Phân tích bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng đầy đủ, sáng tạo nhất

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi estoulam, 2 Tháng mười 2021.

  1. estoulam

    Bài viết:
    63
    PHÂN TÍCH BÀI THƠ "TÂY TIẾN" - QUANG DŨNG

    "Những trang sách đi suốt đời vẫn nhớ.

    Như những đám mây ngũ sắc ngủ trên đầu".

    Đó là những chiêm nghiệm của Bằng Việt về sức sống của văn chương nghệ thuật. Thật vậy, có những tác phẩm ra đời để rồi chìm khuất giữa ồn ào náo nhiệt của phiên chợ văn chương, nhưng cũng có những tác phẩm vẫn tồn tại bền bỉ tựa dòng suối mát lành chảy mãi trong tâm hồn bao thế hệ hôm qua, hôm nay và ngày mai. Đó là những bài ca vượt thời gian, đi cùng năm tháng và để lại nhiều dư vang trong lòng bạn đọc. Tây Tiến của Quang Dũng là một bài ca như thế. Tác phẩm đã khắc họa chân thực vẻ đẹp riêng của thiên nhiên miền Tây và hình ảnh bi tráng của người lính trên chặng đường chinh chiến gian lao.

    Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ Việt nam. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Bài thơ được viết năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, khi tác giả rời xa binh đoàn Tây Tiến chưa được bao lâu, trong tình cảm tha thiết dành cho đơn vị cũ. "Tây Tiến" in trong tập Mây đầu ô (1986), được đánh giá là một tác phẩm tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng.

    Khi nói về thơ ca, nhà thơ Đuy Blây có viết: "Thơ là người thư ký trung thành của những trái tim." Đó là một lối ví von tinh tế về khả năng tái hiện tình cảm của nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng. Và đối với Quang Dũng thì Tây Tiến chính là sự biểu đạt chân thực nhất cho nỗi nhớ của tác giả. Hai câu thơ mở đầu là một tiếng gọi thiết tha, cất lên từ miền kí ức thẳm sâu, từ đó khơi mạch cho toàn bài:

    "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

    Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"

    Sông Mã là đối tượng đầu tiên được nhà thơ Quang Dũng gọi tên trong thi phẩm. Sông Mã đã trở thành hiện thân cho vùng đất miền Tây với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, nhưng trên hết, đó là con sông trải dài theo những cung đường hành quân của người lính Tây Tiến, là chứng nhân cho biết bao nhiêu kỉ niệm buồn vui. Theo bước chân quân hành, sông Mã đã cùng người lính trải qua cả những phút giây yêu thương gắn bó lẫn mất mát hi sinh, làm nên dòng chảy xuyên suốt trang thơ Tây Tiến và trong lòng tác giả.

    [​IMG]

    Quang Dũng đã cất lên tiếng gọi "Tây Tiến ơi" bằng một cảm xúc dạt dào nhất. Tiếng gọi đó khiến cho Tây Tiến dường như không chỉ là một địa danh bình thường, mà trở thành một nơi để gửi gắm nỗi niềm hay một người thân ruột thịt. Bởi, suốt những tháng năm dài cùng đồng đội chinh chiến, Tây Tiến đã trở thành dấu ấn khó phai trong cuộc đời người lính. Phải mang trong mình thứ tình cảm tha thiết tới mức nào thì Quang Dũng mới có thể viết nên những "thanh âm" chan chứa tâm tình như vậy. Điều này ít nhiều gợi nhắc chúng ta đến hai câu thơ của Chế Lan Viên, với chung cảm xúc yêu thương, trân trọng dành cho mảnh đất đã lưu giữ một phần đời đáng nhớ:

    "Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

    Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!"

    Nhớ Tây Tiến là nhớ "rừng núi", nhớ không gian rộng lớn, choáng ngợp của một miền đất hùng vĩ. Đó là ấn tượng sâu đậm nhất mà người lính cảm nhận được, bởi họ, những ai đã quen với Hà Thành bằng phẳng, thì hình ảnh "rừng núi" Tây Tiến thật lạ lẫm, để rồi đọng lại mãi trong kí ức sau này. Hai tiếng "Xa rồi" như một tiếng thở dài đầy thương nhớ hô ứng với điệp từ "nhớ" ở câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây.

    Từ láy "chơi vơi" bắt vần với chữ "ơi" trong câu thơ đầu tiên tạo nên một âm hưởng dài, đầy bồi hồi, tha thiết. Đọc lên câu thơ này, ta cứ ngỡ như Quang Dũng đang đứng giữa cái điệp trùng rừng núi mà gọi tên Tây Tiến, khiến thanh âm vọng lại trong không gian, âm vang mãi trong lòng. "Nhớ" vốn là trừu tượng, "nhớ chơi vơi" lại càng trừu tượng, không có hình hài, không thể nắm bắt. Nghe như thể đó là một xúc cảm nhạt nhòa, mong manh nhưng chính vì "chơi vơi" mơ hồ nên nó mới có sức ám ảnh, nó tồn tại thường trực, sâu sắc trong tâm khảm. Bởi nỗi nhớ ấy không cần vịn vào ý thức để biết mình đang nhớ, mà nó nằm gọn dưới đáy sâu tâm hồn, rồi như ngấm vào máu thịt, trở thành một phần tiềm thức, thậm chí là một phần con người. Cách dùng từ của Quang Dũng vừa độc đáo, mới mẻ, lại hết sức chính xác, diễn tả chân thực sự trơ trọi, chênh vênh trước những tháng ngày đã lùi xa. Đó là nỗi nhớ miên man, bâng khuâng trong thế giới hoài niệm. Nỗi nhớ "chơi vơi" ấy đã làm nên khúc tiền tấu của bài thơ, vẽ nên mạch cảm xúc cho toàn bộ thi phẩm.. Điệp từ "nhớ" có tác dụng nhấn mạnh cảm và tăng chiều sâu cảm xúc, khiến Tây Tiến trở thành một góc nhỏ của kỉ niệm, luôn luôn hiện hữu trong sâu thẳm tâm hồn.

