Phân tích 16 câu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Thùy Minh, 29 Tháng tư 2022.

  1. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Phân tích diễn biến tâm trạng của người chinh phụ trong đoạn thơ sau:

    Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
    Bức rèm thưa rủ thác đòi phen
    Ngoài rèm thước chẳng mách tin
    Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?

    Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết
    Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
    Buồn rầu nói chẳng nên lời
    Hoa đèn kia với bóng người khá thương!

    Gà eo óc gáy sương năm trống
    Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên
    Khắc giờ đằng đẵng như niên
    Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa

    Hương gượng đốt, hồn đà mê mải
    Gương gượng soi, lệ lại chứa chan
    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

    (Trích Chinh phụ ngâm khúc - Bản diễn Nôm của Đoàn Thị Điểm?)


    [​IMG]

    Chiến tranh phi nghĩa giữa các tập đoàn phong kiến thế kỉ XVIII đã gây ra biết bao cảnh chia lìa: cha xa con, vợ lìa chồng, nhân dân rơi vào cảnh bi đát, cùng cực. Trong đó người phải chịu mất mát đau khổ nhiều nhất là người phụ nữ. Nỗi đau xa chồng khiến họ rơi vào tâm trạng cô đơn, sầu muộn, nhớ nhung. Chứng kiến bao nỗi khổ đau mất mát của những người vợ có chồng ra trận, những người chinh phu một đi không trở về, Đặng Trần Côn cảm động viết "Chinh phụ ngâm khúc". Qua mười sáu câu thơ đầu của đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ", người đọc phần nào thấm thía nỗi đau đớn cuộn trào trong lòng người thiếu phụ:

    "Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

    ...

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng."


    Đặng Trần Côn là người học rộng, tài ba, văn chương lỗi lạc. Người danh sĩ hiếu học và tài ba ấy đã có cảm xúc mãnh liệt trước hiện thực những cuộc chiến tranh do giai cấp phong kiến đương thời tiến hành để chém giết lẫn nhau tranh giành quyền vị và áp bức các cuộc nông dân khởi nghĩa. Cảm xúc mãnh liệt ấy đã thôi thúc ông viết "Chinh phụ ngâm khúc" để nói lên tình cảnh của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến.

    Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, theo thể trường đoản cú. Ngay từ khi mới ra đời đã gây tiếng vang rất lớn. Hiện nay có nhiều bản diễn Nôm, song bản diễn Nôm thành công nhất có người cho rằng là của Đoàn Thị Điểm. Bản dịch được viết theo thể song thất lục bát, với âm điệu triền miên phù hợp với việc biểu đạt tâm trạng nhân vật trữ tình.

    Mười sáu câu đầu của đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" như chất chứa biết bao nỗi cô đơn, buồn tủi triền miên trong lòng người chinh phụ.

    Sau buổi tiễn đưa đầy lưu luyến "Bước đi một bước, giây giây lại dừng", người chinh phụ trở về với "buồng cũ gối chăn", tưởng tượng nơi chiến trường xa xăm đầy chết chóc "Hồn tử sĩ gió ù ù thổi" mà xót xa, lo lắng và ái ngại. Nỗi cô đơn, buồn sầu theo ngày tháng tích tụ tựa những mũi kim đâm nhức nhói tâm can.

    Cô đơn và mong nhớ, người chinh phụ thao thức cả đêm không ngủ, một mình nàng dạo bước ngoài hiên:

    "Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước"

    Không gian hết sức vắng lặng, hiu hắt, chỉ có bóng dáng của người chinh phụ âm thầm đi đi lại lại. Bước chân nàng chậm chạp như đếm nhịp thời gian tàn trôi. Từng bước chân như mang theo biết bao tâm trạng bồn chồn, mong ngóng. Nàng hướng hết cả ra bên ngoài để chờ đợi một tin tốt lành nào đó báo hiệu người chồng sắp về.

    Niềm mong nhớ khiến nàng đứng không yên mà ngồi cũng không yên:

    "Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen"

    Người chinh phụ hết rủ rèm lại cuốn rèm. Rủ rèm xuống thì khuất tầm nhìn, cuốn rèm lên để nhìn ra ngoài lại chỉ thấy khoảng đêm vô tận. Ở ngoài hiên hay ở trong phòng, nàng đều lẻ loi, cô đơn hết sức. Mong chờ chim thước cất tiếng kêu, nhưng đến cả tiếng chim của sự mong mỏi cũng yên ắng:

    "Ngoài rèm thước chẳng mách tin"

    Cuối cùng, người chinh phụ quay trở về với những sự vật xung quanh mình. Nhưng thật đau xót, trong biết bao đêm trường cô tịch, người chinh phụ chỉ có người bạn duy nhất là ngọn đèn. Nàng hỏi ngọn đèn có biết tin chồng nàng: "Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?" Nhưng hỏi để rồi tự trả lời:

    "Đèn có biết dường bằng chẳng biết

    Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi

    Buồn rầu chẳng nói nên lời

    Hoa đèn kia với bóng người khá thương."

    Nỗi mong nhớ chồng nếu có người chia sẻ thì sẽ vơi bớt đi biết bao nhiêu. Nhưng chỉ có nàng và ngọn đèn khuya. Ca dao xưa có câu: "Đèn thương nhớ ai – Mà đèn không tắt" gửi gắm cả niềm thương nỗi nhớ của người thiếu nữ vào ngọn đèn không nghỉ ấy. Nhưng ở hoàn cảnh của người chinh phụ, ngọn đèn cũng chỉ là vật vô tri vô giác, không thể hiểu được nỗi đau khổ của nàng. Không biết chia sẻ cùng ai, sức nặng của nỗi cô đơn, sầu muộn dồn tụ cả lại phía nàng, gợi bao xót xa. Nếu chữ "riêng" cực tả nỗi cô đơn, thì "bi thiết", "buồn rầu" lại cực tả nỗi đớn đau, sầu muộn. Sự cộng hưởng của ngôn từ diễn tả thấm thía, cảm động nỗi lòng người thiếu phụ.

    Có thể nói, hình ảnh của ngoại cảnh – ngọn đèn là một hình ảnh đầy sức gợi. Ngọn đèn không chỉ là đối tượng để giãi bày của người thiếu phụ, mà bản thân nó còn là sự cực tả không gian mênh mông, sâu thẳm của đêm.

    Đêm khuya là thời gian tâm lí, thời gian mà con người thấm thía đến tận cùng nỗi cô đơn, buồn tủi trong chính lòng mình. Mọi náo nhiệt của ban ngày lắng lại, chỉ còn mình đối diện với chính mình - làm sao để có thể chạy trốn nỗi buồn? Bị bủa vây bởi cô đơn và nhung nhớ, người chinh phụ thương cho chính mình. Nàng thốt lên: "Hoa đèn kia với bóng người khá thương." Cả hoa đèn và bóng dáng nàng đều tàn lụi, héo hắt, cô lẻ - thật tội nghiệp xiết bao. Hình ảnh hoa đèn và bóng người như phản chiếu vào nhau để diễn tả nỗi cô đơn đến héo úa canh dài, đến héo hon cả xuân sắc. Dường như nỗi niềm ấy đã vo tròn, nén chặt, đè nặng trong lòng người chinh phụ, và trở thành nỗi "bi thiết" không thể nói lên lời, là nỗi "buồn rầu" đến não nề, đến thương cảm.

    Ngọn đèn ấy khiến ta nhớ đến ngọn đèn trong đêm trao duyên của nàng Kiều:

    "Một mình một ngọn đèn khuya

    Áo đầm giọt tủi tóc se mái đầu"

    Ngọn đèn nào cũng gắn với nỗi đau riêng của nhân vật trữ tình. Nỗi đau trải dài suốt đêm trường cô tịch.

