Phân tích 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Thùy Minh, 16 Tháng tám 2021.

  1. Thùy Minh Đọc bài trong phần "Thông tin" nha!

    Bài viết:
    1,908
    Phân tích 14 câu đầu bài thơ "Tây Tiến" (Quang Dũng), từ đó anh/chị hãy nhận xét về nét đặc sắc của hình ảnh trong thơ Quang Dũng.

    [​IMG]

    "Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy" - nhận định của nhà thơ Tố Hữu đã đề cập đến một trong những đặc trưng của thơ: Thơ là tiếng nói của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Tây Tiến - Quang Dũng trở thành một hiện tượng đặc biệt và có sức sống lâu bền trước hết phải kể đến yếu tố cảm xúc của bài thơ. Chính những nhịp rung mãnh liệt trong tâm hồn chàng thi sĩ trẻ khi hồi tưởng về một thời từng sống, chiến đấu trong binh đoàn Tây Tiến đã làm nên mạch cảm xúc thi vị và hào hùng của bài thơ, thành nhịp đập trái tim của thi phẩm và đem đến rung cảm thẩm mĩ sâu sắc trong lòng người đọc. Xuyên suốt bài thơ là nỗi nhớ: Nhớ thiên nhiên, nhớ đồng đội, nhớ nhớ kỉ niệm ấm áp tình đồng bào.. Mười bốn câu thơ:

    "Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!

    [..]

    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"


    là dòng cảm xúc bồi hồi nhung nhớ của Quang Dũng về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội cùng những cuộc hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến. Xúc cảm chân thành, mãnh liệt ấy đã "chưng cất" lên những vần thơ thật đẹp.

    Quang Dũng là một hiện tượng đặc biệt trong làng thơ Việt Nam. Số lượng tác phẩm để lại không lớn, số tác phẩm nổi danh cũng không nhiều, nhưng chỉ với bài thơ "Tây Tiến", cũng đủ để người đọc lưu lại những ấn tượng khó phai về một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.

    Tây Tiến là đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng địch, bảo vệ biên giới Việt Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh Hà thành. Họ chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, nhưng lại rất lạc quan và dũng cảm. Đến cuối năm 1948, Quang Dũng nhận được lệnh chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa lâu, tại Phù Lưu Chanh, nỗi nhớ ùa về, Quang Dũng viết bài thơ "Tây Tiến" để gửi tiếng lòng mình vào đó.

    Hai câu thơ đầu khái quát cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ và của bài thơ:


    "Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!

    Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi"


    Nỗi nhớ về Tây Tiến cất lên thành lời gọi thiết tha, sâu lắng trong câu thơ thứ nhất. Nhà thơ gọi tên binh đoàn Tây Tiến, gọi tên dòng sông đã từng đồng hành cùng bước chân người lính – sông Mã.

    Sông Mã là dòng sông chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt - Lào, chảy qua một vùng rộng lớn mênh mông của núi rừng Tây Bắc. Dòng sông với nhiều ghềnh thác cuộn xoáy dữ dội, băng băng giữa núi rừng hùng vĩ ấy chính là dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến. Dòng sông đã chứng kiến và chia sẻ bao buồn vui, bao hy sinh mất mát, cũng là dòng sông từng "gầm lên khúc độc hành" tiễn đưa tử sỹ. Sông Mã vì thế không đơn thuần là hình ảnh thiên nhiên tô vẽ lên vẻ đẹp hùng vĩ của Tây Bắc đại ngàn mà còn là dòng sông của nhớ thương, của hoài niệm. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Quang Dũng lại nhắc đến Sông Mã đầu tiên trong cuộc hành trình hành hương về nỗi nhớ.

    Đã từng gắn bó với dòng sông Mã hùng vĩ, như tri kỉ, như một phần của cuộc sống.. nhưng tất cả, giờ đây đã "xa rồi", đã là quá khứ xa xôi. Có gì đó nghẹn ngào, rưng rưng trong hai tiếng giản đơn ngỡ chỉ đem đến thông tin về thời gian ấy. Nhịp thơ 4/3 tạo cảm giác như phút ngừng lặng của cảm xúc trống trải mênh mông dâng trào. Để rồi sau đó nỗi nhớ không kìm lòng được, bật lên thành tiếng gọi thiết tha hướng về quá khứ: "Tây Tiến ơi!". Vần mở "ơi" kết thúc câu thơ như ngân dài thêm lời gọi da diết ấy.