    Tiếp theo đó, cung đường Tây Tiến trước mắt người đọc được mở ra theo chiều không gian:

    "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

    Mường Lát hoa về trong đêm hơi"

    Hàng loạt những địa danh đi vào lời thơ Quang Dũng như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu khiến cho đa phần người đọc ít nhiềucảm thấy lạ lẫm. Có lẽ chỉ những con người đã từng đặt chân đến miền cực tây của tổ quốc thì mới ghi nhớ và khắc sâu trong kí ức. Tất cả gợi về một không gian hoang vu, bí hiểm, vừa gây tò mò lại vừa mang đến ấn tượng về chặng đường hành quân gian khổ.

    Sương khói vốn là đặc trưng của núi rừng, nó đã đi vào lời thơ Chế Lan Viên:

    'Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

    Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?

    Nhưng, trước khi nó là một vẻ đẹp lãng mạn, thì trong thơ Quang Dũng, bằng trải ngiệm của những chàng trai trẻ Hà Thành, thì sương khói thực sự là một thử thách. Hình ảnh "sương lấp" đã làm hiện lên màn sương dày đặc phủ lên cả con đường hành quân. Sương càng dày thì cảnh càng mờ mịt, trời càng lạnh giá, trở thành thứ kí ức về một hiện thực vô cùng khắc nghiệt. Chữ "mỏi" đặt vào cuối khiến câu thơ thêm chùng xuống, tựa như hơi thở nặng nhọc theo từng bước chân người lính. Trong câu thơ bảy chữ, có đến năm thanh bằng và chỉ có 2 thanh trắc, nhưng toàn bộ sức nặng, dấu ấn đều dồn vào hai chữ "lấp" và "mỏi" ấy.

    Thế mà, trong cái nhìn của đoàn quân Tây Tiến, lại có những hình ảnh lung linh, mơ mộng, mang tên "hoa về". "Hoa" có thể là hoa rừng, đuốc hoa, hay đốm hoa được vẽ lên bởi làn sương rét mướt, đến với người lính bằng từ "về" đầy thân thương, gợi vẻ đoàn tụ, xum vầy giữa cảnh hành quân, lạnh lẽo. Đêm ấy trở thành "đêm hơi" - một nét vẽ tài hoa, lãng mạn xuất phát từ sự kết hợp từ ngữ mới lạ của Quang Dũng. Thiên nhiên vì thế mà trở nên sinh động, đem đến cảm giác nên thơ, êm ái, vơi đi những gian lao, vất vả suốt một hành trình. Quả là con mắt thi nhân, với một phẩm chất vô cùng tinh tế!

    Trong ấn tượng của nhà thơ Quang Dũng, chặng đường khắc nghiệt ấy còn gắn liền với cảnh thác lũ mưa nguồn cùng con đường hành quân cheo leo trên dốc núi, trong sương mờ, bên vực thẳm. Sự dữ dội, hùng vĩ cứ theo đó mà nối tiếp, như một cuốn phim chân thực theo từng bước chân người lính:

    Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

    Heo hút cồn mây súng ngửi trời

    Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống "

    Biện pháp tiểu đối" dốc lên "với" dốc thăm thẳm, "ngàn thước lên" với ngàn thước xuống đã khắc họa chân thực địa hình hiểm trở, bên này là vách núi dựng đứng, bên kia là vực sâu. Nhịp thơ 4/3 với hai từ "dốc" lặp lại trong một câu thơ khiến những con dốc hiện lên nối tiếp nhau, trùng trụng điệp điệp, thách thức bước chân người lính. Các từ ngữ giàu giá trị gợi hình được sử dụng với mật độ cao: "Khúc khuỷu" tạo nên vẻ quanh co, gồ ghề, "thăm thẳm" diễn tả chân thực độ sâu khi nhìn xuống, "heo hút" vừa gợi nên vẻ cao, xa, quạnh vắng, được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh sự lạnh lẽo, hoang vu. Đọc lên mới thấy, đâu phải tự nhiên mà người ta ngợi ca Tây Tiến là một bài thơ "thi trung hữu họa", và cũng chẳng phải ngẫu nhiên khi chúng ta lại có một họa sĩ Quang Dũng bên cạnh danh hiệu nhà thơ.

    Hình ảnh nhân hóa "súng ngửi trời" vừa miêu tả dốc núi cao, tưởng như chạm đến trời mây, vừa mang một vẻ hóm hỉnh, trẻ trung của người lính, trong gian khổ, họ vẫn có thể tinh nghịch vui đùa. Từ đó, Quang Dũng đã khéo léo nâng cao tầm vóc người lính: Sánh ngang với vũ trụ bao la. Chỉ bằng một nét vẽ, nhà thơ đã tả thực sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc và cũng gợi được tinh thần lạc quan, yêu đời của đoàn binh Tây Tiến.

