Phân tích bài thơ Sóng - Xuân Quỳnh đầy đủ, sáng tạo nhất

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi estoulam, 2 Tháng mười 2021.

  1. estoulam

    Bài viết:
    64
    PHÂN TÍCH BÀI THƠ SÓNG - XUÂN QUỲNH: ĐẦY ĐỦ, SÁNG TẠO

    "Những trang sách đi suốt đời vẫn nhớ.

    Như những đám mây ngũ sắc ngủ trên đầu".

    Đó là những chiêm nghiệm của Bằng Việt về sức sống của văn chương nghệ thuật. Thật vậy, có những tác phẩm ra đời để rồi chìm khuất giữa ồn ào náo nhiệt của phiên chợ văn chương, nhưng cũng có những tác phẩm vẫn tồn tại bền bỉ tựa dòng suối mát lành chảy mãi trong tâm hồn bao thế hệ hôm qua, hôm nay và ngày mai. Đó là những khúc ca chất chứa tiếng lòng, in dậm tâm tư và dấu ấn nghệ thuật của tác giả. Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh chính là một bài thơ như thế. Tác phẩm đã cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu, đặc biệt là qua đoạn thơ..

    [​IMG]

    Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, thơ XQ là tiếng lòng của một hồn thơ dung dị, hồn nhiên, tươi tắn, nồng nhiệt và chân thành, vừa giàu cảm xúc lại không kém phần lắng đọng suy tư. Khi nhắc đến mảng đề tài tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh, sẽ là một thiếu sót lớn nếu bỏ qua "Sóng", một thi phẩm diễn tả đặc sắc tình yêu của một người phụ nữ thiết tha, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của kiếp người, qua những khám phá về sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và "em". Bài thơ được viết tháng 12 năm 1967, nhân chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền, Thái Bình, in trong tập "Hoa dọc chiến hào", xuất bản năm 1968. Đó cũng là thời điểm mà cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt. Sóng được xem là bài thơ thành công nhất, hội tụ nhiều nét tiêu biểu nhất cho phong cách thơ Xuân Quỳnh ở đề tài tình yêu.

    Thưởng thức Sóng, người đọc có thể dễ dàng nhận ra sóng là hình tượng bao trùm lên bài thơ, cùng với em là hai hình tượng song hành xuyên suốt. Nếu như em là cái tôi trữ tình của một người phụ nữ trong tình yêu thì sóng chính là ẩn dụ, là sự hóa thân cho cái tôi ấy. "Sóng", cùng với "em", có lúc phân đôi tách biệt để soi chiếu vào nhau, lại có lúc hòa nhập ở mức sâu sắc để tạo ra sự ngân nga, âm vang, cộng hưởng. Dường như, cứ một khám phá về sóng, ta lại chiêm nghiệm thêm một nét đẹp về "em" và tình yêu nồng nàn, say đắm của cái tôi trữ tình. Sóng không chỉ chi phối kết cấu bài thơ, mà còn là nguồn cảm hứng tuôn trào bất tận, khơi gợi cảm xúc, để rồi qua đó, Xuân Quỳnh đã có những vần thơ đẹp về tâm trạng của người phụ nữ đang hướng về một tình yêu vẹn tròn, tha thiết.

    Trước hết, hình tượng sóng được khắc họa trong hai khổ thơ đầu tiên đã làm rõ quy luật và bản chất của tình yêu.

    "Dữ dội và dịu êm

    Ồn ào và lặng lẽ"

    Sóng luôn tồn tại trong lòng biển với những tính chất đối cực, khi cuộn trào dữ dội, khi lặng lẽ, dịu êm. Những trạng thái tâm lí phong phú, đa dạng đó cũng chính là âm điệu thất thường, phức tạp trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu:

    "Có những khi vô cớ

    Biển ào ạt xô thuyền

    Vì tình yêu muôn thuở

    Có bao giờ đứng yên?"

    (Xuân Quỳnh, Thuyền và biển)

    Lại có những lúc, "em" giống như sóng, sau bao cơn cuộn trào, vồ vập lại trở về là con sóng miên man đêm ngày dạt vào bờ cát. Có thể thấy, bên trong vẻ bình lặng lại là những sức mạnh ẩn tàng, những khát khao mạnh mẽ. Cũng như cái sôi sục, dữ dội lại chứa đựng một trái tim đằm thắm, và khao khát được chở che. Tưởng chừng như đối lập là thế, nhưng trong tâm hồn ấy luôn có một tình cảm thống nhất, đó là hướng về chốn lặng lẽ, bình yên.

