Phân tích cái đói và vẻ đẹp của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc qua đoạn văn trích Vợ Nhặt

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Thùy Minh, 1 Tháng tám 2021.

  1. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Đề bài:

    "Ít lâu nay hắn xe thóc Liên đoàn lên tỉnh . Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đây. Hắn đoán họ ngồi đấy nhặt hạt rơi vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:

    Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!

    Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!

    Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:

    – Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!

    Thị cong cớn:

    – Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?

    Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:

    – Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!

    Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.

    – Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ! – Thị liếc mắt, cười tít.

    Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế.

    Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:

    – Điêu! Người thế mà điêu!

    Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.

    – Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.

    À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:

    – Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.

    – Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.

    Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.

    – Đây, muốn ăn gì thì ăn.

    Hắn vỗ vỗ vào túi:

    – Rích bố cu, hở!

    Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:

    – Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.

    Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:

    – Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.

    Hắn cười:

    – Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.

    Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau không biết nghĩ thế nào hắn chặc lưỡi một cái:

    – Chặc, kệ!

    Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về.."

    (Trích: Vợ nhặtKim Lân, SGK Ngữ Văn 12, NXB Giáo dục)

    Anh/ chị hãy phân tích cảnh ngộ của hai nhân vật chính, từ đó bình luận về vẻ đẹp của khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và sự ấm áp của tình người trong đoạn trích trên.

    [​IMG]

    Ai đó đã nói rằng, tình huống truyện là linh hồn của tác phẩm. Đối với nghệ thuật truyện, xây dựng được một tình huống truyện độc đáo là một trong những yếu tố then chốt tạo nên sức sống của tác phẩm ấy. Đọc "Vợ nhặt" của Kim Lân, người đọc không khỏi ngạc nhiên, tò mò trước một tình huống lạ: Tình huống "nhặt vợ" của anh cu Tràng. Qua tình huống nhặt vợ được miêu tả trong đoạn văn: "Ít lâu nay.. đẩy xe bò về", Kim Lân vừa tái hiện được cảnh ngộ đói khổ, đáng thương của Tràng, vợ Tràng, vừa trân trọng, ngợi ca khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và vẻ đẹp ấm áp của tình người ngay trong tình cảnh thê lương, thảm khốc nhất.

    "Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại" (Banlzac). Kim Lân - người thư kí trung thành của thời đại mình chỉ bằng vài nét phác họa, đã gợi ra sức mạnh hủy diệt của nạn đói năm 1945: "Cái đói đã tràn đến" như một cơn thác lũ có thể cuốn phăng mọi cuộc đời, mọi số phận đến bờ vực thẳm của cái chết. Cái đói hiện hình trong những bóng dáng vật vờ của từng đoàn người từ Nam Định, Thái Bình "lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma". Cái đói đi đến giới hạn cuối cùng là cái chết: Ngày nào cũng thế, những nười đi chợ hay đi làm đồng đều gặp "ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường", "không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", "tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết", lẫn trong "mùi đốt đống rấm khét lẹt" ở những nhà có người chết.

    Không gian năm đói đã tạo thành khung cảnh nền để Kim Lân kể lại câu chuyện nhặt vợ cười ra nước mắt của Tràng. Câu chuyện bi hài được miêu tả trong đoạn văn trên vừa góp phần hoàn chỉnh bức tranh chân thực về tình cảnh thảm khốc của người nông dân trong nạn đói, vừa góp phần thể hiện cái nhìn đầy nhân văn của Kim Lân về vẻ đẹp của tình người, của những khát vọng giản đơn mà cao cả.

    Trước hết, đoạn văn trên miêu tả lại một cách chân thực tình cảnh của Tràng, vợ Tràng: Họ đều là nạn nhân của cái đói, của cuộc sống tận cùng khổ cực.

    Người vợ nhặt của Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: Nghèo đói, bị rẻ rúng. Chị là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Tên gọi vốn là dấu hiệu để phân biệt người này với người kia, xóa đi tên riêng của nhân vật, Kim Lân muốn làm bật lên ý nghĩa phổ biến của thân phận người phụ nữ trong cảnh đói khổ. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao người đàn bà như thế.

    Xuất hiện trong đoạn trích, người vợ nhặt cùng với mấy chị con gái ngồi "vêu" ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Cái đói thảm khốc đã khiến cho người vợ nhặt mang bộ dạng thảm hại của một "con ma đói" với đôi mắt trũng hoáy, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo rách như tổ đỉa, cái ngực gầy lép nhô lên.. · Những nét ngoại hình ấy phản ánh một bi kịch: Con người bị cái đói đẩy đến bước đường cùng tơi tả đến mức chỉ cách mấy hôm mà Tràng không nhận ra thị, trông thị gầy sọp đi. Hình ảnh thảm thương của người vợ nhặt cũng là một phần bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945.