    Ngoài ra, cách dùng số từ mang tính ước lệ "ngàn thước lên", "ngàn thước xuống" có tác dụng chỉ sự trùng điệp đến vô cùng của địa hình dốc núi. Ý thơ Quang Dũng đã gặp gỡ vị thi nhân Lý Bạch trong cách gây ấn tượng về vẻ hùng vĩ, trắc trở của thiên nhiên:

    "Thác bay thẳng xuống ba nghìn thước

    Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây

    Nếu như trong ba câu trên, các thanh trắc chiếm đa số, góp phần tạo nên nét gập ghềnh thì lúc này đây, âm hưởng thơ về trạng thái cân bằng:

    " Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi "

    Câu thơ đã làm hiện ra trước mắt người đọc một không gian mênh mang, dàn trải, nhạt nhòa trong mưa. Tuy nơi ấy là một thung lũng mịt mờ, lạnh lẽo nhưng vẫn còn tiếng" nhà "với thanh huyền, đem lại chút trầm lắng, suy tư, lại gợi thêm chút thân thương, ấm áp, làm xuyến xao lòng người xa quê.

    Bốn câu thơ trên đã khắc họa chân thực con đường gian truân, vất vả của người lính trong cảnh thiên nhiên hiểm trở, qua đó giúp người đọc cảm nhận được ở họ tinh thần can trường, dũng cảm lại không kém phần hóm hỉnh của những chàng trai Hà Thành. Nhưng đó mới chỉ là những khó khăn đầu tiên, cung đường miền Tây còn là địa bàn hoạt động đầy hiểm nguy, thách thức, nơi con người ta phải đối diện với sự mất mát, hi sinh:

    " Anh bạn dãi dầu không bước nữa

    Gục lên súng mũ bỏ quên đời "

    Những người lính Tây Tiến luôn có chung một tinh thần quyết chiến quyết thắng, hướng về tương lai tươi sáng phía trước nhưng họ vẫn chẳng thể tránh khỏi những lúc mỏi mệt, đau thương. Chỉ với một từ láy" dãi dầu ", Quang Dũng gói ghém hết từng phút giây vất vả, gian lao của đoàn binh, kết hợp với" gục ", tạo nên một trạng thái kiệt quệ, không thể gắng gượng thêm được. Tuy vậy, nhà thơ đã nhấn mạnh một tư thế chủ động của người chiến sĩ bằng cách nói" không bước nữa ", hay" bỏ quên đời ". Không hề mang dáng vẻ bi lụy khi phải hi sinh, mà ở họ là thái độ bình thản, thư thái nằm lại trong lòng đất mẹ. Quang Dũng vừa làm vơi bớt đi nét tang tóc, đau thương lại vừa thể hiện được khí chất ngang tàn của những người lính trước hiện thực nghiệt ngã.

    " Chiều chiều oai linh thác gầm thét

    Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người "

    Nghệ thuật nhân hóa" thác gầm thét "," cọp trêu người "khiến chúng ta có cảm giác thiên nhiên đang hù dọa, rình rập, thách thức tinh thần can đảm của bất kì ai. Địa danh Mường Hịch kết hợp cùng" cọp trêu người ", với hai dấu nặng liền kề, tựa như bước chân thú dữ lăm le, lởn vởn trong bóng tối, sẵn sàng cướp đi sinh mạng người lính Tây Tiến. Âm thanh thác lũ và thú dữ như quyện vào nhau, tạo thành bản hòa tấu đầy bí hiểm, dữ dội của thiên nhiên, vang lại trong tâm khảm của nhà thơ mỗi khi nhớ lại những năm tháng hành quân, chinh chiến. Trong hai câu thơ, người đọc dễ dàng cảm nhận được bước đi của thời gian từ" chiều chiều "đến" đêm đêm ", tạo nên những ấn tượng về sự triền miên, liên tục, không ngơi nghỉ của thời gian. Có nghĩa rằng, đoàn binh Tây Tiến luôn luôn phải đối diện với hiện thực kinh hoàng, nối ám ảnh thường trực, để dần dần tôi luyện cho họ một tinh thần quả cảm trước những thách thức khốc liệt.

    " Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi "

    Đến đây, nỗi nhớ Quang Dũng dành cho Tây Tiến không còn nằm lại trong những địa danh, cung đường, mà bật hẳn ra thành tiếng:" Nhớ ôi ". Sau những chặng hành quân gian lao, vất vả, họ được xum vầy bên bữa cơm giản dị, với hương thơm của lúa nếp đầu mùa và cả tình quân dân thắm thiết. Nhà thơ đã rất tinh tế khi sử dụng từ" mùa em ", tạo nên sự hòa hợp trong ấn tượng về con người miền Tây. Hai chữ" mùa em "như gói trọn cảm xúc nồng nàn trong trái tim người lính, bởi nó không giống như" mùa hành quân "hay" mùa chiến dịch "," mùa em "là một cách đo lịch rất khác, khi mà những cô thôn nữ rộn ràng, nồng nàn hương sắc, cùng" cơm lên khói "," thơm nếp xôi "đã tạo nên một dấu ấn rất riêng, một kí ức đẹp khó phai trong cuộc đời. Nếu không đặt cả hồn mình trong cái dịu êm, bình lặng hiếm hoi của Tây Bắc thì làm sao có được một xúc cảm như vậy. Đến đây, ta chợt nhớ tới hương nếp thơm nồng trong thơ Chế Lan Viên

    " Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

    Vắt xôi nuôi quân em nấu giữa rừng

    Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

    Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương ".