    Một câu thơ, gọi về hai nỗi nhớ: Nhớ thiên nhiên (sông Mã), nhớ con người (Tây Tiến) - câu thơ thứ nhất vì thế trở thành điểm xuất phát cho mạch cảm xúc lan tỏa khắp bài thơ. Câu thơ thứ hai:


    "Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi"

    điệp lại hai lần từ "nhớ" ở đầu hai vế câu diễn tả nỗi nhớ da diết, ám ảnh, không thể nguôi ngoai.

    Nửa đầu câu thơ xác định đối tượng của nỗi nhớ "nhớ về rừng núi" – là nhớ về không gian núi rừng mênh mông, kì thú của miền Tây. Còn vế sau câu thơ lại xác định trạng thái của nỗi nhớ: "Nhớ chơi vơi". "Chơi vơi" là từ láy vần, gợi nỗi nhớ bồng bềnh, phiêu bổng – một từ láy rất phù hợp để biểu đạt nỗi nhớ nhung về miền núi cao. Cảm giác, nỗi nhớ đó bao trùm lên cả không gian của núi rừng. Nối tiếp vần "ơi" ở câu trước, từ láy "chơi vơi" lần nữa như nối thêm chiều dài của nỗi nhớ với hai vần "ơi" liên tiếp. Mang giá trị gợi cảm cao, từ láy "chơi vơi" còn mang đến cảm giác về nỗi nhớ vô hình, vô lượng, không thể đo đếm nhưng da diết, không nguôi, lúc nào cũng dâng đầy trong tâm khảm. Đắm chìm trong nỗi nhớ, dòng hoài niệm của nhà thơ làm hiện lên cả một không gian xa xôi. Những miền đất thân yêu của một thời gắn bó nay lần lượt trở về:


    "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

    Mường Lát hoa về trong đêm hơi"


    Ấn tượng khó quên trong tâm trí nhà thơ có lẽ là màu sương rừng mờ ảo. Hai tiếng "sương lấp" gợi cảm giác sương phủ dày đặc, mênh mông. Cả một vùng rộng lớn bao phủ bởi sương rừng. Vì thế, bước đường hành quân của người lính như thêm phần vất vả. Và những người lính đây đó cũng có lúc hiện lên với dáng vẻ của một "đoàn quân mỏi". Nét vẽ có phần gân guốc này đã nói lên hiện thực về con đường hành quân gian khổ của người lính giữa núi rừng.

    Sau hình ảnh thung lũng sương mù của vùng Sài Khao là "đêm hơi" Mường Lát bồng bềnh hư ảo. Với câu thơ này, hiện thực khắc nghiệt của thiên nhiên đã phần nào được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn: Đêm sương thành "đêm hơi" bồng bềnh, những ngọn đuốc soi đường di chuyển dọc theo hàng quân được lãng mạn hóa thành những đóa hoa lung linh, huyền ảo.. Những thanh bằng nhẹ bẫng trong câu thơ càng làm đậm thêm sắc hư ảo ấy.

    Trong kí ức của Quang Dũng, miền biên giới hiện lên hệt như một bức tranh. Ở đó, những mảng màu sắc, đường nét, hình khối chuyển đổi nhanh và bất ngờ. Nên bên cạnh nét vẽ bồng bềnh, hư ảo là những nét vẽ gân guốc, sần sùi:


    "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

    Heo hút cồn mây súng ngửi trời

    Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống"


    Ai đã từng đi qua miền Tây Bắc, hẳn sẽ không thể nào quên những dốc núi hùng vĩ và vô cùng nguy hiểm nơi này. Những câu thơ đậm chất hội họa của Quang Dũng đã mang vào thơ hình ảnh điệp điệp trùng trùng của dốc núi miền Tây:

    "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm"

    Câu thơ ngắt nhịp 4/3, từ "dốc" điệp lại ở đầu hai vế câu thể hiện sự chồng chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc. Con dốc này chưa qua, con dốc khác đã hiện ra trước mắt. Con đường lên miền Tây quả là: "Nan ư hướng thiên thanh" (khó như lên trời xanh) như trong thơ Lý Bạch.

    Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây còn được cộng hưởng bởi các từ láy giàu giá trị tạo hình, biểu cảm: "Khúc khuỷu", "thăm thẳm". Nếu từ "khúc khuỷu" nghiêng về miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh của đường đi, thì từ "thăm thẳm" lại gợi độ cao, độ xa vời vợi khi đưa mắt nhìn tiếp con đường hành quân vẫn cheo leo ngút ngàn như không cùng.

    Phát huy tối đa sự biểu cảm của thanh điệu, Quang Dũng còn tạo nên một câu thơ đặc biệt với 5/7 thanh trắc như sự tuyệt đối hóa những hiểm trở, gập ghềnh của những dốc núi lởm chởm đá tai mèo.

