Phân tích, đánh giá đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Lagan, 16 Tháng tư 2023.

  1. Lagan

    Bài viết:
    635
    [​IMG]

    Bài thơ Tây Tiến là một trong những tác phẩm trọng tâm trong chương trình ngữ văn lớp 12 phục vụ trực tiếp cho các cuộc thi tốt nghiệp, thi học sinh giỏi.. Hãy cùng mình đi phân tích chuyên sâu 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến để có cái nhìn sâu sắc hơn về tác phẩm nhé!


    Đề bài: Phân tích, đánh giá đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong 14 câu thơ đầu (khổ đầu) bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng?

    Bài làm

    Văn học thế giới nói chung và văn học Việt Nam nói riêng đều là những dòng chảy mãnh liệt theo thời gian và ở đó, những người nghệ sĩ trở thành những người cầm lái đưa những chuyến tàu của mình cập bến bờ kì ảo. Có khi những vị thuyền trưởng ấy đưa tàu đến những miền đất căng đầy khổ đau và ám ảnh, cũng có khi những con tàu được đậu nơi bến sông trăng đa sầu, đa cảm và đầy sức gợi. Thế nhưng sau tất cả, dù có đỗ đậu nơi đâu thì những con tàu cũng chẳng thể thoát khỏi vòng tròn đồng tâm của văn học mà ôm ấp lấy cái tâm của vòng tròn – con người. Con người là nguyên liệu, là dụng cụ và cũng là sản phẩm để những người nghệ sĩ thỏa sức sáng tạo và tại địa phận văn học ấy, chưa bao giờ con người ta bắt gặp những con tàu hùng dũng, oai vệ mà cũng rất đỗi sầu bi như trong văn học thời kì kháng chiến. Một vị thuyền trưởng giỏi luôn song hành cũng con tàu của riêng mình và Quang Dũng và bài thơ "Tây Tiến" cũng chính là một ví dụ như thế. Đặc biệt là ở khổ thơ đầu tiên, Quang Dũng đã tái hiện lên một thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ và chân dung người chiến sĩ Tây Tiến anh hùng:

    "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

    [..]

    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."

    Mỗi tác phẩm nghệ thuật phải thực sự là một tiếng sáo thổi lòng thời đại, thành giao liên dẫn dắt đưa đường. Quả thực là thế, tiếng sáo thổi hồn, thổi lòng Quang Dũng trong những tháng ngày rời xa đơn vị cũ chính là Tây Tiến và chính tiếng sáo du dương ấy đã đưa ta vào một thời bom lửa mà bi tráng, hào hùng của dân tộc. Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947 và có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở biên giới Thượng Lào và miền Tây Bắc Việt Nam. Chiến sĩ Tây Tiến thời ấy phần đông là thanh niên Hà Nội. Vào cuối năm 1948, người đại đội trưởng Quang Dũng rời xa đơn vị và tại Phù Lưu Chanh, tác giả đã viết lên bài thơ này. Ban đầu, bài thơ có tên "Nhớ Tây Tiến" sau đổi thành "Tây Tiến" và được in trong tập "Mây đầu ô". Và ngay tại 14 câu thơ đầu này, Quang Dũng đã vẽ lên một bức tranh rừng núi, con người với ngòi bút hiện thực nhưng vẫn đầy chất lãng mạn.

    Nhà thơ Sóng Hồng quan niệm rằng: "Thơ là một hình thức nghệ thuật cao quý. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng." Quan niệm ấy từ khi ra đời đã là kim chỉ nam rực sáng cho biết bao thế hệ thi sĩ. Và người con của mảnh đất xứ Đoài mây trắng ấy cũng không ngoại lệ. Ông lấy "hình thức nghệ thuật cao quý" của thơ tạo nên nét đắc sắc trong hành trình sáng tạo của mình, lấy tình cảm mãnh liệt, nồng cháy để thể hiện nỗi nhớ da diết về một thời Tây Tiến. Tây Tiến trước hết là hoài niệm về những ngày tháng gian lao mà đầy lãng mạn, trước hết là được gợi lên qua hai câu thơ:


    "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

    Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi."

