Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và có sáng tác đăng báo từ trước cách mạng tháng 8 năm 1945. Ông gắn bó vào am hiểu sâu sắc cuộc sống của nông thôn. Các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về sinh hoạt của làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Tác phẩm tiêu biểu góp phần vào thành công trong sự nghiệp văn học của ông phải kể đến truyện ngắn "Làng". Ông Hai là nhân vật chính của truyện, là một người nông dân yêu làng, tình yêu làng của ông còn hòa quyện với tình yêu đất nước tinh thần kháng chiến. Truyện ngắn "Làng" được sáng năm 1948 và được đăng trên tạp chí văn nghệ, đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người nông dân sau cách mạng tháng tám. Ông Hai là nhân vật chính của truyện, là một người nông dân yêu làng yêu đến độ say mê. Khi thực dân Pháp quay lại xâm lược gia đình ông Hai phải đi tản cư. Lúc đầu ông không đồng ý vì nghĩ đi tản cư là phải xa làng bỏ làng xong ông hiểu đi tản cư cũng là đi kháng chiến ông đã đồng ý. Ở nơi tản cư ông luôn tự hào khoe về làng, ông khoe là mình đẹp làng mình giàu. Khi nghe tin làng mình Việt gian theo Tây ông bàng hoàng sững sờ cảm giác như chính mình là kẻ có tội. Tuy nhiên, khi nghe ông chủ tịch làng cải chính tin đồn ông vui mừng khôn xiết chạy đi khoe khắp nơi, ông khoe nhà ông bị giặc đốt điều đó đã chứng tỏ được tấm lòng thủy chung son sắt của làng quê ông. Trước hết, ông Hai là một người nông dân có tình yêu tha thiết, gắn bó sâu nặng với làng quê khiến người đọc vô cùng yêu quý và ngưỡng mộ. Cũng như tất cả những người nông dân khác, ông Hai yêu làng, yêu đến độ say mê. Bởi vậy, tất cả những gì ở làng quê ông đều là niềm vui là niềm tự hào, kiêu hãnh không đâu bằng. Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược gia đình ông Hai phải đi tản cư, lúc đầu ông không muốn đi vì nghĩ đi tản cư là phải xa làng, bỏ làng, xong ông hiểu đi tản cư cũng là đi kháng chiến ông đã đồng ý. Ở nơi tản cư, ông luôn tự hào khoe về làng mình. Trước cách mạng ông thường khoe cái "sinh phần" của viên tổng đốc và có vẻ tự hào về nó. Sau cách mạng, tình yêu làng của ông Hai đã có sự chuyển biến, ông nhận ra giá trị chân chính của làng ông không còn khoe cái sinh phần ấy nữa. Bây giờ khoe làng, ông khoe làng ông: "Nhà ngói san sát, sầm uất như trên tỉnh, đường làng lát gạch đá xanh, trời mưa trời gió đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không lấm gót. Tháng năm ngày mùa tha hồ mà phơi thóc, phơi rơm mà không có lấy một hạt thóc đất." Ông còn khoe làng ông có phòng thông tin rộng rãi, thoáng mát, có chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Tình yêu làng của ông còn được thể hiện rất rõ khi ông không chỉ khoe làng ông đẹp, làng ông giàu mà ông còn tự hào về phong trào cách mạng; tinh thần kháng chiến sôi nổi của làng, những buổi tập quân sự, đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.. Dường như hình ảnh về ngôi làng, Lúc làm việc với anh em vẫn là một dấu ấn in đậm trong lòng ông Hai. Ông còn say sưa kể về làng cho thỏa nỗi nhớ lảng da diết: "Chao ôi! Ông lão nhớ cái làng, nhớ cái làng quá." Mỗi khi nói về làng, ông vui náo nức lạ thường: "Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động." Ông thường ra phòng thông tin để nắm tin tức kháng chiến và dường như ông nghe chẳng sót một tin nào: "Một em nhỏ trong ban tuyên truyền.. một anh trung đội trưởng sau khi.. đội du kích Trưng Trắc.." Với ngôn ngữ kể chuyện mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói của người nông dân đã cho ta thấy tình yêu làng của người nông dân trước thành quả của cách mạng. Dường như với người nông dân, ngôi làng gần nơi gắn bó mật thiết, không thể tách rời và ở người nông dân thời kỳ này, chúng ta còn nhận thấy ở họ chính là tình yêu nước. Đây là nét mới trong việc khai thác về đề tài người nông dân sau cách mạng tháng tám so với hình ảnh người nông dân trước cách mạng tháng tám mà ta đã học trong văn bản "Lão Hạc" và "Tức nước vở bờ." Không những thế, tình yêu làng của ông Hai còn hòa quyện, thống nhất với tình yêu đất nước và tinh thần kháng chiến. Ông Hai đang trong tâm trạng phấn khởi, chờ tin tức của làng thi lại nghe tin làng mình theo giặc. Đặt nhân vật ông Hai trong tình huống cụ thể, tác giả đã thể hiện tình yêu làng quê sâu sắc qua diễn biến tâm trạng của nhân vật. Khi nghe tin làng chợ Dầu Việt gian theo Tây, ông bàng hoàng sững sờ "Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê ran ran, ông lặng đi tưởng như không thở được". Ông xấu hổ, nhục nhã như chính mình là kẻ phản bội. Cái tin dữ ấy, bất ngờ đột ngột như sét đánh ngang tai làm ông tê tái trong đau đớn. Ông hụt hẫng, choáng váng, không tin vào tai mình, một lúc sau ông mới hỏi lại nhưng lời khẳng định của người đàn bà tản cư đã làm ông không còn nói được gì nữa, Ông vờ đứng ra một chỗ rồi đi thẳng. Từ đỉnh cao của niềm vui, niềm tin về làng, ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi nhục. Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả tâm trạng đau đớn, tê tái đến lặng đi, càng yêu làng bao nhiêu ông càng cảm thấy nhục nhã bấy nhiêu khi nghe tiếng chửi ruột của người đàn bà tản cư: "Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp, ăn trộm bắt được người ta còn thương, chữ cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát". Trên đường về, ông thấy nhục nhã vô cùng, ông cúi gằm mặt mà đi, ông thấy danh dự bị tổn thương bị xúc phạm ghê gớm. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường nhìn lũ con tủi thân mà nước mắt ông lão cứ giàn ra. Ông cảm thấy chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc và các con ông sẽ mang nỗi nhục ấy "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?" Ông không chỉ thương mình mà còn thương cả các con. Tin làng chợ Dầu theo giặc đã ám ảnh ông, trở thành nỗi sợ hãi thường xuyên, lúc trấn tĩnh lại ông suy nghĩ và tự hỏi "Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được" xong ông lại nghĩ "Không có lửa làm sao có khói". Đó là sự day dứt, trăn trở trong lòng ông Hai, bởi ngôi làng đối với ông là điểm tựa trong cuộc sống về cả mặt vật chất lẫn tinh thần, là danh dự, khi nghe tin làng theo giặc tất cả điểm tựa ấy không còn nữa. Ông mất hết danh dự, buồn khổ trong lòng nên ông gắt gỏng, bực bội vô cớ với vợ con, trằn trọc không ngủ được, không khí trong nhà bỗng trở nên lạnh lẽo, căng thẳng, im ắng đến lạ thường, nỗi buồn như thấm vào từng tấc đất, gian nhà. Mấy ngày hôm sau, ông chỉ quanh quẩn ở nhà nghe ngóng binh tình bên ngoài, một đám đông tụ lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười đùa ông cũng chột dạ, ông lại lủi ra một góc nhà rồi nín thít.. Nỗi ám ảnh day dứt, nặng nề biến thành nỗi sợ hãi thường xuyên như chính ông là người có lỗi. Kim Lân đã diễn tả một cách chính xác, chân thực tâm trạng lo sợ trở thành mặc cảm nặng nề trong lòng ông Hai. Ở tình huống này, ông Hai bị đặt vào một sự lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu đất nước. Đó là những giằng xé đau đớn trong tâm can ông Hai. Về làng hay ở lại? Ông dứt khoát lựa chọn "làng thì yêu thật đấy nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Ở đây ông Hai phải lựa chọn hết sức đau đớn, tình yêu đất nước lớn hơn bao trùm lên tình yêu làng quê, vì thế ông rơi vào tâm trạng đau đớn, đã nói mà không thể dứt bỏ. Hơn thế nữa, ung rơi vào tình huống bế tắc khi mụ chủ nhà có ý đuổi khéo "Đi đâu bây giờ, không ai muốn chứa chấp dân của làng Việt gian, cũng không thể quay về làng", "Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ". Trong lúc buồn khổ nhất, tác giả đã để cho nhân vật trò chuyện với đứa con út để giãi bày lòng mình. Ông hỏi con để con nói hộ lòng mình, "Yêu làng, ủng hộ cụ Hồ, đi theo kháng chiến" nó cũng là để chứng minh cho mình luôn thủy chung, sắc son với kháng chiến, với cụ Hồ. Đây là cuộc trò chuyện đầy xúc động, nỗi nhớ quê, yêu quê, nỗi đau đớn khi nghe làng theo giặc cứ chồng chéo, đan xen trong lòng ông nhưng ông vẫn cháy lên niềm tin tưởng vào cụ Hồ, tin tưởng vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Như vậy, chúng ta còn thấy được tình cảm sâu nặng thiêng liêng ấy làm nên vẻ đẹp của nhân vật ông Hai. Đặc biệt, người đọc còn được chứng kiến niềm vui sướng, hả hê của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu vẫn là làng kháng chiến. Khi ông Hai đang trong tâm trạng đau buồn, tủi nhục nhất thì ông chủ tịch làng chợ Dầu lên cải chính tin đồn, khẳng định làng chợ Dầu vẫn là làng kháng chiến, làng bị giặc tàn phá chứ không theo Tây. Khi nghe tin làng không theo giặc, ông Hai vui sướng, hả hê, niềm vui sướng hiện lên rất rõ trên khuôn mặt ông Hai "cái mặt buồn thụi mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rở hẳn lên." Đó là một khuôn mặt thể hiện niềm vui, ngập tràn trong ánh mắt khiến ông Hai như được sống lại, như được tận hưởng niềm hạnh phúc, ông mua quà cho các con và chạy đi khoe khắp nơi "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn". Chi tiết này rất chân thực, nó gợi ấn tượng trong lòng người đọc, đồng thời nó còn chứng minh cho làng chợ Dầu không theo Tây. Đối với người nông dân, suốt đời vất vả làm lụng từ đời này sang đời khác, ngôi nhà là tất cả tài sản, họ đã chắt chiu dành dụm, vậy mà ông Hai lại rất vui khi khoe nhà mình bị giặc đốt. Điều đó không hề phi lý bởi với ông, đây là minh chứng cho tình yêu nước, làng chợ Dầu xứng đáng với tình yêu, lòng tự hào của ông và điều đó với ông mới là điều quan trọng nhất. Nhà văn Kim Lân rất tinh tế trong việc nắm bắt và miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật. Tình yêu làm của ông Hai là tình cảm chung của những người nông dân, của nhân dân ta thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Chuyện đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, nhà văn đặt nhân vật vào tình huống éo le như một thử thách để khám phá tâm trạng nhân vật. Miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật qua suy nghĩ, hành động, lời nói. Ngôn ngữ đối thoại, độc thoại nội tâm, cách kể chuyện mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông dân, thể hiện thành công cá tính nhân vật.. Hình tượng ông Hai tiêu biểu cho vẻ đẹp người nông dân trong thời buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là những con người mộc mạc, chất phác, gắn bó sâu nặng với làng quê, tình yêu làng quê thống nhất với tình yêu đất nước, tinh thần kháng chiến. Nội dung HOT bị ẩn: Bạn cần đăng nhập & nhấn Thích để xem