    Toàn bộ câu thơ thứ hai là những thanh bằng, tạo nên vẻ ấm áp, thanh bình, mở ra một thế giới mới, một cảnh tượng mới, bỏ lại phía sau những mỏi mệt, hi sinh của cuộc chiến tranh. Đây chính là điều làm nên vẻ đẹp đa dạng của núi rừng Tây Bắc: Dữ dội, khốc liệt nhưng cũng chẳng thiếu ân tình.

    Đoạn thơ mở đầu Tây Tiến là sự kết hợp tài tình giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn. Trong gian khổ có ý chí quyết tâm, trong sự hi sinh, mất mát vẫn có tình người nồng ấm. Cùng với các biện pháp tu từ, kết hợp với cách vận dụng thanh điệu đặc sắc, Quang Dũng như một người nghệ sĩ vừa mang đến hình ảnh chân thực của núi non điệp trùng, mưa nguồn thác lũ, vừa cho thấy phần nào những cảm giác khác nhau của người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân, khi nặng nhọc, mệt nhoài, khi bay bổng, hồn nhiên. Nghệ thuật liệt kê hàng loạt các địa danh, hình ảnh tiêu biểu giúp cho vùng đất miền Tây xa xôi, hiểm trở hiện lên rõ ràng hơn trước tầm mắt người đọc, với vẻ đẹp hùng vĩ rất riêng. Ngoài ra, cách sử dụng từ sáng tạo, mới mẻ cũng là một điểm đặc sắc làm nên thành công của đoạn thơ.

    Nếu như khổ thơ đầu tiên được ví như khúc tiền tấu cho nỗi nhớ thì khổ thơ thứ hai đã diễn tả thành công nỗi nhớ về những kỉ niệm thắm tình quân dân và miền đất Tây Bắc thơ mộng, trữ tình. Trước hết, đó là kí ức về đêm liên hoan văn nghệ ở bản mường:

    " Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

    Kìa em xiêm áo tự bao giờ

    Khèn lên man điệu nàng e ấp

    Nhạc về Viên chăn xây hồn thơ "

    Đầu tiên, Quang Dũng đã mang đến những ấn tượng về ánh sáng trong không gian." Bừng lên "diễn tả sự đột ngột, chói lóa, xua tan đi cái lạnh lẽo nơi núi rừng Tây Bắc. Ánh sáng ấy được phát ra từ những ngọn đuốc cháy rực, nhìn xa lung linh như những bông hoa lửa đang tỏa ánh hào quang. Không dừng lại ở đó, ánh sáng còn bắt nguồn từ những" xiêm áo "cầu kì, rực rỡ, dành riêng cho dịp lễ hội mà những cô gái diện lên người. Tất cả tạo nên một nét đẹp diễm lệ, lan tỏa niềm hân hoan ra khắp miền đất tưởng như chỉ mang vẻ hoang vu, tăm tối. Thế nhưng trên hết, ánh sáng mà Quang Dũng muốn khắc họa còn đến từ cái nhìn say mê, ngây ngất của người lính khi được chiêm ngưỡng các cô gái duyên dáng, uyển chuyển trong bộ xiêm y và nền nhạc, để rồi thốt lên đầy ngỡ ngàng:" Kìa em ". Tiếng reo vui thích thú hay lời chào bất chợt kia điểm tô cho câu thơ một sắc thái trẻ trung, tươi mới, tràn ngập niềm vui và sức sống.

    Bên cạnh ấn tượng về ánh sáng, nhà thơ Quang Dũng cũng lưu lại trong trí nhớ bao thanh âm náo nức, rộn rã của đêm liên hoan văn nghệ. Đó là tiếng" khèn "vừa lạ lẫm, lại không kém phần lôi cuốn đối với những chàng trai Hà Thành. Quang Dũng đã mang đến cho trang thơ Tây Tiến một dấu ấn đậm nét của bản sắc dân tộc trên miền đất của núi rừng Tây Bắc, không chỉ ở nhạc cụ truyền thống mà còn là điệu nhạc, điệu múa" man điệu "mang âm hưởng nơi đây.

    Nổi bật trên nền nhạc lôi cuốn là hình ảnh con người tươi vui, hòa vào không khí rộn ràng của đêm hội. Họ là những cô thiếu nữ duyên dáng," e ấp "trong ánh đèn lộng lẫy, với điệu múa uyển chuyển, mềm mại, mang đến vẻ đẹp dịu dàng, tình tứ, khiến những chàng trai Tây Tiến phải đắm mình chiêm ngưỡng. Các cô gái hàng ngày mang trên mình màu áo chàm để phù hợp với công việc lao động thì nay dường như lột xác trong bộ xiêm y rực rỡ. Còn những chàng trai, trong khoảnh khắc mê say, lôi cuốn đã không còn mang vẻ cứng cỏi, gan góc, với thách thức phải vượt qua từng cung đường hành quân hiểm trở. Lúc này đây, những nét hào hoa, lãng mạng của người sinh viên Hà Thành đang được khơi dậy, vươn mình cất cánh, trở thành những chàng thi sĩ mơ mộng, vun đắp nên bao" hồn thơ "dạt dào, say đắm. Có thể thấy, dù cho kỉ niệm về đêm liên hoan ấy đã lùi xa, chỉ còn nằm lại nơi tiềm thức của những người lính, nhưng Quang Dũng đã tô vẽ nên một bức tranh toàn cảnh với đầy đủ âm thanh, ánh sáng và những tâm tình nồng đượm. Đó là dịp để những người lính bộc lộ một tâm hồn trẻ trung, tình tứ - nét đẹp mà bao chàng trai Hà Thành vẫn luôn cất giữ trong mình.