    [​IMG]

    Bài thơ viết về Tây Tiến nhưng lại bắt đầu bằng hình ảnh Sông Mã, đó là con sông của miền Tây Bắc chảy từ Thượng Lào đến tận Thanh Hóa. Dòng sông ấy đã gắn bó với đoàn quân Tây Tiến, chứng kiến bao vui buồn trong cuộc đời người chiến sĩ và hơn nữa, dòng sông cũng bào lần đưa các anh về cùng đất mẹ. Như vậy, sông Mã đã trở thành dòng sông nặng đầy cảm xúc, là dòng sông tâm trạng với bao nỗi nhớ đầy vơi trong lòng thi nhân.

    Với Quang Dũng, cả Sông Mã và Tây Tiến đều đã "xa rồi". Hai chữ "xa rồi" đặt giữa dòng thể hiện tính hàm xúc, gợi cảm giác tiếc nuối, bâng khuâng, tất cả đã lùi xa thành kỉ niệm. Sau 3 tiếng "Tây Tiến ơi" thân thiết nao lòng là nỗi nhớ chất chồng, triền miên và da diết như được nhân lên cùng lối sử dụng điệp từ "nhớ về", "nhớ chơi vơi". Hai từ nhớ được đặt trong cùng một câu nhưng lại tách ra thành hai vế khiến nỗi nhớ như được tô đậm thêm, dạt dào như những lớp sóng dâng lên mãnh liệt. Nỗi nhớ của nhà thơ thật điển hình, đặc sắc: "Nhớ chơi vơi". Hai chữ "chơi vơi" thật giàu sức gợi, đó là cái nhớ nao nao, mênh mang không sao nói lên thành lời. Nỗi nhớ như không thể níu vào thứ gì cụ thể mà cứ thế tràn ra như ca dao xưa từng bày tỏ:


    "Ra về nhớ bạn chơi vơi

    Nhớ chiếu bạn trải, nhớ nơi bạn nằm"

    Hay Xuân Diệu cũng viết:

    "Sương nương theo trăng ngừng lưng trời

    Tương tư nâng lòng lên chơi vơi."

    Thế nên mới nói cách viết của Quang Dũng không phải là sáng tạo, nhưng 3 chữ "nhớ chơi vơi" của Quang Dũng thật đắc địa. Ở hai câu thơ này, đắt nhất là sự láy lại ba lần âm "ơi" : "Ơi", "chơi vơi". Đây là ba thanh bằng lại là ba âm mở nên mang âm hưởng vọng dài và lan tỏa. Tiếng gọi như vọng ra từ vách đá của núi rừng, như vang ngân cùng nỗi nhớ ngàn trùng của lòng người. "Nhớ chơi vơi" - nhẹ tênh, vô hình, vô lượng, mà lại ám ảnh khiến người thi sĩ như lửng lơ, bồng bềnh giữa thinh không.

    Trong nỗi nhớ của Quang Dũng có nhiều địa danh xuất hiện và được đánh thức:


    "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

    Mường Lát hoa về trong đêm hơi."

    Sài Khao, Mường Lát – hai địa danh đứng đầu dòng thơ gợi cho người đọc hướng về miền đất xa xôi, hoang dã, mới nghe thôi đã thấy chùn chân, mỏi gối. Thế nhưng đó cũng chính là địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến. Địa danh trong bài thơ đóng những vai trò đặc biệt và người thi sĩ đã dựng lên một thế giới địa danh với những cái tên thật lạ lẫm: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mai Châu.. Các địa danh không được sắp xếp theo trình tự không gian nhưng chính những địa danh ấy lại tái hiện lên một thời kì hào hùng của dân tộc với biết bao khó khắn, gian khổ.

    Bức tranh thiên nhiên vừa hiện thực, vừa lãng mạn hiện lên qua lăng kính người chiến sĩ như mờ, như tỏ. Núi rừng Tây Bắc hiện lên trong khói sương mờ ảo như che lấp đi cả đoàn binh mỏi. Hai chữ "sương lấp" cũng chữ "mỏi" đưa người đọc trở về với cái hiện thực khốc liệt của đời lính. Sương núi lạnh cắt gia cắt thịt như bao trọn lấy đoàn quân. Đúng như nhà thơ Chính Hữu đã từng viết:


    "Đêm nay rừng hoang sương muối

    Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

    Đầu súng trăng treo."

