, mộng mơ. Bốn câu đầu miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của người chiến sỹ Tây Tiến về một đêm lửa trại nơi trú quân giữa một bản làng nào đó ở miền Tây. Câu thơ đầu tiên tựa như một tiếng reo vui: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Đây là lần thứ hai đuốc được liên tưởng đến hoa - nếu trong đêm sương Mường Lát, chiến sỹ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh, huyền ảo như hoa về trong đêm hơi thì lần này, trong một đêm lửa trại giữa bản mường miền Tây, bút pháp lãng mạn đã khiến ảnh lửa bập bùng nơi đóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ, gợi những liên tưởng thú vị, đem đến sự náo nức, rạo rực trong lòng người, khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội tưng bừng. Cụm từ bừng lên là một nốt nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, nó đem đến ấn tượng về ánh sáng và đây là ánh sáng chói lòa, đột ngột của lửa, của đuốc, xóa đi cái tối tăm lạnh lẽo của núi rừng, thể hiện niềm vui sướng, rạo rực trong lòng người. Người đọc còn có thể hình dung ra những ánh mắt ngỡ ngàng, những gương mặt bừng sáng của các chiến sỹ, bừng sáng vì sự phản chiếu của ánh lửa bập bùng đêm hội, bừng sáng còn vì ngọn lửa ấm nóng trong tâm hồn, ngọn lửa của niềm vui trẻ trung, lạc quan, ngọn lửa của tình yêu với con người và mảnh đất miền Tây. Câu thơ thứ hai là hình ảnh trung tâm của hội đuốc hoa là các thiếu nữ miền sơn cước: Kìa em xiêm áo tự bao giờ Từ kìa và cụm từ nghi vấn tự bao giờ đã bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, vừa ngưỡng mộ trìu mến của các chiến sỹ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác rất chân thực trong một dịp vui hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, với mua rừng và thú dữ. Với niềm vui tỏa ra từ câu thơ, Quang Dũng còn đưa người đọc đến một cảm nhận thú vị khi liên tưởng tới câu thơ đầu. Doanh trại bừng lên hình như không chỉ vì ánh sáng của lửa, của đuốc mà còn vì sự xuất hiện đột ngột của các sơn nữ miền Tây. Các cô gái hiện lên với hai ấn tượng đẹp đẽ bởi bút pháp mỹ lệ hóa trong xiêm áo lộng lẫy và nét e ấp đầy nữ tính. Những ấn tượng ấy khiến các cô đẹp hơn trước một đoàn quân xanh màu lá, duyên dáng hơn trước những người lính dữ oai hùm . Nét tương phản của cảm hứng lãng mạn đã tạo nên chất thi vị làm dịu đi rất nhiều hiện thực khắc nghiệp của chiến tranh. Người lính Tây Tiến không chỉ ngỡ ngàng, say đắm trước vẻ đẹp của những thiếu nữ miền Tây e ấp và duyên dáng mà còn mơ màng trong man điệu núi rừng. Man điệu có thể hiểu là vũ điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể là giai điệu mới mẻ của vùng đất lạ trong tiếng khèn lên mê hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa nghệ sỹ, đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp, người lính Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm thanh ngọt ngào, những đường nét duyên dáng trong đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu bay bổng trong thế giới mộng mơ với những vẻ đẹp say người của phương xa đất lạ. Câu thơ có tới sáu thanh bằng đã diễn tả tinh tế cảm giác mơ màng chơi với ấy. Bốn câu sau thể hiện nỗi nhớ về cảnh của người miền Tây. Những hoài niệm rực rỡ và sống động về một đêm lửa trại đã được thay bằng những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ tha thiết mênh mông về cảnh sắc con người miền Tây Bắc: Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Nỗi nhớ miền Tây được gửi vào lời nhắn với người đi, nhưng đâu chỉ là nhắn với ai đó mà thực ra nhà thơ đang để lòng mình hướng về Châu Mộc, hướng về núi rừng Miền Tây, trong một chiều sương nhạt