Ôn tập bài Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử A. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Tác giả Hàn Mặc Tử nhìn vào năm sinh năm mất ta thấy được sự ra đi khi còn rất trẻ, khi năm 24 tuổi mới phát hiện bệnh thì 28 tuổi đã ra đi, sự ra đi ấy đã để lại nhiều sự tiếc nuối cho nhiều người, trong đó có thi đàn Văn học Việt Nam. Làm thơ ca từ năm 14, 15 tuổi với rất nhiều bút danh như: Phong Trần, Lệ Thanh.. nhưng đến cuối cùng lại chọn Hàn Mặc Tử lại chọn bút danh Hàn Mặc Tử vì gắn với một ý nghĩa rất sâu sắc. Ý nghĩa ấy là sự gắn ghép nghĩa các từ Hán Việt, Hàn chỉ bút, Mặc là mực, tử là con, bút danh nghĩa là người làm thơ, làm văn, người có duyên nợ với văn chương. Từ duyên nợ rất nặng nghĩa là không bứt ra được, sỡ dĩ nói như vậy vì ông làm thơ từ rât nhỏ, ngay cả trong trại phong thì cũng chỉ có thơ ca là niềm an ủi duy nhất của thi nhân. Ông gửi gắm những hạnh phúc vụn vặt của kí ức hay nổi đau, sự thống khổ của hiện tại lên những trang thơ của mình. Xuất thân trong một gia đình nghèo, theo đạo Thiên chúa nên khi đọc thơ Hàn Mặc Tử ta sẽ ít nhiều bắt gặp hồn thơ tôn giáo, những hình ảnh màu trắng tinh khôi, trinh khiết như: "Áo em trắng quá nhìn không ra" hay "Chị ấy năm nay còn gánh thóc- Dọc bờ song trắng nắng chang chang". Phong cách sáng tác đi từ lãng mạn đến tượng trưng và chạm đến bờ siêu thực nên diện mạo thơ ông bí ẩn, phức tạp, đôi khi giá trị hiện tại nhường chỗ cho những giá trị vô thức, tiềm thức, cái tôi vô định và âm điệu chung là đau thương. Người ta nói thơ Hàn Mặc Tử là sự mâu thẫn giữa sự điên loạn, kì dị và hồn thơ tinh tế. Tuy nhiên khi đi sâu hơn vào cái vô định, tiềm thức, cái kì dị ấy thì đằng sau sự điên loạn ấy là khát khao về một tình yêu với đời, với con người. Hàn Mặc Tử có nhiều tác phẩm tiêu biểu nhưng tập "Gái quê" là tập duy nhất được in khi ông còn sống còn các tập khác được in khi ông đã ra đi. Có thể nói chính cuộc sống bất hạnh, nổi đau thể xác vì bệnh tật hay sự không thành trong mối tình với nữ sĩ Hoàng Cầm, đơn phương Hoàng Thị Kim Cúc là nguồn tác động sâu sắc đến phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử. Sự sống tuy bó hẹp và dừng lại mãi mãi ở độ tuổi 28 nhưng chúng ta không thể phủ nhận tài năng vô hạn của ông, sự điên loạn hay kì dị ấy đôi khi chỉ có Hàn Mặc Tử mới chạm tới được. 2. Tác phẩm Khi ông đang đấu tranh với căn bệnh ác liệt, khi chật vật với nổi đau thể xác lẫn tinh thần, khi sự sống đếm trên đầu ngón tay và niềm tin đã lụi tàn thì chính khoảnh khắc đó ông nhận được bức thư của bà Hoàng Thị Kim Cúc, đó là lời hỏi thắm sức khỏe kèm theo là tấm bưu thiếp in phong cảnh xứ Huế, chính tấm bưu thiếp ấy đã tác động đến nội tâm sâu của Hàn Mặc Tử, đã đánh thức khát khao còn ít ỏi trong ông, ông nhớ Huế và nhớ về nửa cuộc đời của mình đã từng sống và gắn bó với Huế. Bà Hoàng Thị Kim Cúc là người con gái làng Vĩ Dạ, là mối tình mà Hàn Mặc Tử đơn phương. Bài thơ chia ra thành ba phần, tương ứng với ba khổ thơ. Nội dung bài thơ là sự vận động về mặt không - thời gian, đồng thời bài thơ cũng là sựu vận động về mặt tâm trạng của tác giả, phù hợp với câu đánh giá "càng đi sâu càng ớn lạnh". Mạch liên kết nội dung ba phần tưởng đứt nối, nhảy cóc nhưng đó cũng chính là ý đồ và phong cách của Hàn Mặc Tử, từ hiện thực trong tâm tưởng càng đi sâu lại càng đến sựu hư vô, hư vô như chính trong trại phong Quy Hòa- nơi mà tác giả dưỡng bệnh và cũng chính là nơi tác giả từng ỏ và từng đặt hồn mình trở về Huế xưa. B. LUYỆN TẬP 1. Phân tích khổ 1 bài thơ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền" Hàn Mặc Tử là hồn thơ tài hoa độc đáo có sức sáng tạo mãnh liệt của phong trào thơ mới. Hàn Mặc Tử đã có một quan niệm rất thú vị về sứ mệnh của thi nhân: "Nhà thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo". Làm thơ, theo ông là "nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng". Với quan niệm ấy, Hàn Mặc Tử đã đưa vào thơ của mình tất cả những gì trong sáng nhất, huyền diệu nhất của đời sống tự nhiên và thế giới tinh thần. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong những bài thơ hay và đẹp của Hàn Mặc Tử, thể hiện khá rõ quan niệm trên. Với tác phẩm này nói chung và khổ thơ thứ nhất nói riêng, Hàn Mặc Tử đã tái hiện một bức tranh nên thơ về xứ Huế, đồng thời gửi vào đó tiếng lòng thiết tha của nhà thơ với thiên nhiên, con người và cuộc sống. Kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử có liên quan đến một địa danh nổi tiếng của xứ Huế: Thôn Vĩ Dạ. Vĩ Dạ là một thôn nhỏ nằm bên bờ sông Hương. Vĩ Dạ mang những nét đặc trưng của xứ Huế với kiến trúc nhà vườn độc đáo. Ở đây có những khu vườn cây trái xanh tươi, được chăm chút, cắt tỉa đẹp như những công trình nghệ thuật. Đến thăm Vĩ Dạ có lần Xuân Diệu đã so sánh mỗi kiến trúc nhà vườn với một bài thơ Tiếng Việt. Ngay từ thời còn là học sinh trung học ở Huế, Hàn Mặc Tử đã có nhiều kỉ niệm về Vĩ Dạ, về những khu vườn nơi đây. Đặc biệt, trong thời gian làm ở sở đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử thầm yêu Hoàng Cúc, con gái ông chủ sở, người gốc Huế. Sau này, vì những biến động cuộc sống, ông đã không gặp lại người con gái ấy, cùng lúc biết mình mang bệnh. Một ngày kia, nhà thơ nhận được tấm bưu ảnh của Hoàng Cúc trên có in khung cảnh Vĩ Dạ.. có lẽ đây là những nguyên cớ trực tiếp khơi gợi niềm cảm hứng sáng tạo để thi nhân viết lên kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ". Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" mở ra bằng một câu hỏi vời vợi nhớ mong: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Không biết đó là lời mời chào pha chút trách móc của người con gái Vĩ Dạ hay là lời độc thoại nội tâm của nhà thơ? Chỉ biết rằng câu hỏi ấy đã làm sống dậy biết bao hoài niệm tươi đẹp của Hàn Mặc Tử về cảnh vườn xưa thôn Vĩ. Những kỉ niệm sâu đậm của nhà thơ với xứ Huế khiến ta dễ nghĩ rằng, dường như có một thôn Vĩ mà chỉ cần gợi một lời ở đầu môi, tự nó hiện ra như một khối pha