    Cái hay của Xuân Quỳnh là cách dùng từ 'và' để liên kết những tính chất đối cực, từ đó làm nổi bật sự song hành, bổ trợ, luôn luôn tồn tại cùng nhau, thay vì "nhưng" để thể hiện tính tương phản như chúng ta vẫn thường thấy. Đồng thời, sự đặc sắc còn nằm trong thứ tự xuất hiện của các tính từ, dữ dội, điều mà ta không thể đổi khác đi được. Đó là biểu hiện cho nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ, luôn tìm về bến đỗ bình yên, hạnh phúc. Bởi đằng sau sự chủ động đầy mạnh mẽ, quyết liệt, thì trái tim người phụ nữ lại mỏng manh, yếu đuối, dễ bị tổn thương, và ẩn sâu trong đó vẫn là một vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng. Từ hai câu thơ đầu, chúng ta hiểu được rằng, sóng chứa đựng những trạng thái đối lập mà thống nhất, tình yêu cũng như thế, cũng mang nhiều gương mặt, dáng vẻ muôn hình vạn trạng. Đó phải chăng là điều làm nên sự huyền diệu, muôn màu của tình yêu, khiến đôi lứa phải đắm chìm vào đó mà khám phá.

    Hai câu thơ sau đã diễn tả hành trình tìm tới biển khơi như hành trình của tình yêu hướng về cái vô biên, tuyệt đích, như tâm hồn người phụ nữ không chịu chấp nhận sự chật hẹp, tù túng.

    "Sông không hiểu nổi mình

    Sóng tìm ra tận bể"

    Ở đây ta thấy xuất hiện hai phạm trù không gian và đồng thời là những hình ảnh ẩn dụ: Sông và bể. Bể chính là thế giới rộng lớn, khoáng đạt, là khát vọng lớn lao, chân trời mơ ước của biết trăm ngàn con sóng, trong khi sông thì nhỏ hơn, không đủ để những con sóng thỏa sức vỗ đập, vươn mình. Sóng luôn muốn tìm đến không gian rộng lớn, mênh mông, để sống đúng với bản ngã vốn có của mình, bởi nó không bằng lòng với lòng sông chật hẹp, gò bó. Cũng giống như người phụ nữ trong tình yêu, không muốn sống với một tình yêu nhỏ hẹp, tù túng, nơi chỉ có những ghen tuông, ích kỉ, nơi em không tìm thấy sự đồng điệu và sẻ chia, thấu hiểu giữa hai tâm hồn, thì em sẵn sàng từ bỏ để tìm đến một nơi khác. Sóng, sẽ không còn là sóng nếu bị gò bó trong lòng sông chật hẹp. Tình yêu sẽ không là tình yêu nữa nếu nó bị ràng buộc bởi những điều tầm thường, nhỏ nhen. Chính vì thế, người phụ nữ khi yêu luôn khát khao được sống là chính mình, với những giá trị nhân văn đích thực của tình yêu, không giống như quan niệm về người phụ nữ truyền thống trong ca dao xưa:

    "Thân em như hạc đầu đình

    Muốn bay không cất nổi mình mà bay"

    Hoặc ngay cả với người con gái ở thời đại Xuân Quỳnh, họ vẫn thường chọn cách thầm lặng mà chẳng mấy khi chủ động ngỏ lời, như trong bài thơ nổi tiếng "Hương Thầm" của Phan Thị Thanh Nhàn:

    "Cô gái như chùm hoa lặng lẽ

    Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu"

    Còn người phụ nữ trong thơ XQ thì luôn muốn vươn mình đến chân trờ khoáng đạt của tình yêu. Từ "tận" mang sắc thái biểu trưng cho xa xôi, khó khăn. Soi chiếu đối sánh với sóng ta thấy được hành trình đầy gian nan, trắc trở của người phụ nữ khi kiếm tìm tình yêu đích thực của cuộc đời mình. Thế nhưng câu thơ mang sắc thái mạnh mẽ thể hiện được sự kì công, quyết liệt của người phụ nữ trong tình yêu. Khát khao vượt qua giới hạn đó, chính là sự biểu đạt chân thực nhất cho một cái tôi trữ tình chủ động, tự tin và đầy táo bạo. Có thể nói, hành trình của sóng từ sông ra bể lớn cũng chính là hành trình khám phá chính mình, hành trình của tình yêu, luôn hướng đến cái vô biên, tuyệt bích, với một tâm hồn mạnh mẽ và dám khát khao vì hạnh phúc của mình. Để rồi Xuân Quỳnh đã thành thực tỏ bày như thế, đã cho chúng ta thấy một quan niệm rằng, tình yêu không đến với những trái tim ngủ yên, và đến với tình yêu không chỉ là sự kiếm tìm người mình yêu, mà còn là sự kiếm tìm những giá trị đích thực của đời mình.

    Mượn quy luật muôn đời của sóng, tác giả khẳng định khát vọng tình yêu luôn thường trực trong trái tim tuổi trẻ.