    Nguyễn Du có câu:

    "Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ"

    Quả thực, lòng người buồn mà cảnh theo đó cũng nhuốm màu tâm trạng ấy:

    "Gà eo óc gáy sương năm trống

    Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên"

    Lấy hữu thanh để tả vô thanh là nghệ thuật của thơ trung đại. Trong đoạn thơ trên xuất hiện duy nhất âm thanh tiếng gà. Nhưng âm thanh ấy chỉ càng đậm tô thêm ấn tượng về sự vắng vẻ, tĩnh mịch của đêm. Từ láy "eo óc" thật đặc biệt, gợi những tiếng kêu đứt quãng, rời rạc, thê lương bị ném vào giữa khoảng không gian mênh mông, cô tịch. Âm thanh rất quen thuộc của sự sống thường nhật ấy, qua cảm nhận của người chinh phụ bỗng trở nên tang thương, ám ảnh lạ lùng. Bởi đó đâu còn là âm thanh của ngoại cảnh mà đã trở thành tiếng vọng từ tâm can của con người đang sầu muộn, cô đơn. Nàng đã thức trọn năm canh để nghe thấy tận sâu trong đáy lòng mình nỗi sầu, nỗi đau vô hình ấy.

    Hình ảnh cây hòe lặng lẽ im lìm trong đêm: "phất phơ rủ bóng bốn bên" cộng hưởng với âm thanh của tiếng gà càng khiến cho cảnh vật thêm thê lương. Từ láy "phất phơ" gợi dáng vẻ xác xơ, tiêu điều. Thêm chữ "rủ bóng" như gieo vào lòng người đọc ấn tượng về sự ủ rũ, thiếu sức sống của cây – và cũng là của người. Thiếu vắng bóng dáng người chồng, tất cả trở nên héo úa, tàn lụi đến đáng thương.

    Tâm trạng của người chinh phụ như thấm đẫm, lan tỏa trong không gian trải dài theo thời gian:

    "Khắc giờ đằng đẵng như niên

    Mối sầu dằng dặc tự miền biển xa."

    Trong nguyên tác, Đặng Trần Côn viết:

    "Sầu tựa hải

    Khắc như niên"

    Câu thơ diễn Nôm không chỉ theo sát nghĩa của câu thơ gốc mà còn giàu giá trị biểu đạt ở hai từ láy thuần Việt mà dịch giả thêm vào: "đằng đẵng" và "dằng dặc". Với hai từ láy ấy, sự chán chường, sầu tủi của người chinh phụ như kéo dài thêm, nới rộng thêm đến vô cùng, vô tận. Thời gian bỗng hóa thời gian tâm lí, không gian bỗng thành không gian cảm xúc qua bút pháp ước lệ và nghệ thuật so sánh được sử dụng đắc địa. Kể từ khi tiễn chồng đi vào "cõi xa mưa gió", đối với nàng, phải sống trong cô độc, lẻ loi, chờ đợi một khắc một giờ trôi qua dài lê thê như một năm. Còn những nỗi buồn sầu cũng chất chồng, dai dẳng tựa trải khắp cả không gian biển rộng. Khi chờ đợi bao giờ thời gian trôi đi cũng rất chậm chạp, rất dài. Thuý Kiều trong tâm trạng đợi chờ Kim Trọng cũng từng than thở, ngậm ngùi:

    Sầu đong càng lắc càng đầy,

    Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!

    [​IMG]

    Khổ thơ tiếp theo diễn tả những gắng gượng của người chinh phụ để mong thoát khỏi sự bủa vây của cảm giác lẻ loi, cô đơn:

    "Hương gượng đốt hồn đà mê mải

    Gương gượng soi lệ lại châu chan

    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng"

    Từng ngày, từng giờ, từng phút người chinh phụ phải chiến đấu với những ngổn ngang chất chứa trong lòng. Điệp từ "gượng" lặp lại ba lần trong bốn câu thơ đã thể hiện sự nỗ lực vượt thoát khỏi nghịch cảnh của người chinh phụ. Nhưng làm sao có thể thoát nổi?