    Thế nhưng, ngòi bút lãng mạn của tác giả đã làm dịu lại cái khắc nghiệt của thiên nhiên. Thi sĩ xứ Đoài đã viết "hoa về" chứ không phải hoa nở, "đêm hơi" chứ không phải là đêm sương khiến cho câu thơ thêm phần lãng mạn. Hình ảnh sương khói bồng bềnh trong đêm tạo nên sự huyền ảo, mơ hồ. Đặc biệt hơn nữa, hình ảnh "hoa về" đã đem đến cho người đọc nhiều suy nghĩ. Có thể hiểu trong sự cảm nhận lãng mạn của người lính thì sương khói ở Mường Lát lúc tụ lúc tan trông như những bông hoa khói lạ, cũng có thể hiểu là những người lính Tây Tiến trên đường hành quân nơi Mường Lát đã mang theo những đóa hoa rừng và hoa đang bung nở trên chặng đường hành quân, trở thành người bạn đồng hành của người lính đến tận khi úa tàn. Đây là những bông hoa có thực. Nhưng dẫu hiểu theo cách nào thì người đọc vẫn tỉ mỉ cảm nhận được những khó khăn, gian khổ mà người lính phải trải qua. Hai câu thơ tuyệt bút trên tác giả vừa sử dụng những hình ảnh gân guốc, vừa sử dụng những hình ảnh thơ mộng kết hợp với nghệ thuật đối như làm nổi bật vẻ đẹp thiên nhiên dữ dội mà cũng thật nên thơ, qua đó còn là hai khía cạnh cuộc đời người lính: Gian khổ mà cũng hết mực lãng mạn.

    Ngoài sương thì dốc và đèo là những đặc trưng không thể không nhắc tới khi nói về núi rừng Tây Bắc. Dốc và đèo thật hiểm trở, gian nguy:

    "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

    Heo hút cồn mây súng ngửi trời"

    Câu thơ miêu tả con dốc có 7 chữ thì có đến 5 thanh trắc gợi cho ta liên tưởng tới tứ thơ của đại thi hào Nguyễn Du khi ông miêu tả con đường đưa Kiều đến lầu xanh mà nàng chẳng hề hay biết:

    "Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh"

    Nguyễn Du thể hiện âm điệu trúc trắc của câu thơ để ngầm dự báo số phận của nàng Kiều còn Quang Dũng lại sử dụng những thanh trắc để gây ấn tượng về những cung đường đầy hiểm nguy, gian khổ. Cùng với âm điệu thanh trắc là điệp từ "dốc" tạo cho ta cảm giác chênh vênh vô cùng hung hiểm của núi rừng Tây Bắc. Cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện sự trùng điệp, chồng chất, nối tiếp những con dốc lại là những con dốc và nối tiếp nhọc nhằn lại là những nhọc nhằn. Con dốc này chưa hết thì con dốc khác lại lồ lộ ra, núi rừng Tây Bắc như đang muốn thử thách nghị lực của con người. Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây còn hiện ra trong ý nghĩa tạo hình của các cừ láy "khúc khuỷu", "thăm thẳm". Từ láy "khúc khuỷu" miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh ngay dưới chân người lính còn từ láy "thăm thẳm" lại gợi độ cao, độ xa vời vợi khi đưa mắt nhìn tới con đường hành quân vẫn cheo leo ngút ngàn như không cùng. Con đường lên miền Tây Bắc quả gọi là "nan ư thướng thanh thiên" (Khó như lên trời xanh – Lí Bạch)

    [​IMG]

    Sau khi vượt qua dốc núi gập ghềnh gian khổ, người lính đặt chân đến tầm cao vời vợi của núi non:

    "Heo hút cồn mây súng ngửi trời"

    Trong phép đảo ngữ, từ láy "heo hút" được đặt lên đầu để nhấn mạnh nỗi hoang sơ, tiêu điều, xa vắng của cảnh vật. Trên đỉnh dốc núi cao kia có thiên nhiên nguyên thủy không có sự xuất hiện của con người. Cách kết hợp từ "cồn mây" gợi liên tưởng đến những đám mây chất chồng, trùng điệp và con đường hành quân của người lính như lẫn vào với mây. Bước chân người lính như đạp lên mây trời. Nghệ thuật nhân hóa "súng ngửi trời" được nhà thơ sử dụng mang theo nhiều tầng ý nghĩa. Trước hết, đây là hình ảnh xuất phát từ hiện thực, những người lính hành quân trong mây mà tưởng như lòng súng chạm đến trời cao. Hình ảnh thơ còn mang nghĩa biểu tượng giúp người đọc phát hiện ra vẻ đẹp tài hoa và lãng mạn của người lính Tây Tiến. Họ đang tếu táo đùa vui cùng tạo hóa.