    "Ôi con sóng ngày xưa

    Và ngày sau vẫn thế"

    Thán từ "ôi" xuất hiện như muốn diễn tả cảm xúc xuýt xoa ngỡ ngàng khi nhận ra một điều gì kì diệu. Trong câu thơ có sự xuất hiện của cặp từ hô ứng: Ngày xưa và ngày sau. Ngày xưa chỉ chiều sâu của quá khứ; Ngày sau lại biểu trưng cho tương lại cho ý niệm vĩnh cửu mãi mãi. Nối ngày xưa với ngày nay, quá khứ với hiện tại và tương lại tác giả muốn nói đến vấn đề muôn thuở, dài rộng của thời gian. Thời gian cứ chảy trôi không ngừng còn con sóng lại vẫn thế, vẫn vỗ đập, cuộn trào. Biển cả giờ đây trở thành biểu tượng cho sự trường tồn bất biến. Dù thời gian cứ tuân hoàn đổi thay nhưng những khát vọng tình yêu thì chẳng bao giờ thay đổi. Con người của trước và nay, của quá khứ hiện tại hay tương lai vẫn thủy chung, sắt son, kiên định với khát khao hạnh phúc chân thành:

    "Nỗi khát vọng tình yêu

    Bồi hồi trong ngực trẻ"

    Từ láy "Bồi hồi" khéo léo được đặt đầu dòng thơ nhấn mạnh cảm giác rung động, xao xuyến rạo rực trong tình yêu. Yêu và được yêu là quãng thời gian đẹp nhất của cuộc đời mỗi người. Nếu biển cả giống như lồng ngực của trời đất, với nhịp đập là những con sóng vỗ không bao giờ ngưng nghỉ thì trong lồng ngực của tuổi trẻ thì lại là trái tim biết cồn cào, thổn thức vì khát vọng tình yêu. Tuổi trẻ làm nên nguồn nhựa sống của tình yêu, còn tình yêu thì dệt nên những hương sắc khó phải cho tuổi trẻ. Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã mượn quy luật tự nhiên để diễn tả một triết lí dung dị nhưng thấm thía về tình yêu: Còn trẻ là còn khát vọng tình yêu, hay khát vọng tình yêu là thứ làm cho con người ta luôn trẻ trung, tràn đầy sức sống. Khẳng định sự vĩnh hằng của sóng theo dòng chảy thời gian chính là khẳng định sự bất biến của tình yêu trong cuộc đời con người, đặc biệt là tuổi trẻ. Cũng giống như ông hoàng thơ tình Xuân Diệu luôn coi tình yêu là nguồn sống, luôn tôn thờ tình yêu như một nguồn thi hứng và cũng là chân lí bất diệt của cuộc đời:

    Làm sao sống được mà không yêu

    Không nhớ, không thương một kẻ nào?

    Hình tượng sóng trong bài thơ cũng giúp cho cái tôi trữ tình nói lên những băn khoăn, trăn trở về cội nguồn của tình yêu. Sóng giờ đây không chỉ là đối tượng nhận thức mà còn là nơi để gửi gắm những suy tư về tình yêu:

    "Trước muôn trùng sóng bể

    Em nghĩ về anh, em

    Em nghĩ về biển lớn

    Từ nơi nào sóng lên?"

    Con người khi đứng trước thiên nhiên bao la, trời đất rộng lớn, trước cái vô cùng vô tận của vũ trụ thì thường có xu hướng đào sâu cái tôi nội cảm để khám phá chính mình. Đặc biệt, với một tâm hồn nhạy cảm tinh tế của một trái tim yêu trước biển lớn, thì không khỏi trào lên những nghĩ suy, trăn trở. Trước những con sóng vỗ đập, lòng người cũng vì thế mà cuộn trào. Những câu hỏi mà nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đặt ra trong khổ thơ giống như cuộc đối thoại với vũ trụ rộng lớn.

    Điệp từ "em nghĩ", đã thể hiện sâu sắc những suy tư, trăn trở về nguồn gốc của tình yêu. Đặc biệt, nếu để ý ta sẽ thấy, dấu phẩy ngăn cách ở câu thơ thứ hai chính là một cách làm "điệu thơ" rất có duyên của Xuân Quỳnh. Nó khiến câu thơ vốn đơn thuần mang tính chất tự sự, bỗng dưng được thổi hồn để mang chút ngập ngừng, âu lo. Đó vốn là nét đặc trưng của hồn thơ Xuân Quỳnh - một hồn thơ đầy ưu tư và giàu trực cảm. Câu thơ đã đặt cả người được nhớ và người đang nhớ vào trong một mạch chảy, khiến cho cảm xúc thơ càng rạo rực, càng cho thấy tấm lòng của nhân vật trữ tình trong tình yêu.

    Lý giải nguồn gốc bí ẩn của sóng, nhà thơ tự bâng khuâng về điểm khởi đầu đầy bí ẩn và sự nhiệm màu, khó nắm bắt của tình yêu. Ta bắt gặp một ngòi bút tinh tế khi Xuân Quỳnh đã đi từ thiên nhiên rộng lớn đầy những bí ẩn để gắn kết nó với nỗi niềm khắc khoải trong lòng người:

    Sóng bắt đầu từ gió

    Gió bắt đầu từ đâu?