    Không chỉ bị xấu đi về ngoại hình, cái đói còn làm mất đi ở thị bản tính dịu dàng, kín đáo vốn có ở người phụ nữ.

    Lần thứ nhất gặp Tràng, thị là người chủ động, táo bạo tới mức trở nên vô duyên. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, cười tít mắt với Tràng. "Cơm trắng mấy giò" trong câu nói của Tràng đã khiến thị xốn xao, thèm muốn chăng?

    Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: "Điêu! Người thế mà điêu!" - thị trách Tràng lỡ lừa thị cả miếng ăn. Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt chẹt, thị tiếp tục cong cớn, gạ gẫm miếng ăn một cách lộ liễu: "có ăn gì thì ăn chả ăn giầu" . Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị "cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì". Ăn xong, thị "cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở" . Thật quá vô duyên! Như vậy, cái đói đã khiến cho chị không còn giữ được sự dịu dàng mà trở nên cong cớn, sưng sỉa, chủ động làm quen với Tràng, chủ động gặp Tràng ở cổng chợ. Người phụ nữ khốn khổ ấy có thể đánh mất cả lòng tự trọng, gợi ý chuyện ăn uống một cách lộ liễu.

    Chính sự dồn đẩy của cái đói khiến thị liều lĩnh ngay cả trong việc hệ trọng nhất của đời mình, sẵn sàng theo Tràng – người đàn ông vừa gặp hai lần - chấp nhận thân phận tai tiếng làm người "vợ nhặt". Nhưng thị còn con đường nào khác hơn giữa những ngày đói quay, đói quắt này. Tất cả những hành động, quyết định của thị rút cuộc lại, chính là để chạy trốn cái đói. Thế mới biết tình cảnh của thị là vô cùng khốn khổ, cấp bách.

    Không phải Kim Lân lạnh lùng hay rẻ rúng gì người đàn bà ấy, ngược lại ông vẫn nói về người vợ nhặt với tất cả sự cảm thông, thương xót. Những nét vẽ chân thực trên đây chính là cách giúp chúng ta hiểu hơn số phận cùng cực của người lao động đang bị cái đói dồn đến bước đường cùng mà nhân vật vợ nhặt là hình ảnh tiêu biểu.

    Còn Tràng, người đàn ông ga lăng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc, khiến thị ngỡ là "rích bố cu" để rồi gấp gáp trao cuộc đời mình cho anh – cũng chẳng khấm khá hơn là bao. Bởi lẽ, dù rất tốt bụng, hào phóng nhưng lúc đầu, Tràng cũng tỏ ra phân vân, do dự, lo sợ khi quyết định đưa người vợ nhặt về "Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng" . Anh cũng nghèo, cũng đói, cũng phải đang từng ngày gò lưng kéo thóc, mà còn chẳng chắc chắn "có nuôi nổi mình không" thì sao lại không phân vân, lo lắng cho được. Một anh chàng nghèo khổ, xấu xí, thô kệch chẳng chắc lấy nổi vợ, bây giờ bỗng dưng có người theo không, chẳng phải lễ nghi, cưới hỏi gì, lẽ ra anh phải mừng vui chứ. Nhưng cái đói đã khiến anh lúc này chưa thể mừng vui nổi.

    Kể lại tình huống nhặt vợ cười ra nước mắt của Tràng trong đoạn văn trên nói riêng, trong tác phẩm nói chung, Kim Lân đã phản ánh một cách ám ảnh bi kịch khủng khiếp không chỉ của các nhân vật mà còn là bi kịch của những người lao động nghèo trong nạn đói năm Ất Dậu.

    Đoạn trích không dừng lại ở việc phản ánh bức tranh hiện thực đói khổ, mà quan trọng hơn, với việc dựng tình huống nhặt vợ, nhà văn đã trân trọng ngợi ca khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và vẻ đẹp của tình người ngay cả khi họ bị đẩy vào vòng tử địa.

    Kim Lân từng tâm sự về truyện ngắn "Vợ nhặt" của mình rằng "Những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống". Ta nhận thấy trong câu nói của Kim Lân tinh thần lạc quan của con người, cốt lõi khát vọng cháy bỏng về cuộc sống tốt đẹp của con người trong bất chứ hoàn cảnh nào ngay cả khi cận kề với cái chết, cái đói. Và nhà văn đã gửi gắm khát vọng sống mãnh liệt ấy vào nhân vật người vợ nhặt.

