Phân tích bài thơ 'Hầu Trời' của Tản đà

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi kevodanh1, 27 Tháng một 2021.

  1. kevodanh1

    Bài viết:
    119
    Văn mẫu: Phân tích bài thơ 'Hầu Trời' của Tản Đà.

    Tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, Hán học đã tàn và Tây học cũng mới bắt đầu nên con người ông kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn "người của hai thế kỉ" (Hoài Thanh). Vào những năm 20 của thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn, một số tác phẩm tiêu biểu của ông là: "Thơ Tản Đà" (1925) ; "Giấc mộng lớn" (tự truyện – 1928) ; "Còn chơi" (thơ và văn xuôi – 1921).. Thơ Tản Đà thể hiện "cái tôi" lãng mạn, bay bổng vừa phóng khoáng lại vừa cảm thương, chính vì vậy ông đã được nhà phê bình văn học Hoài Thanh xếp ở vị trí đầu tiên trong cuốn "Thi nhân Việt Nam". Một bài thơ thể hiện khá rõ nét phong cách này của Tản Đà là bài "Hầu trời. Bài thơ được in trong tập" Còn chơi ", xuất bản năm 1921, thể hiện rõ nhất" cái tôi "cá nhân ngông nghênh, phóng túng và khao khát được khẳng định giá trị bản thân trước cuộc đời của Tản Đà.

    Bài thơ" Hầu trời "gây ấn tượng sâu sắc với người đọc bằng cách vào đề, cách dẫn dắt khá bất ngờ và thú vị, cuốn hút người đọc vào câu chuyện mà tác giả sắp kể:

    " Đêm qua chẳng biết có hay không

    Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

    Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể

    Thật được lên tiên – sướng lạ lùng "

    Chính tác giả là chủ thể của giấc mơ cũng không dám khẳng định là giấc mơ đó có hay không, thực hay hư ảo. Nhưng ở các câu thơ tiếp theo với việc dùng ngữ điệu mãnh mẽ như để khẳng định yếu tố thực của giấc mơ. Từ" thật "được lặp lại bốn lần cũng như để nhấn mạnh sự thật của các chi tiết, hình ảnh trong giấc mơ.

    Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lí do được lên" hầu trời "của mình:

    " Nguyên lúc canh ba nằm một mình

    Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh

    Nằm buồn, ngồi dậy đun ấm nước

    Uống xong ấm nước, ngồi ngâm văn.

    ..

    Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy

    Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy

    Ghế bành như tuyết vân như mây

    Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy ".

    Câu chuyện hoàn toàn hư cấu mà giống như một câu chuyện có thật vì có đủ tình huống, không gian, thời gian diễn ra sự việc và tác giả là nhân vật chính. Tác giả giải thích lí do của buổi" hầu trời "là do" tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà "khiến Trời mất ngủ. Trời bèn sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn cho Trời nghe. Lí do của buổi" hầu trời "mà tác giả đưa ra như một khẳng định rằng: Cái may mắn được lên hầu trời gắn liền với những phút cao hứng trong thơ văn của nhà thơ.

    Khi đã đưa ra lí do, tác giả kể tiếp diễn biến của buổi" hầu trời ". Câu chuyện diễn ra rất tự nhiên và hợp lí. Theo lệnh của Trời, thi sĩ đọc văn và ngâm văn của mình cho Trời và các chư tiên nghe.

    Không gian thời gian của câu chuyện mặc dù là của một giấc mơ nhưng lại rất rõ ràng, tác giả giải thích lí do của buổi" hầu trời "là do" tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà "khiến Trời mất ngủ. Trời bèn sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn cho Trời nghe. Lí do của buổi" hầu trời "mà tác giả đưa ra như một khẳng định rằng: Cái may mắn được lên hầu trời do những phút cao hứng trong thơ văn của nhà thơ.

    Câu chuyện của buổi" hầu trời "diễn ra rất tự nhiên và hợp lí, như chính tác giả vừa mới trở về từ chốn đó vậy:" Theo lệnh của Trời, thi sĩ đọc văn và ngâm văn của mình cho Trời và các chư tiên nghe.

    "Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe

    Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc".

    Với niềm phấn khích và đầy hứng khởi của mình, sự say sưa trong giọng đọc thơ, cũng ẩn ý cho niềm say mê trong văn chương đã khiến cho tác giả rất tự tin, thể hiện niềm khát khao và đam mê của chính bản thân mình. Và qua những câu thơ, người ta cũng thấy được tài năng của ông khi biết được nhiều thể loại:

    "Đọc hết văn vần sang văn xuôi

    Hết văn thuyết lí lại văn chơi

    Đương cơn đắc ý đọc đã thích

    Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi".