    Mặt khác, Quang Dũng không nói đến lính mà vẫn thấy lính, không nhắc đến núi cao mà vẫn thấy núi cao. Chữ "ngửi" vẽ ra hình ảnh người lính đang ở tư thế chót vót trên đỉnh núi đi giữa ngàn mây, lòng súng chạm tới trời. Vẻ đẹp con người càng nổi bật hơn khi chẳng hề yếu thế trước trời đất. Họ tỏa sáng giữa núi rừng Tây Bắc và mang vẻ đẹp sử thi của Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Đó là vẻ đẹp của người lính trong văn học chống Pháp:


    "Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

    Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

    Núi không đè nổi vai vươn tới

    Lá ngụy trang reo với gió đèo."

    Hai câu thơ tiếp theo, Quang Dũng tiếp tục khắc họa thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở để từ đó làm nổi bật tâm hồn người lính:

    "Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."

    Lại thêm một câu thơ ngắt nhịp 4/3 và lần này là điệp từ "ngàn thước" tạo nên nét gập gãy đầy ấn tượng, đem đến cho ta hình dung những con dốc đột ngột dựng đứng rồi lại bất chợt sụp lún đầy hiểm trở. Âm điệu thơ Quang Dũng cứ như trò chơi bập bênh chóng mặt. Quả thật, khi bàn về hai câu thơ này, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: "Câu thơ đọc lên nghe như tiếng thở nặng nhọc của người lính trên đường hành quân Tây Tiến."

    Nếu như những câu thơ trên Quang Dũng sử dụng thanh trắc với mật độ dày đặc để vẽ lên những đường nét gân guốc, rắn rỏi về địa hình vùng núi cao Tây Bắc thì câu thơ "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi" hạ xuống đột ngột toàn thanh bằng. Không gian được cảm nhận qua điểm nhìn của người lính Tây Tiến khi các anh đang hành quân trên những đỉnh núi, phóng tầm mắt ra xa, dưới kia là những ngôi nhà lấp ló trong làn mưa. Người đọc không còn thấy dấu vết của sự mỏi mệt nữa mà giờ đây là tâm trạng thư thái, bâng khuâng của con người khi lên đến đỉnh dốc, vượt qua bao gian khổ, nguy hiểm trùng trùng mà vẫn giữ vững sự lạc quan, yêu đời.


    (Đọc tiếp bên dưới)


    Đọc thêm:

    Phân Tích Khổ 2 Bài Thơ Tây Tiến – Quang Dũng

    Phân Tích 8 Câu Thơ Khổ Thứ 3 Của Bài Thơ Tây Tiến – Quang Dũng

    Phân Tích 4 Câu Thơ Cuối Bài Thơ Tây Tiến – Quang Dũng
     
    ThuyTrang, chiqudoll, LieuDuong3 người khác thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 10 Tháng năm 2023
  2. Lagan

    Bài viết:
    635
    (Tiếp theo)

    Nhắc đến hai từ chiến tranh thì hi sinh, mất mát, tổn thất, đau thương là điều không thể tránh khỏi. Tây Tiến là một nốt nhạc buồn trong bản đàn ca về chủ đề cách mạng nên cũng không nằm ngoài cảm giác hụt hẫng ấy. Và bức tranh thứ hai mà ta cảm được từ đoạn thơ đầu là hình ảnh người lính hi sinh giữa bao gian khổ, thiếu thốn nhưng vẫn bi tráng và vô cùng lãng mạn:


    "Anh bạn dãi dầu không bước nữa

    Gục lên súng mũ bỏ quên đời."