nhòa, màn sương huyền ảo của núi rừng, màn sương huyền ảo của hoài niệm, nhớ nhung. Và bây giờ, khi đang ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng cũng nhắc về chiều sương ấy với bao nỗi nhớ thương lưu luyến khi Châu Mộc trở nên nhạt nhòa trong sương khói và buổi chiều miền Tây với cảnh, với người đã bị đẩy về một quá khứ thật xa xăm: Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. Sau lời nhủ thầm xao xuyến, nhà thơ cất lên những tiếng hỏi mà phép điệu trong cấu trúc câu: Có thấy hồn lau.. có nhớ dáng người.. đã thể hiện nỗi nhớ nhung đầy trăn trở hướng về cảnh và người: Câu hỏi thứ nhất hướng về những hàng lau xám buồn bên bờ sông hoang dại: Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Nét đặc sắc trong câu thơ chính là hình ảnh ẩn dụ về hồn lau thay vì bờ lau, hàng lau hay rừng lau.. Hoa lau có màu xám trắng, bông lau được tạo bởi muôn ngàn hạt nhỏ li li nên chỉ cần một chút gió rất nhẹ hoa cũng xao động, cả bờ lau đung đưa mềm mại. Sắc trắng của hoa lau trong chiều sương nhạt nhòa, mơ ảo, cái phơ phất của ngàn lau trong xạc xào gió núi đã khiến rừng lau như có hồn, như biết sẻ chia nỗi niềm với con người, sự giao cảm khiến nỗi nhớ càng mênh mông da diết. Khi đã xa miền Tây, câu hỏi có thấy hồn lau nẻo bến bờ càng làm xao xác lòng người. Hoa lau thường mọc ven bờ sông, triền núi, nơi vắng người qua lại. Trong những năm tháng quá khứ, người chiến sỹ Tây Tiến hành quân giữa núi rừng miền Tây, bên dòng sông Mã, giữa phơ phất ngàn lau, lau như linh hồn của rừng núi chia sẻ buồn vui với chiến sỹ trên đường hành quân. Nay người đã đi xa, ngàn lau vẫn ở lại giữa mênh mông gió núi, cảm giác về những bờ lau cô đơn nẻo bến bờ khiến nỗi nhớ càng xao xác trong lòng người đã chia xa. Câu hỏi thứ hai dành cho con người miền Tây Bắc: Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. Trong làn sương mờ của hoài niệm, con người miền Tây chỉ hiện lên như một bóng dáng mờ xa huyền ảo. Dáng người ấy vừa cứng cỏi, kiên cường trên con thuyền độc mộc đè thác lũ băng băng lướt tới, vừa mềm mại, duyên dáng trong hình ảnh ẩn dụ hoa đong đưa . Quang Dũng không viết hoa đung đưa mà là hoa đong đưa vừa nhằm miêu tả sự duyên dáng của hoa trên dòng nước lũ vừa gợi tả tinh tế dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của những sơn nữ miền sơn cước - đó là một sáng tạo mới mẻ về ngôn từ, thể hiện chất lãng mạn rất đặc sắc của hồn thơ Quang Dũng. Đoạn thơ đưa ta vào thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn. Mỗi phần của bài thơ Tây Tiến đều mở ra những khung cảnh những hoài niệm khó quên trong kí ức bản thâm của mỗi người lính. Những hình ảnh mộc mạc ấy dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ, mỗi nét đậm nhạt với sự kết hợp cả cảnh và con người đều thật sống động qua ngôn từ được trau chuốt, thể thơ tự do, câu thơ nhiều thanh bằng.. Tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ. Sự hào hoa tinh tế của Quang Dũng thể hiện ở việc sau chuyến hành quân vất vả, người lính ấy vẫn có thể thả hồn mộng mơ với thiên nhiên núi rừng, với những cô gái xinh đẹp trong hội đuốc hoa. Bên cạnh đó, sự lãng mạn của nhà thơ cũng đã được bộc lộ rõ nhất qua bút pháp của đoạn thơ là bút pháp lãng mạn cùng với các hình ảnh đẹp đến nao lòng: "Xiêm áo", "hội đuốc hoa", "hồn lau".. Là người trẻ sống trong thời đại, tôi yêu văn chương không vì cái hay cái đẹp của nó mà còn vì văn chương đã cho tôi sống lại trong quá khứ để thêm mến thêm yêu những người lính. Nói như Hoài Thanh:"Cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của con người vì văn chương mà trở nên thâm trầm rộng rãi hơn đến trăm nghìn lần.