    Nhớ về một Tây Tiến thơ mộng trữ tình, không chỉ có đêm liên hoan văn nghệ thắm tình quân dân, đó còn là bức tranh sông nước:

    Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

    Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

    Quang Dũng đã đi từ bút pháp lãng mạn thiên về cực tả đã chuyển sang bút pháp gợi, chỉ cốt ghi lấy cái linh hồn của tạo vật. Từ đây, nét vẽ của Quang Dũng không còn rắn rỏi, gân guốc nữa mà đầy trữ tình, êm ái. Đây là lần thứ hai nhà thơ nhắc đến" sương ", có lẽ đó là hình ảnh ghi dấu đậm nét trong lòng tác giả. Nếu như sương trong đoạn đầu là sương đêm lạnh lẽo, gắn liền với những gian lao, thách thức của đoàn binh TT trên chặng đường hạnh quân thì đến đây, ta lại thấy hình ảnh một làn sương chiều bảng lảng, mộng mơ. Nó giống một bức voan huyền ảo bao trùm lên cảnh vật, khiến núi rừng Tây Bắc thêm phần lãng mạn.

    Hình ảnh màu lau trắng trải dọc đôi bờ sông không làm bừng sáng bức tranh thiên nhiên mà ngược lại, nó gợi ra một nét buồn man mác. Có lẽ đó là nỗi buồn của người con xa xứ khi đôi mắt người lính nhìn về mảnh trời đằng xa. Quang Dũng dùng hình ảnh hồn lau, thay vì bông lau, hay khóm lau khiến nó không còn là cảnh vật vô tri, mà mang hồn thiêng hòa nhịp cùng tâm tư người lính, trở thành một người bạn đồng hành, luôn thấu hiểu, sẻ chia cùng họ. Và phải chăng, người ta chỉ có thể thấy được hồn lau bằng trải nghiệm, bằng tình cảm và nỗi" nhớ chơi vơi ", tha thiết? Hoặc cũng có thể hiểu, hồn lau là một hình ảnh ẩn dụ đặc sắc để gợi ra vẻ đẹp tâm hồn của người lao động miền sông nước, tuy mộc mạc, giản dị nhưng rất đỗi chân thành.

    Nổi bật trên nền cảnh thiên nhiên là hình ảnh con người:

    " Có nhớ dáng người trên độc mộc

    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa "

    " Dáng người "gợi ra dáng vóc uyển chuyển, mềm mại in bóng trên sông nước, đó rất có thể là những cô thiếu nữ trên thuyền. Đó là một khung cảnh đầy thi vị lôi cuốn những ánh nhìn mê say của người lính TT. Song hành với nó là hình ảnh" hoa đong đưa ", gợi ra một ánh mắt rất đỗi tình tứ của những cô thiếu nữ miền sơn cước trẻ trung, xinh đẹp. Những bông hoa được thổi hồn đầy tinh tế, đi cùng" dáng người trên độc mộc "đã làm tiêu tan đi cái dữ dội, cuộn xiết của" dòng nước lũ ". Quang Dũng đã liên tiếp đặt ra những câu hỏi" có thấy "," có nhớ "trong đoạn thơ. Đó có thể là câu hỏi dành cho những người đồng đội của tác giả, hoặc là Quang Dũng đang tự vấn chính mình. Nó như một lời nhắc nhở, rằng ông sẽ không bao giờ quên một quá khứ tươi đẹp, một kí ức đầy thi vị.

    Khổ thơ thứ ba đã khắc họa thành công bức tượng đài người lính Tây Tiến bi tráng và bất tử. Trước hết, hai câu thơ đầu tiên đã tái hiện rõ nét đặc điểm ngoại hình của những người lính Tây Tiến:

    " Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

    Quân xanh màu lá dữ oai hùm. "

    Không mọc tóc" hay màu da xanh tái chính là hậu quả của những cơn sốt rét rừng trên cung đường hành quân hiểm trở, với sự ám ảnh về một thời "chết trận thì ít mà chết vì bệnh thì nhiều." Họ kiệt quệ vì bệnh tật nhưng không được chữa trị, thuốc thang chu đáo. Quang Dũng đã không hề né tránh hiện thực khi viết về nỗi sợ hãi triền miên của những người lính Tây Tiến. Không chỉ Quang Dũng, mà chúng ta cũng có thể bắt gặp Tố Hữu với bao hình ảnh thơ gân guốc, trần trụi về dáng vẻ của những chàng trai đã hi sinh tuổi trẻ cho Tổ quốc:

    "Giọt giọt mồ hôi rơi

    Trên má anh vàng nghệ."

    Hoặc như trong câu thơ Thôi Hữu:

    Cuộc đời gió bụi pha xương máu

    Đói rét bao lần xé thịt da

    Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh

    Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!