lê trong suốt. Câu thơ giống như một cánh cửa vườn lòng vừa hé mở, dịu dàng mà tha thiết để rồi người đọc như được đắm mình vào bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp nơi Vĩ Dạ. Nhớ về xứ huế mộng mơ, trong tâm tưởng của Hàn Mặc Tử bất chợt sống dậy màu nắng nguyên khôi, chiếu rọi những hàng cau nơi vườn xưa Vĩ Dạ: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Câu thơ mở ra khoảng thời gian trong trẻo, tươi tắn nhất của một ngày: Sáng sớm. Chọn khoảnh khắc đó làm khung cảnh nền cho bức tranh thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên một khu vườn tuyệt đẹp, với hàng cau, nắng mới, với những nhánh cành xanh mướt sương đêm. Hồn thơ của Hàn Mặc Tử bị thu hút trước hết bởi vẻ đẹp của màu nắng trong vườn. Đó không phải là cái nắng oi ả của trưa hè, cũng không phải cái nắng vàng vọt của hoàng hôn mà là "nắng mới". "Nắng mới" là nắng trinh nguyên của buổi sớm mai, sáng đẹp, tươi tắn, mở ra bao nhiêu sự sống, bao sự khởi đầu đẹp đẽ, đáng yêu. Câu thơ của Hàn Mặc Tử khiến ta nhớ đến màu nắng trong trẻo trong thơ Lưu Trọng Lư: Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội, Áo đỏ người đưa trước giậu phơi. (Nắng mới) Nắng của kỉ niệm được nhắc đến hai lần trong một câu thơ gợi ấn tượng về sự tràn ngập của màu nắng trong vườn. Nó làm bừng sáng cả câu thơ và nghe như tiếng reo vui của thi sĩ. Hồn thơ của Hàn Mặc Tử bị thu hút không chỉ bởi vẻ đẹp của nắng mới, mà còn bởi vẻ đẹp của những hàng cau thẳng tắp, những tàu lá cau còn ướt đẫm sương đêm, vươn lên để đón nắng ban mai và tất cả đang ánh lên những tia phản quang lấp lánh của mặt trời buổi sớm. Hàng cau ấy đã trở thành nơi thu nhận, hội tụ những gì rực rỡ nhất của buổi bình minh. Cả khu vườn mĩ lệ ấy đắm chìm trong nắng mai tạo nên một sắc xanh kì diệu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Câu thơ mang dáng dấp của một tiếng reo vui ngỡ ngàng của thi nhân trước vẻ đẹp quá đỗi trong trẻo của vườn cây. Tính từ "mướt" gợi lên vẻ mượt mà, tươi non, óng ả của màu xanh trong vườn còn ướt đẫm sương đêm. Dưới sự tỏa chiếu của mặt trời buổi sớm, sắc xanh ấy ngời lên "như ngọc". Biện pháp so sánh mang tính chất lí tưởng hóa này càng góp phần làm bật lên vẻ đẹp đầy sức sống của vườn cây. Những xúc cảm mãnh liệt đó đã giúp Hàn Mặc Tử hiện tại hóa quá khứ, khiến cho những cảnh tượng trong hoài niệm như hiện ra trước mắt trong dáng vẻ sống động, tươi tắn. Cảnh sắc thôn Vĩ trong bài thơ đã thành vẻ đẹp tượng trưng cho cuộc sống tinh khôi, tươi mát ngoài đời đang vẫy gọi nhà thơ. Bức tranh phong cảnh càng sống động hơn, hữu tình hơn với sự xuất hiện của con người: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Người Vĩ Dạ ưa vẻ đẹp thanh cao, vì thế họ thường trồng những khóm trúc quân tử ven các lối đi trong vườn. Những cây trúc thanh tú đã gợi ra khát vọng hướng tới sự thanh cao của các chủ nhân. Nhà thơ Bích Khê từng có cảm xúc về những khóm trúc Vĩ Dạ: Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn Biếc