    Em cũng không biết nữa

    Khi nào ta yêu nhau "

    Ở đây, ta thấy một nhịp thơ hối hả, dồn dập như một sự hối thúc để mau chóng có được câu trả lời. Đi tìm cội nguồn của sóng thì em có thể nói được dễ dàng:" Sóng bắt đầu từ gió "Nhưng khi tìm đến tận cùng nguồn gốc, đan lồng với câu hỏi" khi nào ta yêu nhau ", thì lí trí vận động" em nghĩ "rồi lại thốt lên đầy bất lực" không biết nữa ", đó là lời thú nhận thành thật và đáng yêu của người phụ nữ. Điều mà nhà thơ muốn bộc bạch ở đây là sự thể hiện tự nhiên tựa như một lời giãi bày về mặt tình cảm hơn là sự phân tích lý tính rạch ròi. Sóng là một hiện tượng tự nhiên, mà thiên nhiên thì bao la, bí ẩn, cũng giống như tình yêu, một khái niệm vốn phức tạp, khiến con người ta không thể biết, cũng không thể nắm trọn. Cái lắc đầu rất nữ tính ấy hóa ra là ẩn dấu sau nó còn là sự thấu hiểu sâu sắc và nhận thức được rõ ràng tình yêu, tự nó là một cuốn từ điển riêng, là một chân trời mới lạ mà ở đó người ta chỉ có thể cảm nhận, không thể cắt nghĩa hay lí giải. Chính cái bối rối, ngập ngừng ấy mới là biểu hiện của một trái tim yêu hồn nhiên, chân thành.

    Qua việc tìm đến cội nguồn của sóng, của tình yêu, Xuân Quỳnh đã khái quát nên một điều sâu kín: Tình yêu là một địa hạt chứa đựng những triết lí của riêng nó, nó là câu chuyện của trái tim và đòi hỏi sự cảm nhận, lắng nghe, nó nằm ngoài sự xét đoán của lý trí. Từ cổ chí kim, bao nhiêu con người, bao nhiêu nhà thơ, triết gia đã tốn nhiều giấy mực để giải mã về tình yêu nhưng rồi vẫn chưa ai có thể tìm được câu trả lời. Như Lép Tôn xtôi từng nói: Có bao nhiêu cái đầu thì có bấy nhiêu cách nghĩ, có bao nhiêu trái tim thì có ngần ấy cách yêu. Dẫu chưa thể giải mã là vậy, nhưng có lẽ, chính cái bí ẩn lý thú đó lại là thứ làm cho tình yêu trở nên hấp dẫn và lôi cuốn con người, bởi nếu như tình cảm và cảm xúc có thể mang ra cân đo đong đếm và cắt nghĩa, nếu như có thể nói chính xác" khi nào ta yêu nhau ", con người đã chẳng còn hứng thú bởi những điều mới mẻ, kì diệu mà tình yêu mang lại. Đến đây, ta chợt nhớ đến Xuân Diệu, một hồn thơ đắm say nồng nhiệt, nhìn đời bằng con mắt xanh non biếc rờn, đã có cho mình một cách lí giải riêng đầy thi vị:

    Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!

    Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều.

    Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,

    Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu

    Nếu như ở khổ thơ trước, khi đi tìm cội nguồn của tình yêu, XQ không có được một câu trả lời rạch ròi thì đến đây, nữ thi sĩ lại thấy được một tín hiệu cơ bản của tình yêu, đó chính là nỗi nhớ. Một tình yêu chân thành làm sao thiếu đi nỗi nhớ, ca dao xưa có câu:

    Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,

    Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.

    Nhớ ai cơm chẳng buồn ăn,

    Đã bưng lấy bát lại dằn xuống mâm.

    Hay như thi ca hiện đại cũng có những vần thơ mộc mạc Nguyễn Bính:

    " Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

    Một người chín nhớ mười mong một người. "

    Còn với Xuân Quỳnh, chị cũng có cho mình sự diễn tả riêng, thông qua hình tượng những con sóng:

