Phân tích, đánh giá đặc sắc nội dung và nghệ thuật đoạn những người vợ nhớ chồng - Đất nước

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Lagan, 3 Tháng sáu 2023.

  1. Lagan

    Bài viết:
    635
    Đề bài: Phân tích, đánh giá đặc sắc nội dungnghệ thuật trong đoạn thơ sau:

    "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu

    [..]

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.."

    Nhận xét ngắn gọn tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân".


    [​IMG]

    Bài làm

    Đất Nước đẹp quá! Yêu mến quá! Đất Nước là điệu hò, điệu nam ai, nam bình. Đất Nước là người mẹ, người cha. Đất Nước là cái nôi con trẻ nối liền quá khứ, hiện tại đến tương lai. Hơn hết, Đất Nước còn là hóa thân của những con người cao đẹp để làm nên đất nước muôn đời như trong trường ca của Nguyễn Khoa Điềm:

    "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu

    [..]

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.."

    Có thể nói cảm hứng về Đất Nước và nhân dân anh hùng luôn sục sôi và thổn thức trong tâm khảm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ông cố lòng yêu nước không chỉ là lòng hăng hái chiến đấu, căm thù giặc mạnh mẽ mà còn là niềm tự hào về lịch sử 4000 năm hào hùng của dân tộc với những chiến công của ông cha. Bởi người xưa đã từng cho rằng: "Trước khi biến thành mực chảy qua ngòi bút, những gì nhà văn viết ra sẽ chảy qua tim như một dòng máu" Và có lẽ Nguyễn Khoa Điềm cũng như thế. Sinh ra và lớn lên ở cố đô Huế nơi ươm mầm bao chiến sĩ anh hùng và là cái nôi nuôi dưỡng biết bao thi sĩ. Nhà thơ đã dành cả tuổi trẻ để lắng nghe nhịp biến chuyển của chiến tranh, để lắng nghe từng cái âm vang của Đất Nước đang gồng mình chống Mĩ. Từ những âm vang thổn thức đó, từ những cái khổ đau đó, bằng giọng thơ trữ tình giàu chất chính luận cùng hòa quyện nhất quán giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng vào năm 1971, ngay lúc bom rơi lửa đạn, ông đã viết lên trường ca mặt đường khát vọng tại chiến khi Bình Trị Thiên. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị tạm chiếm miền Nam và sứ mệnh mà thế hệ trẻ mang trên vai mình. Và với chương V mang tựa đề Đất Nước, đây là chương cuối cùng của bản trường ca với tư tưởng cốt lõi "Đất Nước là của nhân dân".

    Đọc đoạn thơ ta thấy trong tám câu thơ đầu xuất hiện đến sáu câu chỉ địa danh và danh lam thắng cảnh. Hơn nữa, các địa danh lại được trải dài trên mọi miền Tổ Quốc. Nếu như nhà văn Lỗ Tấn từng nói: "Kì thực trên mặt đất làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi" Với quan niệm đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại làm độc giả bất ngờ và thiết tha theo những vần thơ của ông bởi một ý niệm tên đường, cuộc đời của một con đường chính là sự hóa thân bất tử của cuộc đời, của câu chuyện mỗi con người. Những con người không tên không tuổi đã góp cho danh lam thắng cảnh của Đất Nước một sự hóa thân:


    "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

    Cặp vợ chồng yêu nhau góp lên hòn Trống Mái"

    Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đó là những danh lam thắng cảnh ở xứ Thanh và xứ Lạng. Mỗi địa danh đó đã quá đỗi quen thuộc với mỗi chúng ta nhưng hôm nay đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm nó trở lên lấp lánh vẻ đẹp mới lạ. Lạ bởi tên núi, tên sông ấy không phải sản phẩm của tạo hóa mà được nảy nở trong số phận của nhân dân. Nếu không có những chàng trai cô gái thắm thiết yêu thương nguyện sống chết bên nhau thì làm sao có sự tích hòn Trống Mái. Và không có những người vợ thủy chung chờ chồng trong suốt những cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc thì Đất Nước làm gì có những núi Vọng Phu. Đâu đâu trên Đất Nước này cũng có những bản tình ca bất hủ; "Núi vợ núi chồng đứng sóng đôi" (Núi Đôi – Vũ Cao) và những hồ Than Thở, hồ Núi Cốc đã đi vào những ca từ rất đẹp của nhạc sĩ Phó Đức Phương: "Mối tình thương nhau đã hóa sông hóa núi để lại khúc ca muôn đời." Như vậy, Nguyễn Khoa Điềm đã vượt lên lối liệt kê tầm thường để có cái nhìn mới mẻ về thiên nhiên Đất Nước. Chính tình yêu chung thủy của lứa đôi đã góp phần tô điểm cho danh lam thắng cảnh.

    Nguyễn Khoa Điềm còn phát hiện tinh tế và độc đáo vẻ đẹp của Đất Nước với sức sống tinh thần của nhân dân trong chiều sâu văn hóa dân tộc:


    "Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

    Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương"

    Gót ngựa Thánh Gióng gợi ta nhớ đến truyền thuyết thánh gióng với chứng tích "ao đầm" hình móng chân ngựa có khắp chân núi Sóc Sơn – Hà Nội. "Chín mươi chín con voi" bao quanh núi Hi Cương ở Phú Thọ đã góp mình cho đất Tổ Hùng Vương. Hình ảnh con người phi thường, những con vật quen thuộc trong mỗi bản làng: Ngựa, voi cùng tập hợp để làm nên những hồn thắng cảnh cho Đất Nước ở miền Bắc. Với truyền thuyết anh hùng dân tộc yêu nước và quyết tâm giữa lấy Đất Nước, tất cả nhằm nhắc nhở chúng ta truyền thống đánh giặc giữ nước và công cuộc xây dựng kiến thiết cùng với tinh thân đoàn kết. Đất Nước lung linh hương sắc văn hóa dân gian và truyền thống đẹp đẽ của nhân dân.

