Phân tích bài Thuật Hoài - Phạm Ngũ Lão

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi mèo nhỏ lạc quan, 21 Tháng năm 2022.

  1. mèo nhỏ lạc quan

    Bài viết:
    20
    Đề: Phân tích bài thơ Thuật Hoài- Phạm Ngũ Lão

    Bài làm

    Từ bao đời nay thơ ca luôn tồn tại song song và đi đôi với hiện thực. Mặt trời thi ca Nga- Người thi sĩ Puskin đã từng viết: "Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm, cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút". Với trong mỗi thế giới khác nhau, mỗi người đọc lại có một cảm nhận riêng. Và trong đó, nhà thơ Phạm Ngũ Lão đã dùng những viên ngọc trai tinh chất được gạn lọc từ biển sâu của hiện thực để mang lại những vần thơ neo đậu trong tâm hồn chúng ta về tác phẩm "Thuật Hoài"

    "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

    Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

    Nam nhi vị liễu công danh trái

    Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu."

    (Múa giáo non sông trải mấy thu

    Ba quân khí thế nuốt trôi trâu

    Công danh nam tử còn vương nợ

    Luống thẹn tai nghe thuyết Vũ Hầu)

    Phạm Ngũ Lão là người có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mông- Nguyên. Ông là người nổi tiếng với văn võ toàn tài, là một võ tương thích đọc sách và ngâm thơ. Trong ông đã sớm thấm thuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào và tự tôn dân tộc. Sự nghiệp văn chương của ông trước hết phải nói đến hai từ "phong phú", nhưng hiện nay chỉ còn lưu truyền lại hai bài thơ là "Thuật Hoài" và "Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Vương". Tuy tác phẩm để lại không nhiều nhưng Phạm Ngũ Lão lại có vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam.

    Tác phẩm "Thuật Hoài" hay còn gọi là "Tỏ lòng" là bài thơ được Phạm Ngũ Lão sáng tác trong cuộc kháng chiến chống quân Mông- Nguyên của vui tôi nhà Trần. Đây là một bài thơ được đánh giá cao mà Phạm Ngũ Lão đã để lại. Trải qua dòng chảy thời gian, những tư tưởng mà tác giả gửi gắm vẫn còn sống mãi. Tác phẩm không chỉ gợi lên sức mạnh của con người có lí tướng, nhân cách cao cả mà nó còn tô đậm và thể hiện cái tâm chân thành trong sáng của người anh hùng. Chỉ với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, Phạm Ngũ Lão đã thành công truyền tải lí tưởng sống cao đẹp của mình đến các đọc giả xưa và nay.

    Mở đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã khắc vào tâm trí người đọc hình ảnh một người tráng sĩ hào khí Đông A:

    "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu"

    (Múa giáo non sông trải mấy thu)

    Hai chữ "hoành sóc" được biên dịch thành múa giáo để phô trương biểu diễn, song nó lại chưa thể hiện được xuất xắc hai từ ma Phạm Ngũ Lão đã lựa chọn. Câu thơ nguyên tác đã xây dựng lên hình ảnh một con người "cầm ngang ngọn giáo" để trấn giữ đât nước. Con người ấy hiện lên với một tư thế vô cùng hiên ngang mang tầm vóc lớn lao, sánh ngang vũ trụ rộng lớn. Trong không gian "non sông" bao la biền biệt, người tráng sĩ ấy thậm chí còn kì vĩ và nổi bật hơn. Cụm từ "trải mấy thu" ẩn ý một khoảng thời gian dài đằng đẳng, người tráng sĩ kia đã và đang chiến đấu vì tổ quốc mà không biết mệt mỏi. Từ đó ta thấy được hình tượng ngang tàng đầy bản lĩnh của những con người dũng mãnh chiến đấu nơi trận mạc. Vận mệnh và sự bình yên của đất nước đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đo là trọng trách lớn lao đặt trên vai người chiến sĩ. Nhưng cũng chính ngọn giáo ấy là điểm tựa vững vang che chở cả dân tộc tồn tại. Câu thơ tuy ngắn gọn nhưng mang ngụ ý to lớn của tác giả: Đó không chỉ là duy nhất của một người duy nhất, mà còn là tầm vóc hào sảng của biết bao con người thời đại, là không khí sôi sục của đất trời Đông A.