    Biết bao chiến sĩ đã nằm xuống, biết bao nhiêu nấm mồ hoang lạnh đã mọc lên nơi núi rừng hoang vu. Tuy đau thương là thế, nhưng qua cái nhìn và tiếng thơ Quang Dũng, với bút pháp lãng mạn, đã tạo ra cách nói đầy ngang tàn, khí phách. Thay vì nói "tóc không mọc được", nhà thơ dùng cách diễn đạt mang ý chủ động: "Không mọc tóc", và da "xanh màu lá" như muốn tạo ra một chân dung đôi phần dữ dằn hơn, mang đến sức mạnh lấn át nhằm uy hiếp kẻ thù. Khí phách đó chính là điều đã làm nên một đoàn binh phi thường, mãi mãi lưu danh trên trang sử hào hùng.

    Không dừng lại ở đó, ẩn chứa trong bức chân dung với từng nét vẽ chân thực về ngoại hình, người đọc còn nhận ra sức mạnh nội tâm của những người lính Tây Tiến qua câu thơ:

    "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới"

    "Mắt trừng" là ánh mắt nhìn thẳng, mang theo nỗi căm hờn, ngập tràn quyết tâm chiến thắng quân thù. Nằm sâu trong cái vẻ ngoài tiều tụy ấy chính là một sức mạnh phi thường, làm nên tinh thần thép để vượt mọi gian nan, thách thức. Thêm vào đó, những câu thơ phía sau đã mở ra một thế giới tâm hồn mộng mơ của những người lính Tây Tiến:

    "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

    Trong những đêm không ngủ, những chàng trai Hà Thành trên cung đường gian lao dường như hướng ánh mắt và con tim mình về phía bên kia biên giới. Nơi ấy là vùng quê hương đã cất giấu bao nhiêu kỉ niệm sinh viên thời trai trẻ, hay còn đó bóng hình thân yêu đang khắc khoải đợi mong. Nỗi niềm ấy không phải thứ làm mài mòn ý chí, khiến con người ta trở nên ủy mị trong sự đánh giá có phần ấu trĩ và lạc hậu của dư luận đương thời, mà đó lại là một nét vẽ đẹp, khắc họa cốt cách lãng mạn vốn có của những người lính tây tiến. Giữa khói lửa chiến trường vẫn mơ về Hà Nội, nơi đó có chăng là mái trường xưa kỉ niệm, góc phố cũ thân quen, tà áo trắng thướt tha hay dáng kiều thơm của cô em gái, cô thiếu nữ kiều diễm của thủ đô. Những tình cảm đẹp đẽ hướng về nơi hậu phương ấy luôn cổ vũ người lính, trở thành động lực chiến đấu, hướng về một ngày mai tươi sáng, tràn ngập niềm tin.

    Không chỉ Quang Dũng, mà Si-mô-nốp, với nét đẹp nơi tâm tình người lính trong chiến tranh thế giới thứ hai, đã viết nên bài thơ "đợi anh về", làm lay động trái tim người đọc:

    "Em ơi, đợi anh về

    Đợi Anh hoài Em nhé,

    Mưa cứ rơi dầm dề

    Ngày cứ dài lê thê"

    Không chỉ đẹp trong tâm hồn lãng mạn, người lính Tây Tiến còn đẹp trong lí tưởng và khát vọng hi sinh vì Tổ quốc:

    Rải rác biên cương mồ viễn xứ

    Từ "rải rác" đã gợi ra sự vắng vẻ, thưa thớt, tiêu điều của những nấm mồ hoang lạnh trên chặng hành quân gian khổ. Những nấm mồ vô danh không có người hương khói hay chăm lo, mà chỉ được mai táng sơ sài. Họ sống trong "heo hút cồn mây" và chết đi nơi mảnh đất hoang vu hiểm trở. Quang Dũng đã nhìn thẳng vào hiện thực tàn khốc ấy, rằng những nấm mồ của họ dường như đã trở thành cột cây số trên chặng đường hành quân. Nó càng gợi ra sự thê lương, bi thảm, khiến ta nhớ đến những câu thơ của Đặng Trần Côn:

    "Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,

    Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.

    Chinh phu tử sĩ mấy người,

    Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn."

    Trong câu thơ xuất hiện hai từ Hán Việt "biên cương" và "viễn xứ", gợi ra sắc thái cổ kính, trang nghiêm, bao bọc cho những nấm mồ kia một chút gì đó thành kính, để phần nào an ủi linh hồn họ. Nếu xét riêng câu thơ này, ta cứ ngỡ Quang Dũng muốn đưa người đọc chìm vào trong cái tang tóc hi sinh, nhưng đọc câu thư tiếp theo mới thấy, sự đau thương ấy chỉ là bước đệm để tôn vinh khí thế hùng tráng:

    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

    Câu thơ vang lên như một lời thề mạnh mẽ, đầy quyết tâm, dẫu cho trên chặng đường hành quân là bao con người phải ngã xuống, hằng ngày họ đều phải chứng kiến những người đồng đội ra đi. Nhưng điều ấy không làm cho họ sờn lòng, nhụt chí, mà dường như khung cảnh kia lại càng làm tăng thêm quyết tâm tiến về phía trước. Đời xanh là ẩn dụ cho tuổi trẻ, tuổi xuân phơi phới, nơi ấy là chân trời rộng mở của bao ước mơ, hoài bão của tương lai phía trước đang chờ đón. Tuổi trẻ quý giá là thế, nhưng họ vẫn ý thức được, có một thứ còn quý hơn, đó là sinh mệnh của tổ quốc, là lí tưởng hiến dâng mình cho khát vọng tự do của dân tộc. Nó giống như khí thế của tráng sĩ thời trước: "Nhất khứ bất phục phản", ra đi là không hẹn ngày về.