    Anh bạn được Quang Dũng nhắc tới trong dòng thơ chỉ những người lính Tây Tiến, những người cùng chung lí tưởng, chung chiến hào, những người đồng chí, đồng đội, người anh em trong đại gia đình Tây Tiến. Cách gọi của Quang Dũng tràn đầy tình yêu mến, sự gần gũi, thân quen mà hết mực trân trọng. Những người lính đoàn binh Tây Tiến "dãi dầu", tức dầm mưa dãi nắng, phơi mình trước gió sương đến bạc sờn vai áo nay đã kiệt sức, không bước được nữa và "bỏ quên đời". Ở đây không phải là trần trụi theo nghĩa lùi bước, đầu hàng mà là cách nói giảm nói tránh. Ta thấy được sự hy sinh của người lính đã giảm đi cái bi lụy mà thay vào đó là bi tráng, hào hùng. Người lính không hề chết, không hề gục ngã mà chỉ dừng chân nghỉ lại sau chặng đường vất vả, cách anh chỉ chợp mắt để vơi đi nỗi mệt nhọc mà thôi:

    "Dấu chân anh đi nay đây mai đó

    Chẳng quản chi vạn dặm vó ngựa phi

    Bóng hình anh vẫn theo bước anh đi

    Dù gian khổ chẳng quản chi vất vả."

    Như vậy, hiện thực thê lương của thời bom đạn đâu còn nữa mà giờ đây chỉ còn thấy khí thế hào hùng trong bức tranh đầy bi tráng mà tác giả vẽ lên mà thôi. Tư thế ấy như muốn nói với chúng ta rằng đến tận giây phút cuối cùng, người lính vẫn cầm chắc tay súng, sẵn sàng chiến đấu ngay cả khi đã hy sinh. Vẻ đẹp này đã được nhiều nhà thơ cảm nhận và thể hiện. Đó là Chính Hữu khi viết về đồng chí của mình:

    "Bạn ta đó

    Chết trên dây thép ba tầng

    Một bàn tay chưa rời báng súng

    Chân lưng chừng nửa bước xung phong."

    Đó còn là Lê Anh Xuân cảm phục người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu chống Mĩ:

    "Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất

    Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

    Và anh chết trong khi đang đứng bắn

    Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng."

    Câu thơ của Quang Dũng kết thúc bằng dấu cảm thán như là lời bày tỏ tiếc thương làm mạch cảm xúc trong ý thơ dâng trào. Tuy nhiên, động từ "gục" đặt ở đầu câu như nhấn mạnh sự khắc nghiệt của hiện thực và đã lột tả được chất bi tráng của toàn bộ khổ thơ đúng như lời nhận xét của Trần Lê Văn: "Tây Tiến phảng phất nét buồn nét đau nhưng buồn mà không bi lụy, ngược lại rất bi tráng."

    Bên cạnh sự dữ dội của núi rừng thì mảnh đất nơi đây còn ẩn chứa hiểm nguy với:


    "Chiều chiều oai linh thác gầm thét

    Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."

    Âm hưởng của những câu thơ này rất gần với bài thơ "Nhớ rừng" của Thế Lữ:

    "[..]

    Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

    Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan

    Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

    Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới

    [..]

    Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

    Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

    Để chiếm lấy riêng phần bí mật

    Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu."

    Và trong một lần trò chuyện, Quang Dũng đã tâm sự: "Tôi cũng say thơ mới như bất kì học sinh nào thời đó nhưng tôi thích thơ Thế Lữ hơn cả, đặc biệt là bài thơ" Nhớ rừng "bởi tâm trạng sơn dã của nó." Và ở đây, cũng là nỗi nhớ về núi rừng, nhưng nỗi nhớ của Quang Dũng hoàn toàn riêng biệt, không phải là giấc mơ của con mãnh thú về quá khứ mà tái hiện lại những địa danh rất Tây Bắc, rất khắc nghiệt mà người lính Tây Tiến đã trải qua.

    "Thác thét" như mở ra những hình ảnh ngọn thác ào ào mạnh mẽ như muốn cuốn phăng đi tất cả. Nó gợi sự hoang dã và bí hiểm. Sự hiện hữu của cặp từ láy toàn phần "chiều chiều" và "đêm đêm" khiến ta hình dung rõ hơn sự khắc nghiệt, dữ dội, âm u và bí ẩn. Bí hiểm lặp đi lặp lại như một vòng quay bất biến đe dọa người lính Tây Tiến. Không chỉ là đói, rét, bệnh tật, quân thù mà còn là sự rùng rợn, ghê gớm của chúa tể sơn lâm.