    Con sóng dưới lòng sâu,

    Con sóng trên mặt nước,

    Ôi con sóng nhớ bờ,

    Ngày đêm không ngủ được,

    Hai dòng thơ đầu với hình thức lặp cấu trúc câu quyện hòa cùng nghệ thuật đối" dưới lòng sâu "–" trên mặt nước "tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau. Điệp ngữ" con sóng "rồi lại" con sóng "làm nhịp thơ trở nên hối hả, gấp gáp. Sóng biển như đang dồn dập, trào dâng, miên man vỗ bờ. Dưới lòng sâu nói đến sóng ngầm, tưởng chừng im lặng nhưng vẫn cồn cào trong lòng biển, và 'trên mặt nước' chỉ sự lan tỏa, chiếm lĩnh tầng không gian. Từ" ôi "vang lên như tiếng thốt ngỡ ngàng khi bắt gặp sự tương đồng kỳ diệu giữa một bên là hiện tượng tự nhiên kỳ thú và một bên là trái tim người phụ nữ đang rạo rực yêu thương, nhung nhớ. Đúng vậy, sóng nhớ bờ, miên man vỗ đập, hướng vào bờ bất kể ngày đêm như một quy luật vĩnh hằng tự nhiên, thì em cũng nhớ anh như một lẽ tất yếu. Cùng với phép nhân hóa 'sóng nhớ bờ..', từ đây, nỗi nhớ lên choán lên khắp chiều rộng chiều sâu của đại dương, nơi những con sóng mãi thao thức, qua đó bộc lộ chiều sâu, chiều rộng của nỗi nhớ, da diết và khắc khoải.

    Lòng em nhớ đến anh,

    Cả trong mơ còn thức.

    Nếu như sóng nhớ bờ cả ngày đêm, bất kể không gian, thời gian, trong giới hạn của cõi thực, thì nỗi nhớ anh của em còn tràn cả vào giấc mơ và chiều sâu của tiềm thức." Cả trong mơ còn thức "mới nghe qua thì có vẻ vô lí, nhưng nếu ngẫm lại, ta sẽ nhận ra đó là giấc ngủ chập chờn không yên của những con tim rộn ràng thao thức vì tình yêu:

    Đèn thương nhớ ai,

    Mà đèn không tắt.

    Mắt thương nhớ ai,

    Mắt ngủ không yên.

    Đó mới là nỗi nhớ đích thực của lòng người, lắng đọng nhất, da diết và sâu kín nhất. Nếu nỗi nhớ là thước đo của tình yêu thì nỗi nhớ càng nhiều, tình yêu càng sâu đậm, nghĩa là tình cảm em dành cho anh đã dạt dào mãnh liệt vô bờ, khiến em không thể chấp nhận ẩn mình trong sóng mà phải phá vỡ vỏ bọc đó để trực tiếp bộc lộ, để tình yêu trong em cất thành lời. Người phụ nữ trong thơ XQ đã vượt lên khỏi cái e ngại thông thường của người con gái để nói ra trực tiếp, như thể mượn sóng để nói thì vẫn chưa thể diễn tả thật đủ đầy. Đọc đến đây, ta cứ ngỡ nỗi nhớ" anh "không chỉ là một tâm trạng, mà là sức sống của con tim" em ", trong từng nhịp đập vẫn luôn hướng về tình yêu đời mình.

    Đây là khổ thơ duy nhất có 6 câu, tăng thêm dung lượng ngôn từ để diễn đạt trọn vẹn hơn nỗi nhớ. Bởi hình như, nỗi nhớ không thể nào gói lại trong khuôn khổ chật chội của bốn câu thơ bình thường. Điều này cho thấy một nỗi nhớ tràn bờ, phá vỡ mọi giới hạn câu chữ, cũng giống như con sóng nhớ thương dào dạt bồi mãi, điệp mãi, dềnh lên mãi, vỗ tràn cả thi ca. Và ở khổ thơ này, hình ảnh sóng được điệp lại ba lần, giống như nhịp sóng vô hồi vô hạn, giống như nhịp nhớ trào dâng vô bến vô bờ.

    Khổ thơ thứ sáu là tiếng lòng thể hiện sự thủy chung của người phụ nữ trong tình yêu.

    Dẫu xuôi về phương bắc

    Dẫu ngược về phương nam

    Bản thân hai từ Bắc Nam Xuất hiện trong câu thơ đã gợi nên sự xa xôi cách trở, như chính XQ đã từng viết trong bài thơ Sân ga chiều em đi:

    " Vừa thoáng tiếng còi tàu

    Lòng đã Nam đã Bắc "

    Hai câu đầu với cặp từ" dẫu "và cặp từ ngược hướng:" Xuôi "," ngược "kết hợp phép điệp cấu trúc đã tạo nên một điều kiện thử thách – thử thách lòng dũng cảm, thử thách sự thủy chung. Cách nói xuôi Bắc ngược Nam trái với lẽ thường đã thể hiện những trắc trở, éo le trong cuộc đời và trong hành trình tìm kiếm tình yêu đích thực. Thế nhưng đó chính là điều làm cho sự thủy chung của em càng thêm nổi bật, đáng trân trọng:

