Việt Nam ta từ ngàn xưa vẫn đi vào thơ ca nhạc họa với biết bao nét đẹp văn hóa, truyền thồng. Một trong số đó là nghệ thuật viết chữ hay còn gọi là thư pháp. Thế nhưng, xã hội loạn lạc, thời thế đổi thay, tây tàu nhố nhăng khiến cho những giá trị đáng quý ấy ngày càng mai một. Thếnhưng đâu đó trên mảnh đất hình chữ S này vẫn còn hình bóng của nét đẹp thư pháp, ngay cả trong thời kì đau khổ nhất của lịch sử Việt Nam. Hãy cùng mình tìm hiểu sự đẹp đẽ của thư pháp trong tác phẩm Chữ người tử tù nhé! Đề bài: Phân tích Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Bài làm Này là gió thổi khúc tình ca khẽ lay động những bông cúc dại đang nằm ủ rũ bên đường vươn mình đón cái vuốt ve ngọt ngào của gió. Này là bầu trời nhẹ nhàng lững lờ để lộ những đám mây ánh hồng trong bữa nắng hoàng hôn. Này là những giọt nước mắt thoát ra từ trang sách vào cuộc đời để gội rửa bao khô cằn, sỏi đá, để làm mát lòng nhân thế, và để tan đi, để hòa vào từng giọt máu ấm nồng mà làm lên cuộc sống. Có phải vậy không mà hàng ngàn năm nay văn chương cuộn mình trong dòng máu nóng hổi của tình yêu, tình đời nồng thắm. Từ Belinski, đến Victo Hugo và giờ đây là Nguyễn Tuân- theo một phương thức độc đáo đã góp thêm một tiếng nói để hình thành nên những mảnh ghép xưa nay chưa từng có: Khung cảnh cho chữ lạ kỳ trong truyện ngắn "Chữ người tử tù". Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. "Vang bóng một thời" là một tác phẩm tiêu biểu nhất của ông và trong đó truyện ngắn "Chữ Người Tử Tù" được coi là thành công hơn cả. Nguyễn Tuân không chỉ vẽ lên bức chân dung tuyệt đẹp để các nhân vật mà còn tạo ra một cảnh tượng độc đáo đến phi thường: Cảnh cho chữ. Văn chương từ bao đời nay đã đi vào thượng tầng kiến trúc trong cuộc sống con người và trở thành một mạch máu ngầm vừa dữ dội, lại vừa êm đềm và vô cùng quan trọng. Bởi "văn học chẳng những giúp chúng ta nhận ra cái thiện, cái ác, cái đúng, cái sai ở đời mà còn khơi dậy trong ta những tình cảm, thẩm mỹ phong phú và đa dạng". Niềm khơi gợi ấy đã được Nguyễn Tuân chắp bút và nhào nặn lên một hình tượng Ông Huấn với tài hoa dạt dào như sóng biển, thiên lương trong sáng, mát lành và một khí phách hiên ngang, sông không cạn, núi không mòn. Có thể nói, cảnh tượng cho chữ là cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong nền văn học Việt Nam và để đạt được điều đó, Nguyễn Tuân đã dùng hết sức lực và tài hoa của mình vào cảnh tượng cho chữ này. Việc cho chữ, viết chữ là một thú chơi tao nhã có phần đài các, nay không diễn ra ở thư phòng, thư sảnh trang nhã, thoải mái như thường lệ mà diễn ra ở nơi buồng giam tối tăm, ẩm ướt và bẩn thỉu. Bình thường, người cho chữ và người được cho chữ là những người tri âm, tri kỷ đến độ: "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". Ở họ luôn thoát ra sự an nhiên điềm tĩnh của bậc túc nho nhưng trong truyện của Nguyễn Tuân lại chẳng giống. Ở đây ngườii cho chữ là người tử tù, còn người được cho chữ lại là viên quản ngục. Cảnh cho chữ diễn ra trong đêm khuya thanh vắng, có tiếng mồ trên võng canh ngay tại nhà tù. Bên ngoài nhà tù đã tối thì khi bước chân vào nơi buồng giam chật hẹp, kín mít hẳn phải "sẫm đen hơn nữa". Theo chân viên quản ngục và thầy thơ lại vào phòng giam còn có một ngọn đuốc sáng rực "lan tỏa khắp bốn bề" và không khí úc đó mới "tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực" rồi "lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo." Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân lại nhắc đến bó đuốc đó đến hai lần. Rõ ràng đó là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, cũng như Bác Hồ viết: "Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng vậy.". Chính bởi vì thế mà sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt. Bóng tối quánh đặc như muốn nuốt tươi ánh sáng, nhưng không, ánh sáng ở đây vẫn ngời chói, ngời tỏa, sáng rực chứ không nhưng ánh sáng leo lét, buồn rầu của mẹ con chị Dậu và ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu nhanh chóng lụi tàn trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Nhà văn Thạch Lam. Xét sâu xa hơn, ánh sáng đó không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa màu sắc vật lý mà ánh sáng đó còn có ý nghĩa nhân sinh đậm nét: Ánh sáng của lương tri, của nhân tâm, của thiên lương trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó là điều tất yếu sẽ xảy ra vì mọi cái thiện, cái cao cả dù bị vùi dập đến đâu vẫn sẽ giành được chiến thắng cuối cùng. Với ánh sáng ấy, cái đẹp, cái thiện đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ những con người có đức độ, mến mộ cái tài nhưng yếu ớt trở về với cái thiện. Bản hùng ca chữ tâm đó sẽ ngời tỏ và sáng lạn hơn nữa khi nó đi liền với tài hoa, cái đẹp và làm mờ nhạt đi sự nhơ bẩn, phàm tục. Ở đây cái xấu xa, bẩn thỉu đã hiện hữu từ lâu: "Một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián.". Một cái buồng giam thật kinh sợ không khác gì một chuồng bò, chuồng trâu ở nhà nông. Những thứ ấy được Nguyễn Tuân liệt kê ra đã đẩy sự nhem nhuốc, dơ bẩn lên đỉnh điểm, khiến ta tưởng chừng như nó sẽ tồn tại mãi. Song, sự xuất hiện của phiếm lụa trắng còn nguyên lần hồ cùng chậu mực tàu thơm đã xua tan những thứ ô uế ấy. Hai thứ ấy là biểu tượng cho những cái đẹp, cái thơm tho, quý giá đã gắn liền với biết bao vần thơ, câu đối, làm bạn với bao bậc tao nhân, mặc khách đương thời. Cái đẹp đã dần lên ngôi thay cho cái xấu xa, thấp hèn và trong cái màu trắng của phiếu lụa tinh khôi ấy còn là tâm hồn cao khiết của cả một đời người, mùi thơm của chậu mực cũng là hương thơm của tình người, tình đời ta sẽ mãi không bao giờ quên. Huấn Cao, viên quản ngục và thầy thơ lại là ba điểm sáng tạo nên một tượng đài, trong đó Huấn Cao là trung tâm, tạo thành thế "tam vị nhất thể", tuy ba mà một, chụm vào với nhau, chăm chú nhìn nơi tấm lụa chờ đợi thời khắc cái đẹp được sinh ra. Về Huấn Cao, chỉ ngày mai thôi ông sẽ bị áp giải về kinh, rồi phải bước lên đoạn đầu dài nhưng ông vẫn ung dung, vẫn nghệ sĩ lắm. Ông nhận xét về mùi hương của thoi mực, đúng là cái phong cách của một bậc "Phú Quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, Uy Vũ bất năng khuất" : "Thoi mực thấy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm của lọ mực bốc lên không!" Ôi! Cái mùi thơm của thoi mực ấy nó ngọt ngào lan tỏa như "Dạ Lan thơm nức lạ lùng, tưởng như đi mãi không cùng mùi hương.". Đó cũng là tiếng thơm và danh tiếng của Huấn Cao vẫn còn nức danh muôn đời. Nhà tù và căn buồng giam tối tăm, âm u ấy bỗng trở thành nơi chứa được mùi hương thơm tho của thiên lương được góp nhặt của cả một đời người. Trước cái đẹp đang lên ngôi thì Huấn Cao: "Cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ". Đó là thái độ uy nghi, đường hoàng, một thái độ của bậc hùng thiêng khi đã sa cơ lỡ bước mà vẫn giữ nguyên ngạo nghễ uy phong. Đúng là "Thân thể ở trong lao - Tinh thần ở ngoài lao" (Hồ Chí Minh). Cái chết đang cận kề nhưng người tù Huấn Cao vẫn nói về sự sống, hướng về cái đẹp, cái thiện ở đời. Nhìn vào cảnh cho chữ, ta thấy được một sự đổi ngôi thay chủ, cũng chính vì thế mà người tù ở đây đã hóa thành chủ, còn bọn quan quản lý nhà ngục hóa ra lại thành tôi tớ trung thành của người