    Sau khi vượt qua dốc núi gập ghềnh, gian khổ, người lính đã đặt chân đến tầm cao vời vợi của núi non:


    "Heo hút cồn mây súng ngửi trời"

    Trong phép đảo ngữ, từ láy "heo hút" được đặt lên đầu câu nhấn mạnh sự hoang sơ, tiêu điều, xa vắng của cảnh vật. Trên đỉnh dốc núi kia dường như là thiên nhiên nguyên thủy, không có sự xuất hiện của con người nên mới "heo hút" đến thế.

    "Cồn mây" – cách kết hợp từ thú vị gợi liên tưởng về những đám mây chất chồng, trùng điệp và con đường hành quân như lẫn vào mây, bước chân người lính như đạp lên mây trời. Câu thơ vừa tạo ấn tượng về dốc núi cheo leo, hiểm trở, hoang vu vừa mang lại ấn tượng về tầm vóc hào hùng của người chiến sĩ – tầm vóc lớn lao sánh ngang cùng trời đất. Nhà thơ Vũ Quần Phương còn cho rằng hình ảnh "súng ngửi trời" là: "Trung tâm hùng tráng của bức tranh hiểm trở, bởi ở chỗ cao ấy có con người". Tư thế chinh phục đỉnh cao hiên ngang giữa mây trời ấy khiến ta nhớ đến anh chiến sĩ trong thơ Tố Hữu:


    "Rất đẹp hình anh lúc ráng chiều

    Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo

    Núi không đè nổi vai vươn tới

    Lá ngụy trang reo với gió đèo"


    Dù câu thơ gợi lên không ít những hiểm nguy, gian khổ của con đường hành quân, nhưng bằng cách nói tếu táo, hóm hỉnh, cách đo độ cao đầy chất lính trong hình ảnh "súng ngửi trời", Quang Dũng đã cho thấy sự hồn nhiên, tinh nghịch của những chàng lính phong trần. Trong hoàn cảnh nào, họ cũng nhìn sự vật theo một cách riêng, rất lạ, rất lính.

    Với số đo ở tầm kích vĩ mô, câu thơ:


    "Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống"

    tiếp tục cộng hưởng với câu thơ "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm" để gợi lên sự cheo leo, hiểm trở của núi non. Điệp ngữ "ngàn thước" là số từ phiếm chỉ vừa khắc họa độ cao của dốc núi, vừa nhân lên vẻ đẹp kỳ vĩ, chênh vênh, kì thú của dốc núi miền Tây. Phụ họa với "ngàn thước" là cặp từ đối lập "lên" – "xuống" trong hai vế câu đã tạo ra một nét gập đột ngột, dữ dội đặc tả độ cao của dốc, độ sâu của vực, bên này đường lên – vách dựng đứng vút cao, bên kia đường xuống – vực đổ sâu thăm thẳm. Sự sắp xếp từ ngữ đầy tương phản ấy mang đến cho người đọc cảm giác như được tham dự một trò chơi bập bênh mạo hiểm với biên độ dao động hàng ngàn thước.

    Như vậy, với những câu thơ giàu giá trị tạo hình, dốc núi miền Tây mang đến ấn tượng ở người đọc cả về sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp ký thú. Từ những nét vẽ về thiên nhiên, người đọc có thể nhận thấy nét hào hùng nhưng cũng không kém phần nghệ sĩ của những chàng lính Hà thành. Họ kiên cường, mạnh mẽ, coi thường mọi gian truân, coi thường những khó khăn thử thách của thiên nhiên và cũng rất trẻ trung, hồn nhiên, yêu đời.

    Trên tầm cao chất ngất của núi đồi, người lính đã hướng tầm mắt ra xa và bồi hồi thu vào tầm mắt những nếp nhà thấp thoáng ẩn hiện trong cơn mưa trắng trời trắng đất:


    "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"

    Câu thơ là một nét vẽ mềm mại sau rất nhiều những nét vẽ gân guốc dữ dội về dốc núi gập ghềnh. Chính nét vẽ này đã tạo nên không gian nhiều tầng bậc và những đường nét sinh động cho bức tranh thiên nhiên Tây Tiến.

    Những thanh bằng miên man trong câu thơ kết hợp với rất nhiều âm thanh mở đã vẽ ra một khoảng không gian rộng lớn của núi rừng và đằng sau đó có cả chút bâng khuâng thương nhớ của người lính về một mái nhà, một chốn bình yên. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, hình ảnh những ngôi nhà đã gợi cảm giác ấm áp, nhớ nhung, dễ làm xao xuyến lòng người xa quê.