    Nơi nào em cũng nghĩ

    Hướng về anh - một phương

    Hai chữ" nơi nào "gợi lên không gian vô cùng. Nỗi nhớ, tình yêu em dành cho anh hiện diện ở mọi không gian, mọi lúc, mọi nơi." Nghĩ "là trạng thái lý trí gợi sự day dứt, ám ảnh thường trực, không chỉ là nhớ mà còn là âu lo, lo lắng, khắc khoải vì người mình yêu. Và dường như đứng trước tình yêu, thì mọi khái niệm Nam Bắc, mọi thách thức, cách trở đã bị xóa nhòa. Đối với em giờ đây, chỉ có phương có anh và phương không anh mà thôi. Hai câu thơ đã làm sáng lên tấm lòng toàn tâm toàn ý của em hướng về anh, bởi dường như chỉ có ở bên anh thì mới có ấm áp, có sự chở che và đồng cảm, còn phương không có anh thì u ám và lạnh lẽo. Đó là sự khẳng định sự trường tồn bất biến của tình yêu trong cuộc đời mỗi con người và cũng là phẩm chất thủy chung truyền thống của người phụ nữ Việt Nam:

    " Yêu nhau mấy núi cũng chèo

    Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua "

    Khổ thơ thứ bảy bộc lộ niềm tin vào sóng sẽ trở về với biển dù gặp muôn trùng khó khăn, trắc trở cũng như niềm tin vào tình yêu đích thực. Khổ thơ giống như một sự kiểm chứng cho sự thủy chung khi soi vào sóng để tìm ra sự tương đồng với lòng em.

    Ở ngoài kia đại dương

    Trăm ngàn con sóng đó

    Hai chữ" đại dương "gợi lên sự vô cùng vô tận của biển cả mênh mông, của vũ trụ bao la. Cách nói" trăm ngàn "là ước lượng hóa, thực chất là gợi lại quy luật của tự nhiên: Sóng dù" dưới lòng sâu "hay" trên mặt nước "; là" dữ dội, ồn ào "hay" dịu êm, lặng lẽ ", dù ngày hay đêm thì vẫn là những con sóng miên man, dạt dào với cuộc hành trình tìm về bến bờ quen thuộc.

    Con nào chẳng tới bờ

    Dù muôn vời cách trở

    Nếu như sóng hướng vào bờ, nhất định cập bờ, thì em hướng về anh, cũng nhất định sẽ tìm được tình yêu đích thực. Cấu trúc đảo và thủ pháp đối lập 'con nào..'đã nhấn mạnh niềm tin ấy, như một lời dặn lòng mình không từ bỏ đích đến tình yêu, bất chấp gian nan thử thách. Chúng ta có thể thay đổi trật tự các câu thơ trong khổ thơ này, đặc biệt là hai câu thơ cuối có thể đảo vị trí cho nhau:" Dù muôn vời cách trở – con nào chẳng tới bờ "; nhưng không làm mất đi kết cấu và nội dung khổ thơ – cũng có nghĩa là niềm tin không bao giờ mất đi. Khi đó, tình yêu vững bền sau muôn vàn cay đắng lại càng đẹp, càng đáng trân trọng. Hành trình tìm kiếm tình yêu của người phụ nữ trong cuộc đời, dẫu nhiều đắng cay trắc trở, thi vẫn còn đó niềm tin bền bỉ, mãnh liệt vào tình yêu chân chính. Có lẽ vì thế mà trong cuộc đời vốn đã trải qua nhiều chông gai, đổ vỡ, Xuân Quỳnh vẫn chọn cách níu lấy niềm tin để đứng dậy, chọn sự tin yêu để vá lại những thương tổn trong trái tim, để tiếp tục" Tự hát "với đời:

    Em trở về đúng nghĩa trái tim em

    Là máu thịt đời thường ai chẳng có

    Dẫu ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa

    Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi

    Niềm tin vào tình yêu chính là sức mạnh, là động lực để con người vượt qua những nắng nôi, giông bão của cuộc đời. Trong bài" Thơ tình cuối mùa thu ", Xuân Quỳnh cũng từng hát lên những ca từ lạc quan tin yêu như thế:

    Tình ta như hàng cây

    Đã qua mùa bão gió

    Tình ta như dòng sông

    Đã yên ngày thác lũ

    Và cuối cùng, hình tượng sóng trở thành biểu trưng cho khát vọng tình yêu vĩnh cửu. Nhà phê bình Chu Văn Sơn khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đã có nhận định tinh tế:" Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình.. ". Quả thật như thế, mới ở khổ thơ trước chị viết với tất cả niềm tin yêu vô bến bờ nhưng ở khổ thơ này lại đầy ắp những âu lo, dự cảm. Thế giới của thời gian và không gian được Xuân Quỳnh đặt cạnh nhau trong sự tương phản và đối lập giữa cái hữu hạn là kiếp người với cái vô hạn là thời gian và biển lớn:

    " Cuộc đời tuy dài thế

    Năm tháng vẫn đi qua

    Như biển kia dẫu rộng

    Mây vẫn bay về xa

    "Cuộc đời" và "năm tháng", "biển rộng" và "mây trời" và kiểu câu điều kiện "tuy –vẫn; dẫu – vẫn" kết hợp các tính từ "dài – rộng – xa" tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn tận của thời gian, nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh. Cuộc đời thì dài nhưng năm tháng vẫn cứ thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây bay về cuối chân trời; thời gian vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người lại hữu hạn. Cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù vân. Đó là trái tim đa cảm của người phụ nữ, như cách mà Xuân Quỳnh đã từng trải lòng trong bài thơ "Tự hát" :