    Dù gượng dậy đốt hương để xua bớt đi cái lạnh lẽo, để tìm sự thanh thản trong mùi hương lan tỏa dịu dàng nhưng thật trớ trêu, hương châm lên rồi, tâm hồn nàng bâng khuâng, mê mải đuổi theo bóng hình người chồng xa cách nên càng như mê man hơn.

    Dù gắng dậy soi gương, có lẽ để điểm tô nhan sắc, hay cố nhìn lại nhan sắc của mình. Nhưng đối diện với khuôn mặt mình trong gương – khuôn mặt phản chiếu nỗi buồn sầu vô tận, nàng lại ứa nước mắt. Nỗi cô đơn, sầu muộn mỗi lúc một cao, như sóng biển cuộn trào kết tụ thành những dòng nước mắt ruôn rơi.

    Cuối cùng, nàng ngồi trước phím đàn, mong thanh âm của cây đàn xẽ phá tan sự tĩnh mịch của đêm, sẽ khiến nàng tạm quên sầu bi nhưng nỗi âu lo về duyên cầm sắt và tình loan phượng lại hiện hình. Nàng sợ dây đàn đứt, chùng sẽ báo hiệu điều không may. Dường như nàng đang mang trong mình quá nhiều lo lắng, bất an, bởi thế chẳng những không thể giải tỏa được nỗi niềm đang tích tụ, chất chứa mà còn như chìm sâu hơn vào tâm trạng bi thương. Tâm trạng bi thương ấy trở thành điệu nhạc của tâm hồn có sức mạnh lấn át tất cả những âm thanh cầm sắt.

    Song, trong giây phút mà tâm trí ngổn ngang ấy, người chinh phụ vẫn ý thức rất rõ nỗi sợ dây đàn đứt, chùng báo hiệu điều không may trong tình cảm vợ chồng. Điều này cho thấy, dù đau khổ, người thiếu phụ vẫn không thôi khao khát hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn, sum vầy. Nhưng càng khao khát bao nhiêu, lại càng đau khổ bấy nhiêu. Bởi khao khát trong vô vọng thì chỉ là khao khát, người chồng vẫn biền biệt giữa "dặm trường mây phủ", người vợ vẫn một mình lẻ bóng nơi "lối cũ rêu in".

    Mười sáu câu thơ đầu là lời người chinh phụ tự nói lên nỗi đau của lòng mình. Với nỗi niềm cảm thông sâu sắc, tác giả và dịch giả đã thể hiện rất tinh tế và thành công những trạng thái tâm lí phức tạp của người thiếu phụ. Đoạn thơ vừa có ý nghĩa hiện thực – phản ánh nỗi đau khổ của những người vợ xa chồng trong chiến tranh; vừa có giá trị nhân văn sâu sắc – niềm cảm thương con người, thái độ tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa; trân trọng quyền sống, khát vọng hạnh phúc lứa đôi chính đáng của con người.

    Nội dung, cảm hứng trên được thể hiện tự nhiên, cảm động bằng thể thơ song thất lục bát giàu chất nhạc, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng tinh tế, bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc của văn học trung đại và sử dụng hàng loạt các biện pháp nghệ thuật: câu hỏi tu từ, điệp từ, điệp ngữ, ẩn dụ, đối xứng... Nhờ đó, hình thức nghệ thuật và nội dung hài hòa, tuy đôi chỗ có ước lệ, nhưng vẫn có nhiều sáng tạo đáng trân trọng.

    Xem tiếp bên dưới...
     
    Chỉnh sửa cuối: 5 Tháng năm 2022
  2. Đăng ký Binance
  3. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    2,024
    Một số yêu cầu phụ khi phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

    1. Nhận xét về tư tưởng nhân đạo qua đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

    Định hướng:

    Chiến tranh phong kiến phi nghĩa, ước muốn ích kỉ duy trì quyền lợi cảu một vài cá nhân và một dòng họ là nguyên nhân gây nên cảnh chia lìa giữa chinh phu, chinh phụ, đẩy người chinh phụ và hoàn cảnh bi kịch. Tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa là một trong những nội dung sâu xa thể hiện tư tưởng nhân văn của đoạn trích.