    Mọi người sau khi được Tản Đà đọc thơ, lây làm rất thích thú, ai cũng bộc lộ sự hân hoan tán thưởng, kể cả ông trời cũng phải buông ra những lời tán dương mà mới nghe cũng thấy sung sướng hạnh phúc.

    Thái độ của người nghe được thể hiện ở nét mặt, cử chỉ, điệu bộ: "Tâm như nở dạ"; "Cơ lè lưỡi"; "Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày"; "Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng" và khi hết mỗi bài thì tất cả cùng đồng loạt vỗ tay. Thi sĩ còn kể ra hàng loạt các tập thơ của mình như: "Khối tình", "Đài gương", "Lên sáu".. Nhận được sự ngưỡng mộ, thi sĩ được các chư tiên dặn: "Anh gánh lên đây bán chợ trời".

    Đoạn thơ tiếp theo thể hiện rõ ý thức về "cái tôi" cá nhân của tác giả rất cao:

    "Trời lại phê cho:" Văn thật tuyệt!

    Văn trần được thế chắc có ít

    Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng!

    Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

    Êm như gió thoảng, tinh như sương!

    Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết! "

    Những câu thơ góp phần thể hiện" Cái tôi "phóng khoáng, tác giả đã cố ý mượn lời của Trời để ca ngợi thơ văn của mình. Nó không những chứng tỏ Tản Đà rất có ý thức về tài năng văn chương vượt trội của bản thân mà còn như khẳng định chính Tản Đà là người khơi nguồn cho một cuộc cách mạng về thơ ca, đúng với cái tên" người của hai thế kỉ "mà Hoài Thanh đã gọi. Cái hay, cái đẹp trong thơ ca của Tản Đà được tác giả đem so sánh với vẻ đẹp tuyệt vời của các hiện tượng, sự vật trong vũ trụ như: Sao băng, mây, gió, sương, tuyết, qua đây cũng thấy được thái độ của tác giả tỏ ra rất tự hào, kiêu hãnh về tài năng văn chương của mình. Theo yêu cầu của Trời, thi sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế:

    " – Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa

    Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

    Quê ở Á châu về địa cầu

    Sông Đà núi Tản nước Nam Việt "

    Trời ngờ ngợ một lúc lâu rồi sai Thiên tào kiểm tra lại. Thiên tào tra sổ rồi bẩm báo:

    " – Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu

    Đày xuống hạ giới vì tội ngông ".

    " - Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

    Trần gian thước đất cũng không có

    * * *

    Trời lại sai con việc nặng quá

    Biết làm có được mà dám theo "

    Khi được trời hỏi, sau một hồi đối đáp thì cũng lộ ra một điều rằng, vốn dĩ Tản Đà ở hạ giưới chỉ vì tội ngông. Đoạn thơ tái hiện bức tranh hiện thực được vẽ bằng bút pháp tả chân thực, tỉ mỉ và rất cụ thể, phản ánhđời sống cùng cực của tầng lớp văn nghệ sĩ một cách chính xác và tình hình lộn xộn của thị trường văn chương thời ấy. Cảm xúc ở đoạn thơ khi thi sĩ đọc thơ cho Trời nghe hứng khởi bao nhiêu thì đoạn này lại càng thể hiện tâm trạng ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu. Giấc mơ" hầu trời "như sự biểu hiện khát khao được thể hiện tài năng của thi sĩ. Dường như Trời cũng thấu hiểu được tình cảnh của thi sĩ nên khuyên nhủ:

    " Rằng: Con không nói Trời đã biết

    Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết

    Thôi con cứ về mà làm ăn

    Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết "

    Tiếng gà gáy xao xác, tiếng người dậy báo hiệu đã hết đêm. Cuộc chia tay giữa thi sĩ với Trời và các chư tiên diễn ra trong niềm xúc động:

    " Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi

    Trông xuống trần gian vạn dặm khơi

    Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống

    Theo đường không khí về trần ai "

    Thi sĩ đã tỉnh khỏi giấc mộng nhưng những sự việc diễn ra vẫn còn đầy ấn tượng khiến thi sĩ phải thốt ra như sự tiếc nuối:

    " Một năm ba trăm sáu mươi đêm

    Sao được mỗi đếm lên hầu Trời ".

    Câu chuyện" hầu trời "đã phản ánh khá rõ tính cách của Tản Đà, ông đã mạnh dạn tự biểu hiện" cái tôi "cá nhân, một" cái tôi "ngông, phóng túng tác giả ý thức rất rõ về tài năng, dám đàng hoàng công khai cái tài văn chương hơn người của mình. Bài thơ" Hầu trời"là một bài thơ hay và độc đáo, tiêu biểu cho tính chất giao thời giữa cái mới và cái cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà.
     
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...