    Bức tranh thiên nhiên không chỉ được thể hiện trong góc độ không gian mà còn được tái hiện trong các chiều thời gian:


    "Chiều chiều oai linh thác gầm thét

    Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"


    "Chiều chiều" và "đêm đêm" là những khoảnh khắc yên tĩnh nhất của đại ngàn. Chính sự tĩnh mịch của rừng núi sâu thẳm lúc chiều buông đêm xuống càng làm cho tiếng thác đổ, tiếng cọp gầm càng trở nên rùng rợn. Chất phương xa xứ lạ của miền biên giới đã được tô đậm trong những câu thơ này. Cách phối thanh có "thác", "thét" mang thanh sắc ở câu trên gợi âm thanh tiếng thác nước man dại nơi vòm cao thăm thẳm, và "hịch", "cọp" mang thanh nặng ở câu dưới lại như mô phỏng bước chân nặng nề của thú dữ. Câu thơ tô đậm sự dữ dội, hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây.

    Sự bí hiểm, dữ dội ấy như ngự trị muôn đời nơi đây qua cách nhà thơ sử dụng các trạng ngữ chỉ thời gian miên viễn, vĩnh hằng. "Chiều chiều" và "đêm đêm" là những điệp từ chỉ thời gian lặp lại gợi ấn tượng về sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp của núi rừng miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là chiều chiều, đêm đêm. Câu thơ của Quang Dũng có nét tương đồng với những vần thơ trong "Từ đêm 19" của Khương Hữu Dụng:


    "Đây cao vòi vọi dốc ông Mạnh

    Đây ầm ầm đổ thác không tên

    Có suối chân hùm vừa để dấu

    Có lùm cây vút tuyệt đường chim"


    Nhưng cũng chính những hiểm nguy, dữ dội này lại càng khiến chân dung người chiến sỹ Tây Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ. Họ đã sống và chiến đấu giữa chốn rừng thiêng nước độc, giữa lạnh vắng, hoang sơ, rùng rợn núi rừng. Họ đã vượt qua tất cả những gian truân vất vả bằng ý chí kiên cường và lòng dũng cảm.

    Tuy nhiên, trong những hồi ức hào hùng ấy, Quang Dũng không chỉ nhớ đến tầm vóc sánh ngang với núi sông của người chiến sĩ anh hùng mà còn trăn trở về những gian khổ hi sinh mà họ đã trải qua:


    "Anh bạn dãi dầu không bước nữa

    Gục lên súng mũ bỏ quên đời"


    Câu thơ là ký ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sỹ Tây Tiến trên đường hành quân. Với nét vẽ hiện thực, từ láy "dãi dầu" đã nói lên rất nhiều những vất vả, gian truân của những người chiến sĩ trên đường hành quân, khi phải vượt qua những núi cao vực thẳm, những thác ghềnh dữ dội, những sương gió nắng mưa.

    Chưa dừng lại ở đó, cụm từ "không bước nữa", "gục lên súng mũ" tiếp tục kí họa những nét vẽ chân thực nhất về người lính trên bước đường hành quân, chiến đấu.

    Sự đa nghĩa của ngôn từ khiến ta có thể hiểu đây là hình ảnh người lính buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân, một giấc ngủ mệt nhọc, vô tư, phong trần. Cũng có thể hiểu đây là câu thơ miêu tả hiện thực đau lòng về sự hi sinh của người lính. Câu thơ không che giấu hiện thực là đã có những người lính kiệt sức, gục ngã, không thể bước tiếp cùng đồng đội. Nhưng ngay cả khi ngã xuống, họ vẫn mang theo "súng mũ" bên mình - không thoái lui, chùn bước, ngược lại luôn sẵn sàng trong tư thế chiến đấu. Đó chính là vẻ đẹp hào hùng của người chiến binh Tây Tiến - vẻ đẹp của những anh lính cụ Hồ đã từng được Tố Hữu ngợi ca trong bài thơ "Trăng trối" :


    "Vui vẻ chết như như cày xong thửa ruộng.

    Lòng khỏe nhẹ anh dân quê vui sướng

    Nằm trên liếp cỏ ngủ ngon lành"


    Dù hiện thực khắc nghiệt như vậy nhưng Quang Dũng đã thể hiện bằng cách nói thật lãng mạn để qua đó làm hiện lên không phải khó khăn mà là tinh thần dũng cảm vượt lên khó khăn, đó chính là vẻ đẹp hào hùng của người chiến binh Tây Tiến. Lời thơ Quang Dũng thật giản dị nhưng chứa đựng tình cảm chân thành.