    Em âu lo trước xa tắp đường tình

    Trái tim đập những điều không thể nói

    [​IMG]

    Tình yêu có sức mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi "lời yêu mỏng mảnh như màu khói – ai biết lòng anh có đổi thay". Và cả chính hình ảnh "mây vẫn bay về xa" kia trong câu thơ cuối cũng đầy những ám ảnh. Phải chăng vì biết trước không có gì vĩnh viễn nên anh cũng như đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em có rộng như biển, có dài như sông cũng không thể nào níu giữ được anh. Chính sự nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người; giữa đổ vỡ và tin yêu đã làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn giữa cuộc đời.

    "Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn

    Hôm nay yêu mai có thể xa rồi"

    (Xuân Quỳnh)

    Đây cũng là cảm giác quen thuộc trong thơ và trong trái tim của những người luôn khát khao, trăn trở về sự vĩnh hằng. Nhà thơ Béc nơ người Đức đã từng cảm nhận:

    "Chúng ta thay đổi thời gian, thời gian thay đổi chúng ta

    Có tình yêu nào lại xanh quanh năm được nhỉ

    Cũng có lúc héo tàn bởi mặt trời nóng ran như lửa

    Có ai lại mãi là mình như thuở xa xưa"

    Xuân Diệu cũng đã từng rất sợ thời gian nên cứ thế mà sống cuống quýt, "vội vàng", "giục giã" : "Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn" nên với Xuân Diệu – sống là phải hưởng thụ, chiếm lĩnh để không hoài, không phí những tháng năm của tuổi trẻ. Còn với Xuân Quỳnh, những âu lo, dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt – khát vọng được bất tử hóa tình yêu:

    Làm sao được tan ra

    Thành trăm con sóng nhỏ

    Hai chữ "làm sao" như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi, khát khao mãnh liệt của người phụ nữ. Hai chữ "tan ra" gợi ra nhiều cách hiểu. "Tan ra" không phải là mất đi, không phải là để vào cõi hư vô mà "tan ra" là hi sinh, là dâng hiến, là khao khát được hóa thân cái tôi cá thể vào "trăm con sóng nhỏ", hòa mình vào "biển lớn tình yêu" để vĩnh hằng hóa, bất tử hóa tình yêu; cũng là một cách để vượt qua giới hạn mong manh của cõi người. Trong phút giây giao hòa của cảm xúc thì "tan ra" hay "tan vào nhau" đều là biểu hiện của sự hòa nhập trọn vẹn, thăng hoa. Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ như lời kết cho một quan niệm tình yêu hoàn mỹ:

    "Giữa biển lớn tình yêu

    Để ngàn năm còn vỗ"

    Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt "biển lớn" – không gian vô tận bên cạnh "ngàn năm" thời gian vô cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận. Đúng là khi hòa vào biển lớn tình yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử với thời gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như cũng tan biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và "còn vỗ" là còn yêu, còn vỗ bờ là còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh "cả khi chết đi rồi" (Xuân Quỳnh). Vậy là, giữa mênh mông sóng biển, ta vẫn thấy một con sóng của Xuân Quỳnh, con sóng biết hi sinh, biết dâng hiến hết mình cho tình yêu, dù trải qua bao nhiêu đổ vỡ nhưng vẫn vượt qua được sự chật chội nhỏ nhen để đến với tình yêu bao la rộng lớn, từ bỏ một cái tôi nhỏ bé để đến với một cái ta rộng lượng, bao dung. Đời người là hữu hạn, con người rồi cũng phải ra đi, nhưng tình yêu sẽ mãi mãi còn ở lại như con sóng ngoài biển khơi. Đó là sự biểu trưng đẹp đẽ nhất cho trái tim vị tha của người phụ nữ trong tình yêu.

    Bàn về sự dâng hiến và hi sinh trong tình yêu, có lẽ chúng ta cũng nên rộng mở "chân trời nghệ thuật" của bài thơ. Đặt vào hoàn cảnh những năm 1967 - 1968 khi bài thơ ra đời, cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt, hàng loạt những con người ào ào xung trận vì nghĩa lớn:

    "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

    Mà lòng phơi phới dậy tương lai"

    (Tố Hữu)