    Từ hình ảnh người tráng sĩ "Bình Nguyên" thưở ấy, Phạm Ngũ Lão đã ca ngợi sức mạnh của quân đội thời nhà Trần. Câu thơ sau như một lời động viên và cổ vũ quân lính có niềm tin và vững bước hơn ở các trận chiến sau:

    "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu"

    (Ba quân tì hổ nuốt trôi trâu)

    "Ba quân" ở đây là tượng trưng cho sức mạnh của toàn dân tộc, là tiền quân, trung quân và hậu quân. Ở nguyên tác, Phạm Ngũ Lão sử dụng hình ảnh "tam quân tì hổ" để ví sức mạnh của quân đội nhà Trần và đồng thời là sức mạnh của toàn dân tộc như hổ báo có thể "nuốt trôi trâu". Sức mạnh ấy tựa như một ngọn lửa chiến thắng đang sục sôi trong trái tim người tráng sĩ. Nó như một trận cuồng phong cuốn phăng mọi thế lực thù địch, giành lại tự do cho đất nước. Lối nói cường điệu "khí thôn ngưu" còn như muốn nói lên sự hùng mạnh, cường tráng của đội quân có thể vượt lên cả sao trời- sao Ngưu. Sức mạnh ấy sẽ bao trùm, bảo vệ tự do dân tộc, nhân dân. Cách nói ẩn dụ ước lệ trong thi pháp thơ ca trung đại với phép phóng đại "tam quân tì hổ" cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về quân đội "sát thát" của nhà Trần. Hai câu thơ đầu tiên vang lên, Phạm Ngũ Lão không chỉ cho ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của người anh hùng "đương thời" mà đó còn là vẻ đẹp của một đại dân tộc hào hùng.

    Trong câu thơ đầu, Phạm Ngũ Lão đã sử dụng một hình ảnh quen thuộc trong án thơ trung đại, song tác giả đã dày công chắt lọc và kết tinh thành một câu thơ xuất xắc bằng tâm hồn nhạy bén và lăng kính chủ quan của mình. Sau này ta gặp lại trong hình ảnh người chinh phụ trong tác phẩm "Chinh phụ ngâm" :

    "Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hàng beo"

    Cũng là hình ảnh ngọn giáo nhưng so với hình tượng người tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông đất nước thì người chinh phụ lại không có được cái đẹp của vũ trụ, cái đẹp hào khí bao trùm cả đất trời ấy. Bởi thư pháp nghệ thuật so sánh vừa cụ thể hóa sức mạnh của "ba quân" vừa hướng tới sự khái quát sức mạnh tinh thần mang hào khí "Đông A" của dân tộc, người đọc sẽ ấn tượng mạnh voi câu thơ thứ hai cùng sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan và cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạng bất ngờ.

    Từ những từ ngữ hùng hồ đầy khí phách nhà thơ chuyển hẳn sang giọng điệu sâu lắng hơn ở hai câu thơ sau. Đó cũng chính là lời tâm sự, là những bộc bạch từ tận sâu tâm mình:

    "Công danh nam tử còn vươn nợ

    Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu"

    Trong thời đại đó, tư tưởng "trung quân ái quốc" là một lí tưởng sống bao trùm cả xã hội. Ở đây, chí làm trai mang tinh thần và suy nghĩ tích cực, tiến bộ của Nho giáo như: Lập công, lập danh, lập nghiệp. Là một đấng năm nhi thì phải làm nên sự nghiệp vẻ vang và để lại tiếng thơm cho đời. Quan niệm về lập công danh như rằng đã trở thành một quan niệm, lí tưởng của các đấng nam tử trong bối cảnh phong kiến xưa. Với người quân tử trong xã hội đương thời, chí làm trai là phẩm chất vốn không thể thiếu. Ta cũng đã từng đọc qua những câu thơ nhắc đến món nợ công danh của nam nhi đại trượng phu:

    "Chí làm trai dặm nghìn da ngựa

    Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao."