    Nhưng tố cáo chiến tranh không phải là giá trị nhân đạo duy nhất của đoạn trích cũng như toàn bộ khúc ngâm. Quan trọng hơn và sâu sắc hơn, Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ và mở rộng ra là Chinh phụ ngâm khúc đã thể hiện một cách nhức nhối niềm thương tiếc, oán hận khôn nguôi cho những giá trị tinh thần đã mất: Đó chính là tuổi trẻ, hạnh phúc. Do đó, giá trị nhân đạo nổi bật của đoạn trích này cũng như toàn bộ khúc ngâm chính là khẳng định và đề cao quyền sống, khát vọng hạnh phúc lứa đôi của con người. Tiếng nói nhân đạo của Chinh phụ ngâm hòa vào với tiếng nói nhân đạo của văn học thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XĨ có ý nghĩa khẳng định truyền thống quý báu của văn học dân tộc.

    2. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả nội tâm trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

    Đoạn trích thể hiện những nét đặc sắc trong ngòi bút miêu tả nội tâm nhân vật của tác giả, dịch giả Chinh phụ ngâm. Một đoạn thơ ngắn mà có nhiều cách tả tâm trạng nhân vật: Tả nội tâm người chinh phụ qua ngoại hình, dáng vẻ: Dáng vẻ buồn rầu, mặt đẫm lệ; tả nội tâm người chinh phụ qua hành động, cử chỉ: Bước chân âm thầm dưới hiên vắng, kéo rèm và hạ rèm nhiều lần, gượng gạo khi đốt hương, soi gương, gảy đàn; tả nội tâm qua ngoại cảnh với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình quen thuộc của văn học trung đại.

    Nhưng thế vẫn chưa đủ, tác giả còn để cho nhân vật tự nói lên nỗi lòng mình bằng những lời thở than đau xót: Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi; buồn rầu nói chẳng nên lời; hoa đèn kia với bóng người khá thương; nhớ chàng thăm thẳm; nhớ chàng đau đáu; người thiết tha lòng..

    Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như vậy, tác giả đã khiến cho tâm trạng nhân vật - một thế giới vốn vô hình vô ảnh trở nên cụ thể, rõ nét. Hơn thế nữa, người đọc còn có điều kiện nhìn nhận tâm trạng ấy từ nhiều góc độ khác nhau, từ vẻ bề ngoài cho đến chiều sâu khôn cùng của nó. Đó cũng chính là thành công quan trọng nhất về mặt nghệ thuật của đoạn trích này.

    3. Nhận xét về ý nghĩa tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

    Chinh phụ ngâm khúc nói chung và Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ nói riêng không phản ánh trực tiếp chiến tranh. Tác phẩm chỉ đi sâu vào khía cạnh chiến tranh làm tan vỡ hạnh phúc lứa đôi, gia đình. Tuy nhiên, thông qua nỗi buồn dằng dặc, sự chờ đợi ngóng trông mỏi mòn hết ngày này qua tháng khác, hết năm này qua năm nọ của người chinh phụ, khúc ngâm đã chỉ ra chiến tranh là nguyên nhân tước đoạt quyền được sống, được yêu, được hạnh phúc của con người.

    Vì chiến tranh được ám chỉ trong Chinh phụ ngâm, cũng như trong đoạn trích là chiến tranh phi nghĩa của giai cấp thống trị nhằm đàn áp phong trào nông dân khởi nghĩa nên đoạn trích và khúc ngâm đã phản ánh một vấn đề nóng hổi của thời đại. Đó là tiếng nói chống chiến tranh phong kiến phi nghĩa và khát vọng hòa bình của nhân dân. Tiếng nói lên án chiến tranh đã góp phần tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho tác phẩm và đoạn trích.
     
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...