    Tứ thơ tiếp tục vận động. Cảnh dữ dội, bi tráng dần lắng xuống. Dốc cao, vực sâu lùi lại phía sau. Núi rừng biên cương trở về vẻ thanh bình yên ả với những bản làng nên thơ, với khói lam chiều ấm áp quyện bên sườn núi. Đoạn thơ khép lại bằng hương nếp xôi nồng nàn của các cô gái Mai Châu:


    "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"


    Thán từ "nhớ ôi" đặt đầu câu thơ như sự trào dâng mãnh liệt của nỗi nhớ. Làm sao có thể không nhớ sau khi trải qua chặng đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa những tiếng chân thú rình rập đầy đe dọa, đói và rét, lại được tận hưởng hương vị ngạt ngào, ấm nóng của bát cơm mùa gặt mới giữa cái ấm cúng ngai ngái của khói bếp lam chiều. Khung cảnh quây quần sum họp đầm ấm tình quân dân thắm thiết nồng nàn ấy đã đem đến cảm giác thanh bình thật hiếm hoi, quý giá trong chiến tranh. Giống như âm thanh tiếng gà trưa trên đường hành quân của anh chiến sỹ trong bài thơ Xuân Quỳnh:

    "Trên đường hành quân xa

    Dừng chân bên xóm nhỏ

    Gà nhà ai nhảy ổ

    Cục, cục tác cục ta

    Nghe xao động nắng trưa

    Nghe bàn chân đỡ mỏi

    Nghe gọi về tuổi thơ"


    hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là một kỷ niệm khó quên, là lưu hương chẳng phai nhòa trong nỗi niềm bâng khuâng của người chiến sĩ Tây Tiến.

    Đoạn thơ vẽ lên khung cảnh thiên nhiên Tây Bác hùng vĩ, dữ dội, chấm phá đôi nét trữ tình mềm mại, thanh sơ. Điểm nhấn của bức tranh là hình ảnh những chàng lính Tây Tiến trên bước đường hành quân, chiến đấu gian khổ, hiểm nguy nhưng vô cùng anh dũng. Ta có thể nhận thấy trong 14 dòng thơ là vẻ đẹp vừa hào hùng vừa hào hoa, vừa anh hùng, vừa nghệ sĩ của những chàng lính Hà thành. Tất cả được biểu hiện bằng giọng thơ trữ tình, đằm thắm, bằng sự kết hợp uyển chuyển giữa thơ, họa và nhạc, giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, những ngôn từ giàu giá trị biểu đạt..

    Đặc biệt, đoạn mười bốn câu thơ đầu đã thể hiện những nét đặc sắc trong hình ảnh thơ Quang Dũng. Hình ảnh trong đoạn thơ được sáng tạo bằng nhiều bút pháp khác nhau, tạo nên những sắc thái thẩm mỹ phong phú. Đoạn thơ có hai hình ảnh chính: Thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến, đồng thời cũng còn có hình ảnh về cụôc sống của đồng bào miền Tây gắn với người lính Tây Tiến. Ở mỗi loại hình ảnh ta nhận thấy có những nét vẽ đối lập nhưng bổ sung cho nhau tạo nên sắc thái thẩm mỹ đặc biệt.

    Hình ảnh thiên nhiên vừa có cái dữ dội, khắc nghiệt, hoang sơ, hùng vĩ với "sương lấp" bao phủ mênh mông, với dốc cao, vực sâu "khúc khuỷu", "thăm thẳm", với tiếng "gầm thét" của thác ghềnh, với hiểm nguy rình rập đêm đêm "cọp trêu người".. lại vừa có những nét vẽ thơ mộng, trữ tình: Cả một không gian tan loãng trong màn mưa núi, lãng đãng trong khói lam chiều, mơ màng trong "đêm hơi" tĩnh lặng..

    Hình ảnh con người cũng hiện ra với vẻ đẹp hào hùng và hào hoa, anh hùng và nghệ sĩ. Hào hùng ở ý chí, tư thế hiên ngang, coi thường gian khổ. Hào hoa ở tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên, đằm thắm tình người..

    Như vậy, hệ thống hình ảnh trong khổ thơ trên không làn lạt một màu, mà đa dạng, phong phú, nhiều góc cạnh, tạo nên vẻ đẹp trọn vẹn, đầy đủ cho cảnh vật và con người.

    Xem thêm: Phân tích 2 khổ thơ 2, 3 trong bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
     
    Last edited by a moderator: 16 Tháng chín 2022
Trả lời qua Facebook
Đang tải...