    Cùng với tinh thần đó, tiếp nối âm hưởng của những vần thơ chống Pháp, trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ác liệt, Thanh Thảo cũng từng viết:

    Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

    (Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)

    Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?

    Vì họ là những con tim biết đập vì sự sống còn của đất nước, biết rung động vì hai tiếng tổ quốc thiêng liêng:

    "Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt

    Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

    Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết

    Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông..".

    (Chế Lan Viên)

    Và để hoàn tất bức tượng đài về người lính Tây Tiến, không thể thiếu được sự hi sinh:

    "Áo bào thay chiếu anh về đất"

    Câu thơ xuất phát từ một thực tế đầy nghiệt ngã: Người lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp phải hành quân trong một điều kiện thiếu thốn đủ bề, không có đủ quân trang quân dụng, thiếu thốn lương thực.. Đến nỗi ngay cả khi gục ngã, hi sinh, họ thậm chí còn không có cả manh chiếu bó thây. Họ về với đất mẹ bằng chính tấm áo mỏng manh, đôi chỗ rách vá hàng ngày. Tuy nhiên lúc này đây, nó lại đi vào thơ và trở thành "áo bào" - trang phục của những vị tướng thời xưa. Điều ấy làm cho hình ảnh người lính thêm phần khí thế, lẫm liệt, họ ra đi nhưng với sự vẻ vang, vinh dự và qua đó, Quang Dũng cũng dành cho đồng đội mình một sự ngợi ca, tôn kính thiêng liêng. Đồng thời, nhà thơ cũng dùng cách nói giảm nói tránh để thay cho sự mất mát, hi sinh: "Anh về đất". Họ thanh thản nằm trong lòng đất mẹ, với tâm thế nhẹ nhõm, sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ với Tổ quốc, như Tố Hữu từng viết:

    Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng.

    Lòng khoẻ nhẹ anh dân quê vui sướng.

    Ngả mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành

    Họ nằm xuống, nhưng đó không phải là kết thúc, mà sương máu họ là ngọn đuốc soi đường cho thế hệ sau tiếp nối sứ mệnh bảo vệ tổ quốc. Họ là tấm gương đẹp nhất, anh dũng và cao cả nhất!

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

    Ở dây, ta lại một lần nữa bắt gặp hình ảnh sông Mã. Nếu như ở đầu tác phẩm, sông Mã xuất hiện như một chứng nhân lịch sử, một người bạn đồng hành với những người lính Tây Tiến thì ở đây, nó gầm lên như tiếng kèn của thiên nhiên, thứ âm thanh hùng tráng, đầy khí thế, nó hát vang khúc ca đưa tiễn người lính về nơi yên nghỉ cuối cùng. Và có thể thấy rằng, sự ra đi của những người lính TT đã để lại cho những người còn sống bao tiếc thương, nhung nhớ.

    Khép lại bài thơ là lời thề sắt son:

    Tây Tiến người đi không hẹn ước

    Đường lên thăm thẳm một chia phôi

    Ở, hai câu thơ đầu, Quang Dũng đã giúp những người lính nói lên tâm thế của những chàng trai lên đường. Họ ra đi là không hẹn ngày về, họ nhìn thẳng về chặng đường phía trước và biết rằng mình sẽ phải kiêu hãnh để sẵn sàng đọ sức với hiểm nguy, và chỉ có thế, người lính mới có thể không mỏi chí, sờn lòng. Thực ra, đằng sau cái dứt khoát, mạnh mẽ ấy lại chứa đựng nhiều cảm xúc, mà theo cách nói của Hoài Thanh, là "chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại Cách mạng" Trong Tống biệt hành của Thâm Tâm, người lính muốn những người thân yêu coi mình là một điều gì đó nhỏ nhoi, để có ra đi thì cũng đừng mãi buồn lòng, luyến tiếc:

    "Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

    Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

    Chị thà coi như là hạt bụi,

    Em thà coi như hơi rượu say."

    Hay như trong thơ Nguyễn Đình Thi:

    "Người ra đi đầu không ngoảnh lại

    Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy"

    Hai câu thơ cuối là lời khẳng định, rằng dù có rời xa về không gian, lùi xa về thời gian, nhưng những người lính Tây Tiến sẽ chẳng quên một thời hào hùng, bi tráng:

    Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

    Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

    "Mùa xuân ấy" muốn nói đến thời điểm thành lập đoàn binh Tây Tiến, đó là đầu năm 1947. Chỉ ba chữ thôi nhưng đã gợi ra một dấu mốc không thể nào quên, một kỉ niệm thân thương sẽ còn sống mãi trong tâm trí người đại đội trưởng Quang Dũng cũng như bao người đồng đội của ông. Câu thơ cuối vang lên như một lời khẳng định, rằng tâm hồn mình đã gửi lại nơi chặng đường hành quân. Đó là tiếng lòng của nhà thơ, chứ không đơn thuần chỉ là một lời nói, bởi lẽ, dù là ở Hòa Bình với trung đoàn 52 hay ở Phù Lưu Chanh, miền quê nằm bên bờ sông Đáy, thì Quang Dũng vẫn nhớ về Tây Tiến, và viết nên bài thơ bằng sự "xuất thần trên đầu ngọn bút". Dù là một bài thơ chỉ được làm vỏn vẹn trong vài mươi phút, nhưng nó đủ sức gợi, đủ sức ngân vang trong suốt vài mươi năm, hay thậm chí vài mươi thế kỉ. Những "nguyên liệu" góp vào sự vĩnh cửu của Tây Tiến không gì khác ngoài nỗi nhớ, tình cảm của đại đội trưởng dành cho đồng đội, quyện hòa với chất tài hoa, hào hoa cuộn chảy trong từng mạch đời Quang Dũng.

    Không chỉ đặc sắc về mặt nội dung mà Tây Tiến còn là bài thơ thành công ở phương diện nghệ thuật. Bao trùm lên bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng, kết hợp hài hòa với chất hiện thực, giúp Quang Dũng phát huy sức mạnh của trí tưởng tượng liên tưởng, đồng thời tạo nên một nét đẹp hiếm có cho thi phẩm. Không phải tự nhiên mà Tây Tiến được đánh giá là một bài thơ "được khí phách của cả một thời đại ùa vào chắp cánh", bởi nó không chỉ nói đến sự mất mát, hi sinh, hiện thực cuộc chiến tàn khốc mà còn có vẻ đẹp hùng tráng, đầy khí phách của cả một lớp người thời ấy. Hình ảnh thơ đặc sắc, đa dạng, những so sánh, liên tưởng đầy lí thú, sáng tạo, gắn với chất lính, với nét hào hoa lãng tử của những chàng trai Hà Thành. Từ ngữ trong bài thơ sinh động, cụ thể, mang đậm tính gợi hình, gợi cảm, có nhiều sự kết hợp độc đáo, thêm vào đó là sự đưa vào những từ Hán Việt gợi âm hưởng cổ kính, trang trọng. Giọng thơ thay đổi theo dòng cảm xúc, khi tha thiết bồi hồi với nỗi nhớ vời vợi, khi bừng lên với đêm hội núi rừng, khi lắng lại trong kỉ niệm bâng khuâng, khi trang nghiêm, bi hùng với hình ảnh những đồng đội một thời chiến đấu và hi sinh.

    Xuân Diệu đã từng nhận xét rằng, đọc Tây Tiến như "ngậm nhạc trong miệng". Bàn về nhạc tính trong thơ, nhiều người đã từng quan niệm rằng, "Nhạc điệu là một yếu tính của thi ca. Thiếu nhạc tính thơ trở thành văn xuôi". Bởi nhạc tính như một nét duyên thầm làm nên vẻ đẹp của thơ, cũng là một yếu tố tạo mỹ cảm cho người đọc. Đối với riêng Quang Dũng và bài thơ này, chất nhạc được tạo ra bởi những âm hưởng đặc biệt, nhịp điệu đa dạng, khi thì trúc trắc như thác núi, lúc thì thư thái, ngân nga trong lòng bạn đọc. Không chỉ vậy, Tây Tiến còn được xem như một bài thơ "thi trung hữu họa" đi đã vẽ nên bao hình ảnh, đường nét chân thực về cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc. Leonardo Da Vinci đã từng cho rằng: "Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm". Thật vậy, đối với Tây Tiến, người đọc đã thực sự đắm chìm trong những nét điêu khắc tài hoa của nhà thơ.

    Có thể nói, Quang Dũng, với tình yêu tha thiết dành cho đất nước và đồng đội mình, đã viết nên những vần thơ mang đậm hào khí của cả một lớp người thời đại, làm sống dậy vẻ đẹp của một trung đoàn, làm bừng lên sức sống cho địa dư sông núi Tây bắc thời chiến trận. Quang Dũng đã để lại cho đời thơ mình và cả kho tàng thi ca Việt một viên ngọc sáng, một kí ức trường tồn trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc, như nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã từng ngợi ca: "Không có Quang Dũng và bài thơ này, Tây Tiến chỉ là Tây Tiến đơn thuần của một sự kiện lịch sử quân sự. Có Quang Dũng và bài thơ mang tên này của ông, Tây Tiến trở thành lịch sử của tâm hồn, của văn hóa, của tinh thần giống nòi."

    Như vậy.. (Khẳng định lại vấn đề) Rất nhiều người đã từng cho rằng, để nói về "Tây Tiến" thì bao nhiêu cũng vẫn là chưa đủ, bởi đó không chỉ là một bài thơ tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của Quang Dũng mà còn là "phiên hiệu" bằng lời nổi tiếng cho cả một binh đoàn thời chiến trận. Với tất cả những giá trị đặc sắc mà Tây Tiến để lại trên thi đàn dân tộc, chắc chắn bài thơ sẽ còn ghi dấu bền lâu trong lòng nhiều thế hệ mai sau. Thay cho lời kết, xin được mượn những lời thơ của Giang Nam:

    "Tây Tiến biên cương mờ lửa khói

    Quân đi lớp lớp động cây rừng

    Và bài thơ ấy, con người ấy

    Vẫn sống muôn đời với núi sông"
     
    Mèo A Mao Huỳnh Mai thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...