    Để rồi khi ấy những sân ga, giếng nước, con tàu diễn ra bao "cuộc chia ly màu đỏ" – khi cả nước hướng về miền Nam ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia cũng phải gác lại cho tình yêu lớn lao hơn – tình yêu Tổ Quốc. Bởi vậy những chàng trai cô gái "xa nhau không hề rơi nước mắt – nước mắt dành cho ngày gặp mặt" (Nam Hà). Bởi "khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau". Suy cho cùng, đó cũng là dâng hiến và hi sinh, hi sinh tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hòa vào biển lớn tình yêu của đất nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm nguyện góp những "mùa xuân nho nhỏ" để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hóa thân thành trăm con sóng nhỏ cũng là hóa thân cho đất nước khi "Tổ Quốc gọi tên mình". Có thể thấy, tiếng thơ của Xuân Quỳnh hòa chung với tiếng nói tâm tư của biết bao nhiêu con người thời bấy giờ. Đây chính là điều khiến cho bài thơ mang đậm tính nhân văn hơn bao giờ hết. Và, bên cạnh những vần thơ cổ vũ chiến đấu, XQ viết về tình yêu, về khát vọng không phải cho riêng mình mà hòa vào tình yêu lớn của đất nước. Vì thế, bài thơ không những không lạc lõng mà còn trở thành một nhành hoa đẹp dọc chiến hào lửa đạn, một nét tươi xanh bên những vần thơ lửa cháy.

    Hình tượng sóng xuyên suốt bài thơ được xây dựng vừa là một hình ảnh thực - con sóng vỗ đập ngoài đại dương, cũng là hình ảnh tượng trưng cho nỗi khát khao hạnh phúc, khát vọng tình yêu của người phụ nữ. Thể thơ năm chữ tạo âm điệu sâu lắng, dạt dào, như âm điệu của những con sóng biển và cũng là sóng lòng của người phụ nữ khi yêu. Bàn về âm điệu, tiết tấu trong thơ, nhiều người đã từng quan niệm rằng, "Nhạc điệu là một yếu tính của thi ca. Thiếu nhạc tính thơ trở thành văn xuôi". Bởi nhạc tính như một nét duyên thầm làm nên vẻ đẹp của thơ, cũng là một yếu tố tạo mỹ cảm cho người đọc. Đối với riêng XQ và bài thơ này, những con sóng vỗ đập ngoài biển khới cùng bao cơn "sóng lòng" với nhiều cung bậc ngân nga đã làm nên những giai điệu đắm say của một trái tim yêu tha thiết, vang vọng trong lòng người đọc. Cách ngắt nhịp linh hoạt, phóng khoáng và cách gieo vần, phối âm độc đáo, giàu sức liên tưởng. Giọng thơ vừa thiết tha, đằm thắm, vừa mãnh liệt sôi nổi, vừa hồn nhiên, nữ tính, cùng với các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, đối lập - tương phản, đem đến cho người đọc cảm xúc bồi hồi và đắm chìm trong những chiêm nghiệm sâu sắc về tình yêu.

    Hình tượng sóng chứa đựng nhiều ý nghĩa, khi sóng là hình tượng xuyên suốt, được đặt làm tiêu đề, thể hiện nội dung chứa đựng bài thơ, đó là những cung bậc rạo rực, mãnh liệt của con tim biết yêu, biết khát vọng. Sóng còn làm nên vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu, thủy chung, dịu dàng, đầy nét truyền thống nhưng cũng hiện đại trong cách biểu đạt táo bạo và tự tin. Qua đó, ta thấy được quan niệm giàu nét nhân văn, rằng tình yêu đích thực phải là tình yêu sâu sắc, cháy bỏng, vẹn tròn, gắn liền với khát vọng về cuộc sống hạnh phúc. Từ đây, tiếng thơ Xuân Quỳnh bắt rễ vào quan niệm cổ truyền của cha ông về tình yêu lứa đôi, khi người phụ nữ trong tình yêu không chỉ dâng hiến hết mình, dám vượt lên mọi định kiến mà còn giữ được cái đẹp đạo lí nhân văn. Đó là vẻ đẹp của người phụ nữ trong thơ XQ nói riêng và người phụ nữ nói chung.

    "Nghệ thuật nằm ngoài sự băng hoại của thời gian, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết" (Sedrin) Thời gian trôi qua, những gì vô nghĩa sẽ bị sàng lọc, trôi vào lãng quên, nhưng những giá trị đích thực sẽ còn sống mãi, qua thời gian sẽ càng chứng minh được sức sống và giá trị của mình. Thật vậy, mang đến những suy tư, chiêm nghiệm về cội nguồn và những cung bậc phong phú trong tình yêu, bài thơ cũng sẽ mãi mãi ngân vang trong trái tim bạn đọc như một khúc nhạc lòng sôi nổi, trào dâng. Có lẽ vì thế mà qua nửa thế kỉ từ lúc được viết nên, qua sự đổi thay của hoàn cảnh lịch sử, xã hội và tâm lí con người, "Sóng" vẫn luôn chứng minh sức sống lâu bền và mạnh mẽ.
     
    THG Nguyen, Thùy MinhDiệp Minh Châu thích bài này.
    Last edited by a moderator: 20 Tháng mười 2022
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...