    [​IMG]

    Nhà thơ Vũ Quần Phương có nói: "Địa danh Mường Hịch đọc có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Hai chữ" Hịch cọp "với hai dấu trĩu nặng xuống nghe rờn rợn như tiếng bước chân đượm mùi tử khí của chúa sơn lâm." Âm điệu thơ của Quang Dũng như gõ lên dây thần kinh của độc giả. Hoang dại là vậy, nguy hiểm và vậy nhưng ta vẫn thấy người lính lạc quan đùa tếu, gợi ra những tiếng cười khúc khích như tan đi bao hiểm nguy. Tiếng cười của người lính đã trở thành năng lượng sống, đồng nghĩa với con người đã thắng thế trước hoàn cảnh khắc nghiệt xung quanh.

    Xuyên suốt bài thơ Tây Tiến nói chung và khổ thơ thứ nhất nói riêng ta có thể thấy, cảm xúc là khâu đầu tiên và then chốt nhất. Nó như một chiếc chìa khóa dẫn dắt ta lần theo thi mạch, đi qua những kí ức về thiên nhiên, về đồng đội và giờ đây là lưu giữ những kỉ niệm về bản làng Tây Bắc:


    "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."

    Một lần nữa, nỗi nhớ lại được bật lên thành lời khiến tác giả thốt lên: "Nhớ ôi". Hai từ mang giọng điệu cảm thán, bộc lộ nỗi nhớ nhưng trào dâng mãnh liệt. Câu thơ có ba thanh trắc ngắt quãng đều đặn khiến âm điệu câu thơ vút lên, đẩy nỗi nhớ nhung lên cung bậc cao nhất. Sau chặng đường hành quân vất vả, người lính dừng chân, quây quần trong niềm vui ấm áp bên những nồi cơm còn thơm mùi gạp mới. Câu thơ gợi đến hai cách hiểu. Có thể người lính Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu khi lúa vừa chín, đón nhận bát xôi hương nếp đầu mùa. Đặc biệt có bàn thay thơm thảo của em làm nên hương vị nồng ấm ấy làm vấn vương lồng người chiến sĩ Tây Tiến. Hương nếp thơm hay chính là sự thơm thảo của lòng người, của tình em nồng thắm. Điều này trong bài thơ "Tiếng hát con tàu", Chế Lan Viên có từng nhắc tới:

    "Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

    Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

    Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

    Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương."

    Không chỉ vậy, hai chữ "mùa em" còn là sáng tạo ngôn ngữ tài hoa của tác giả gợi đầy nỗi nhớ và tình thương, trìu mến và thân thuộc. Chữ "mùa" gợi sự đủ đầy, ăm ắp sự sống mang hương vị của đồng nội còn "em" gợi vẻ đẹp xuân sắc của người thiếu nữ. Hai từ "mùa em" gợi tả tinh tế cảm giác xao xuyến say mê của các chàng trai Hà Thành hào hoa lãng mạn trước sản vật của núi rừng và con người Tây Bắc. Và đây mãi mãi là những kỉ niệm đẹp làm ấm lòng người lính trên những chặng đường hành quân gian lao và đầy thử thách còn đang dở dang phía trước.

    Giá trị của các nhà thơ phải gắn với từng bài và nếu không đánh giá giá trị thực, thơ ca sẽ mất đi độc giả. Mười bốn dòng thơ đầu tựa như những thước phim tư liệu nhưng đầy giá trị nghệ thuật về cuộc sống và chiến đấu của người lính Tây Tiến. Với thủ pháp điện ảnh, Quang Dũng như một nhà quay phim tài hoa ghi lại những chặng đường hành quân của người lính. Pautovsky từng thốt lên: "Những chữ xơ xác nhất mà chúng ta đã nói đến cạn cùng, mất sách tính chất hình tượng đối với chúng ta, những chữ ấy trong thơ ca lại sáng lấp lánh, lại kêu dòn và tỏa hương." Bằng cách nào đó, Quang Dũng đã sử dụng những chữ xơ xác ấy và viết lên trang thơ của chính mình.

    Cảm ơn các bạn đã đón đọc! Hãy để lại bình luận để bài viết được đầy đủ và trọn vẹn hơn nhé!


    Đọc thêm:

    Phân Tích Khổ 2 Bài Thơ Tây Tiến – Quang Dũng

    Phân Tích 8 Câu Thơ Khổ Thứ 3 Của Bài Thơ Tây Tiến – Quang Dũng

    Phân Tích 4 Câu Thơ Cuối Bài Thơ Tây Tiến – Quang Dũng
     
    ThuyTrang, LieuDuongchiqudoll thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 20 Tháng tư 2023
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...