    Người xưa quan niệm, danh lam thắng cảnh của Đất Nước là sản phẩm của tạo hóa do tạo hóa ưu ái ban tặng cho con người trần thế: "Cảnh tiên rơi cõi tục" (Nguyễn Trãi). Giờ đây, Nguyễn Khoa Điềm có cái nhìn mới mẻ đều là sự hóa thân cuộc sống nhân dân:


    "Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

    Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên

    Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

    Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm."

    Hình ảnh những con rồng nằm im gợi ra trước mắt người đọc dòng Cửu Long Giang xanh thắm huyền thoài đem đến vẻ hùng vĩ của giang sơn gấm vóc. Với núi Bút non Nghiên gợi về một đất nước hiếu học truyền thống văn hóa lâu đời của Đại Việt nghèo vật chất mà giàu tinh thần, trí tuệ. Từ những ngựa, voi, rồng những cơn vật to lớn dũng mãnh đến những con cóc, con gà quê hương cũng giúp Hạ Long thành thắng cảnh. Đất Nước mình lớn lên từ đó. Đến với miền Trung, nhà thơ đưa ta về với miền đất Quảng Ngãi chiêm ngưỡng núi bút, non nghiên thì miền Nam là những người dân hiền lành chăm chỉ: Ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm đã góp lên tên xã, tên làng. Như vậy, khi ta sinh ra, sông núi đã có rồi nhưng đó là những dòng sông vô tích, những ngọn núi vô danh căn cứ vào hình sông thế núi và chính cuộc đời, chính truyền thống tốt đẹp của mình, nhân dân đã tô thắm cho địa danh, cho danh lam thắng cảnh không còn vô tri vô giác mà thẫm đẫm chất huyền sử, huyền tích.

    Tám câu thơ mở đầu của đoạn, tác giả nhắc đến một loạt các địa danh với chất liệu văn hóa dân gian. Đặc biệt, nhà thơ điệp đi điệp lại từ "góp" và đem đến cho những động từ, vị ngữ ấy những ý nghĩa mới mẻ. Khám phá của nhà thơ bình dị nhưng mang tính nhân văn. Nhân dân chính là người nghệ sĩ tạo ra giá trị tinh thần tô điểm cho thiên nhiên. Từ đây, ta nhận ra sự ca ngợi của Nguyễn Khoa Điềm hướng về vẻ đẹp tinh thần và trí tuệ. Không có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quý, khát vọng lãng mạn thì không có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời chiêm ngưỡng.


    [​IMG]

    Từ những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể nổi tiếng cuardn, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến những khái quát mang tính triết luận:

    "Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

    Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

    Ôi Đất Nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấy

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta"

    Đâu chỉ có những địa danh như núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân kì diệu của nhân dân còn ở tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi mang dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng của cha ông. Vời chiều rộng lãnh thổ địa lí kết hợp với chiều sâu văn hóa để từ đó nhà thơ nhận ra bất cứ ở đâu trên Đất Nước này đều mang theo một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha. Điệp từ "một" được lặp đi lặp lại ba lần trong dòng thơ tạo nên giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng, thiết tha, lắng đọng. Cho thấy hình tượng Đất Nước cũng là điệu tâm hồn, phong cách, văn hóa, phẩm chất, lối sống cha ông. Nghĩa là nhân dân không chỉ góp danh lam thắng cảnh mà còn góp giá trị tinh thần, đó là phong tục tập quán truyền thống hay nói một cách khái quát, đó là chiều sâu của văn hóa dân tộc.

    Hai câu cuối hình tượng thơ được nâng lên đầy chất trí tuệ với chiều dài lịch sử:


    "Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

    Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.."

    Thán từ "ôi" kết hợp với chữ "ta" được lặp đi lặp lại đến hai lần tạo nên nhạc điệu du dương, nồng nàn, say đắm, tự hào. Núi sông ta có được vẻ đpẹ hùng vĩ, diễm lệ là nhờ những cuộc đời đã hóa thân, đã hi sinh. Động từ "hóa" không chỉ gợi những đóng góp lớn lao bởi mồ hôi, sương máu của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước mà còn ca ngợi và khẳng định sức mạnh kì diệu, sự hóa thân của những con người vô danh, thầm lặng một nắng hai sương trong thời bình, kiên cường trồng tre đánh giặc trong thời chiến, nhân hậu, nghĩa tình trong ứng xử của cuộc sống hằng ngày để làm nên "núi sông ta".

    Nội dung HOT bị ẩn:
    Bạn cần đăng nhập & nhấn Thích để xem
    Đất Nước đi vào những trang thơ thật mộng mơ và đẹp đẽ. Đất Nước là con người, con người là Đất Nước. Đất Nước lớn lên cùng con người và con người dựng xây cho Đất Nước. Mối quan hệ bền chặt, keo sơn ấy như một chân lí hiển nhiên của đời sống mà không chỉ Nguyễn Khoa Điềm mà còn rất rất nhiều con người trân trọng và nâng niu. Bởi vậy nên đoạn trích Đất Nước, trích trong trường ca Mặt đường khát vọng của ông mới có thể trở thành tuyệt tác, một trong những vì sao sáng nhất trên bầu trời văn học nước nhà.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...