tù. Huấn Cao đã ngự trị nơi bóng tối ấy và làm cho viên quản ngục cùng thầy thơ lại phải kính cẩn nghiêng mình. Viên quản ngục "vội vàng", "khúm núm" và thầy thơ lại "run run bưng chậu mực" - Những chi tiết, hình ảnh đó tưởng chừng như không có ở nhà tù mà chỉ diễn ra theo hiện thực: Uy quyền, bóng đêm đã tan biến và nó bị khuất phục bởi hai chữ Thiên Lương. Nguyễn Tuân không nói cho ta biết chữ ông Huấn viết là gì nhưng tôi tin chắc rằng, đó hẳn là một chữ đẹp về cả nội dung lẫn hình thức. Nó phải chứa đựng cả cái "lý tưởng của người thanh niên Nguyễn Tuân khi bước vào đời" (Trường Chinh) và hẳn phải như người xưa từng ca ngợi: "Hàng hàng như gấm thêu, lời lời như châu ngọc. Đẹp như phun châu nhả ngọc, báu khoe tinh thần." Nó chứa đựng vẻ đẹp "chân – thiện – mỹ" mà người văn nhân chơi ngông ấy hằng khát khao theo đuổi. Lời khuyên của Huấn Cao đối với viên quản ngục lại một lần nữa khẳng định giá trị của cái đẹp: "Ở đây lẫn lộn, ta khuyên thầy quản nên thay chôn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời người." Cái hoài bão tung hoành ngang dọc: "Năm năm hùng bá một phương Hải Tần", "Trong hang tối mắt thần khi đã quắc, là khiến cho mọi vật đều im hơi" của Huấn Cao với tấm lụa trắng trong trẻo, nét chữ tươi tắn thì chốn ngục tù này làm sao xứng đáng để treo một câu đối quý báu như vậy. Và hơn nữa, Huấn Cao cũng khẳng định rằng: Cái đẹp cái thiên lương Không bao giờ và không khi nào sống chung với cái xấu, cái ác: "Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững dược, rồi cũng đến nhem nhuốc mất đời lương thiện đi." Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện chí của Huấn Cao đã làm viên quản ngục cảm động. Khoảng cách bị xóa nhòa từ lâu và giữa bọn họ sáng ngời niềm ân nghĩa: "Vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà nước mắt rỉ vào kẽ miệng, làm cho nghẹn ngào:" Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. "' Chỉ có những con người có văn hóa và tôn sùng cái đẹp mới có được câu nói khiêm nhường như thế. Cái vái của quản ngục cũng là cái vái lạy của Nguyễn Tuân trước cái tâm, cái đẹp mà ông tôn sùng. Thật giống với cái vái của Cao Chu Thần trước vẻ đẹp thuần khiết của hoa mai: " Nhất sinh đê thủ bái mai hoa " Cảnh Huấn Cao cho chữ đã được Nguyễn Tuân khắc họa đậm nét. Ở đây không phải là cảnh cho chữ bình thường nữa mà nó đã trở thành cảnh thọ giáo thiêng liêng của người cho chữ và nhận chữ. Và lời khuyên đầy tình người ấy đã có sức cảm hóa mãnh liệt, đủ sức đưa tâm hồn con người bấy lâu nay đã cam chịu kiếp nô lệ một lần nữa trở về với cái thiên lương. Dưới bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào được Nguyễn Tuân vẽ lên cũng gợi cảm, gợi hình. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân sử dụng mang đậm sắc thái rất Nguyễn Tuân - biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệuvà dư ba đã xây dựng và nhào nặn lên một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng, hào hùng toát lên trong đoạn trích. Một nhà văn nước ngoài đã từng nói: Hãy đập vào trái tim mình, thiên tài là ở đó." Thì ra, cội nguồn của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là ở cái tâm và chính các tố chất tài, tình và đức của "nhà văn đặc biệt Việt Nam" Nguyễn Tuân đã cùng nhau tạo "Chữ người tử tù" – một trong những truyện ngắn "cổ điển" trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Cảm ơn các bạn đã đón đọc bài viết và đừng ngại ngần để lại một comment góp ý để bài viết được hoàn hảo hơn nhé. Các bạn có thể tham khảo thêm chủ đề sau: Chân Dung Những Người Nghệ Sĩ Tài Hoa Trong Chữ Người Tử Tù Của Nguyễn Tuân?