    (Đoàn Thị Điểm)

    Hay:

    "Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo" (Nguyễn Công Trứ)

    Đối với những người tráng sĩ Bình Nguyên thuở ấy, trong hoàn cảnh đất nước đang bị lâm le xâm chiếm bởi giặc ngoại bang thì "nợ công danh" mà họ phải trả đó là làm sao để bảo vệ tổ quốc, để đem đến bình yên cho bánh tính. Nói khác đi, hùng tâm tráng trí trong lòng người tráng sĩ chính là niềm yêu nước tha thiết sâu nặng, lắng động trong câu thơ. Điều đặc biệt là trong câu chữ của "Tỏ lòng", tinh thần bất khuất ấy không được nêu lên một cách giác điều, khô cứng mà nó như được tỏa ra từ chính trái tim, thốt lên từ tâm can của một con người với khát vọng đang sôi cháy, rực lửa. Trả xong món nợ công danh cũng đồng nghĩa là hoàn thành nhiệm vụ với đời, với dân và với nước. Phạm Ngũ Lão là một vị tướng tài ba đã cùng Hưng Đạo Vương lập nên bao chiến công vang danh, nhưng với ông điều đó vẫn chưa đủ. Phạm Ngũ Lão vẫn còn trăn trở trong lòng, tận sau trong tâm can ông một ngày đất nước còn đói khổ, nhân dân còn phải sống trong cảnh lầm than thì ông vẫn còn mang món nợ đối với đời. Lòng ông cứ mãi canh cánh rằng mình chủa đủ tài, đủ giỏi để trả nợ công danh. Nhà thơ lại nhớ đến chuyện Vũ Hầu mà người đời hết sức ca ngợi. Chính vị quân sư Gia Cát Lượng tài giỏi- người đã giúp Lưu Bị khôi phục lại nhà Thục Hán và tiếp thêm động lực cho Phạm Ngũ Lão. Song cũng để lại một nỗi hổ thẹn trong tâm can ông. "Thẹn" là vì bản thân chưa đủ xuất xắc, vẫn chưa đủ mưu trí để giúp dân giúp nước. Có thể nói, Gia Cát Lượng là tấm gương sáng mà cả đời Phạm Ngũ Lão muốn nôi theo. Nhìn vào chữ "thẹn" của tác gải, ta thấy được nỗi niềm khát vọng, phụng sự hết mình vao nhà Trần. Bên cạnh đó cũng thể hiện cái chí của người anh hùng. Hai câu thơ còn làm sáng tỏ cái tâm của Phạm Ngũ Lão. Đó là một nhân cách cao cả, cái tâm chân thành và trong sáng của một tráng sĩ Đông A thời nhà Trần. Nỗi thẹn của ông không khiến người khác bị hạ thấp nhân phẩm mà nó lại còn khiến ta càng trân trọng và ngưỡng mộ phẩm giá tuyệt vời của nhà thơ. Rằng có những cái thẹn khiến người ta trở nên bé nhỏ, có những cái thẹn thật khiến ho người ta khinh, nhưng cũng có những cái thẹn cho người ta thấy cả một tầm vóc lớn lao và ý chí mãnh liệt, cái thẹn của những người chiến sĩ thời Trần phải chăng là cái thẹn như thế?

    "Tỏ lòng" là bài thơ tuy ngắn song lại đạt đến độ súc tích cao, khắc họa được vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lí tưởng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại. Với bút pháp gợi nhưng không tả mà kể chi tiết kết hợp cũng các hình ảnh so sánh độc đáo và ước lệ như "kháp kỉ thu"; "tì hổ"; "khi thôn ngưu", nhà thơ đã thành công gợi lên tượng đài sừng sững về người tráng sĩ thuở Bình Nguyên với tư thế hiên ngang, lẫm liệt, sẵn sàng bảo vệ tổ quốc. Cuối cùng là khéo léo bày tỏ nỗi lòng, niềm khát vọng được cống hiến để thỏa "chí làm trai". Qua đó ta cảm nhận được tình cảm yêu nước tha thiết của một tài năng, một tấm lòng, một nhân cách lớn. Tác phẩm vẫn trường tồn và sống mãi trong lòng độc giả trước sự băng hoại của thời gian..
     
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...