    Kim Lân không hề khinh bạc, chế nhạo những hành động của người đàn bà trong hai lần đầu gặp Tràng ở tỉnh. Trái lại, nhà văn đã nhận thấy động lực thôi thúc những hành động của thị chính là khát vọng sống cháy bỏng, mãnh liệt. Bởi lẽ, đặt trong hoàn cảnh bình thường, thì sự cong cớn, sưng sỉa đến mất cả lòng tự trọng của người vợ nhặt để được ăn, để theo không Tràng.. là không thể chấp nhận, thì trong năm đói Ất Dậu – một hoàn cảnh bất thường thì những hành động không bình thường của người phụ nữ đói khát lại cần được cảm thông chia sẻ. Khao khát sống mãnh liệt đã thôi thúc thị hành động như thế, để bám lấy sự sống, bám lấy Tràng như cố víu vào chiếc phao cứu sinh duy nhất. Có thể nói, khát vọng cấp thiết nhất của thị là khát vọng sống, nên dù chỉ là người vợ nhặt thì đối với thị cũng là một may mắn quá lớn. Thế mới biết, lòng ham sống của thị mãnh liệt đến chừng nào.


    Cảm thông với điều đó, nên Kim Lân đã đứng về phía người phụ nữ để bênh vực khát vọng sống chính đáng ấy, để rồi sau đó, ông đã trả lại bản tính tốt đẹp của người phụ nữ cho người vợ nhặt kể từ khi thị theo Tràng về xóm ngụ cư. Đó chính là chiều sâu tấm lòng nhân đạo của nhà văn dành cho nhân vật của mình.

    Nếu người vợ là hiện thân của khát vọng sống mãnh liệt, thì Tràng lại là hiện thân của khát vọng hạnh phúcvẻ đẹp của tình người ấm áp, vị tha.

    Với một người mà hạnh phúc gia đình chỉ là điều không tưởng như Tràng thì dĩ nhiên khao khát cháy bỏng nhất phải là khát vọng hạnh phúc. Với khát vọng ấy, Tràng đã đánh cược cùng cái đói để mạo hiểm nhặt vợ. Vào lúc người chết đói đầy đường, cảnh nhà lại túng quẫn thì việc rước thêm một người về nhà quả là một hành động dại dột, không thể nào hiểu nổi.

    Nhưng trong hoàn cảnh bình thường thì anh lại không có khả năng lấy vợ. Chuyện có vợ với anh cứ xa vời như chân trời phía trước. Chỉ vào lúc bị cái đói xô đẩy đến bờ vực thẳm của cái chết, mới có người đàn bà mạo hiểm theo không anh. Vậy thì Tràng không thể nào bỏ lỡ hạnh phúc mà cái đói đã đem đến cho mình, dù hành động này có thể đẩy gia đình anh đến tột cùng của túng quẫn. Sau giây phút hoảng hốt ban đầu khi thấy người đàn bà biến đùa làm thật, Tràng đã chậc lưỡi đánh cược cùng cái đói để nhặt vợ. Phải có khát vọng hạnh phúc, khát vọng gia đình lớn đến thế nào, Tràng mới có được cái quyết định dũng cảm ấy.

    Và chính quyết định dũng cảm ấy đã nói lên rất nhiều vẻ đẹp của tình yêu thương ở nhân vật này. Quyết định có vẻ giản đơn nhưng đằng sau cái "Chậc, kệ" ấy là tình thương, lòng nhân hậu của anh cu Tràng ngờ nghệch mà đáng quý. Anh sẵn sàng chia sẻ miếng ăn của mình với thị dù mình cũng không dư dả gì. Anh sẵn sàng cưu mang người đàn bà tội nghiệp dù điều đó có thể khiến anh đến gần hơn với thảm họa chết đói. Vào lúc miếng ăn là chuyện sinh tử của con người mà anh có thể hành động như thế, ta nhận thấy động lực lớn lao trong quyết định của anh không đơn giản là khát vọng hạnh phúc, mà sâu xa hơn chính là tình người. Như vậy tình huống Tràng nhặt vợ trong đoạn văn trên là cơ hội vô song để Kim Lân ca ngợi tình người ấm áp, bao dung. Chính vẻ đẹp ấy đã vút lên như một luồng ánh sáng rực rỡ giữa không gian tăm tối, ảm đạm của những ngày đói thê lương, thảm khốc.

    Bạn đăng kí tài khoản miễn phí tại LINK và like bài viết để đọc nội dung ẩn nhé!


    Nội dung HOT bị ẩn:
    Bạn cần đăng nhập & nhấn Thích để xem
     
    Chỉnh sửa cuối: 2 Tháng sáu 2023
Trả lời qua Facebook
Đang tải...