che cành trúc không buồn mà say. (Huế đa tình) Hàn Mặc Tử không trực tiếp tả trúc như Bích Khê khi mà mượn vẻ thanh mảnh của trúc để gợi nên nét đẹp đoan trang phúc hậu của người thiếu nữ Huế. Ta đã từng gặp hình ảnh thiếu nữ bên hoa đào, thiếu nữ bên hoa sen, nàng tiên vin cành mẫu đơn trong truyện "Từ Thức gặp tiên" và lần đầu tiên trong thơ Hàn Mặc Tử ta mới gặp hình ảnh cô gái bên khóm trúc. Có lẽ vẻ thùy mị, phúc hậu đoan trang của người thiếu nữ càng lộ rõ khi thấp thoáng ẩn hiện sau vòm lá trúc. Chất thơ của bức tranh toát ra từ mối quan hệ giữa người và cảnh. Thiên nhiên và con người đẹp một vẻ hài hòa kín đáo. Đó chính là vẻ đẹp riêng gợi lên cái hồn xứ Huế. Vĩ Dạ đẹp đến vậy, đáng yêu đến vậy mà "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" Đằng sau câu thơ ấy là tâm trạng bâng khuâng, tiếc nuối, là khao khát đến cháy bỏng được trở về thăm vườn cũ, người xưa của thi nhân. Hố sâu ngăn cách giữa Hàn Mặc Tử với mọi người vì bệnh tật hiểm nghèo khiến nhà thơ vô cùng cô đơn, tuyệt vọng. Còn gì buồn hơn nhớ mà không thể về, mong mà không thể gặp? Có đặt mình trong cảnh ngộ của thi sĩ, mới thấy hết, thấm hết nỗi niềm chất chứa trong sâu thẳm tâm hồn ông lúc này. Để rồi thương ông hơn, con người luôn mang trong mình một tình yêu đến cháy bỏng hướng về cuộc đời trần thế, về sự sống bình thường. Như vậy, với giọng thơ thấm đẫm chất trữ tình lãng mạn, ngôn từ, hình ảnh thơ hàm súc, mới lạ, sự vận dụng khéo léo câu hỏi tu từ, Hàn Mặc Tử đã làm sống dậy trong khổ thơ thứ nhất bức tranh cảnh và người xứ Huế đẹp đẽ, thơ mộng. Đằng sau bức tranh phong cảnh ấy là tâm trạng bâng khuâng, tiếc nuối của một con người yêu tha thiết xứ Huế mộng mơ, là lòng tha thiết yêu đời, yêu người của một hồn thơ đau thương đầy bi kịch. 2. Phân tích khổ 2 bài thơ: Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? Hàn Mặc Tử là hồn thơ tài hoa độc đáo có sức sáng tạo mãnh liệt của phong trào thơ mới. Hàn Mặc Tử đã có một quan niệm rất thú vị về sứ mệnh của thi nhân: "Nhà thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo". Làm thơ, theo ông là "nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng". Với quan niệm ấy, Hàn Mặc Tử đã đưa vào thơ của mình tất cả những gì trong sáng nhất, huyền diệu nhất của đời sống tự nhiên và thế giới tinh thần. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong những bài thơ hay và đẹp của Hàn Mặc Tử, thể hiện khá rõ quan niệm trên. Với tác phẩm này nói chung và khổ thơ thứ hai nói riêng, Hàn Mặc Tử đã tái hiện một bức tranh nên thơ về xứ Huế, đồng thời gửi vào đó tiếng lòng thiết tha của nhà thơ với thiên nhiên, con người và cuộc sống. Kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử có liên quan đến một địa danh nổi tiếng của xứ Huế: Thôn Vĩ Dạ. Vĩ Dạ là một thôn nhỏ nằm bên bờ sông Hương. Vĩ Dạ mang những nét đặc trưng của xứ Huế với kiến trúc nhà vườn độc đáo. Ở đây có những khu vườn cây trái xanh tươi, được chăm chút, cắt tỉa đẹp như những công trình nghệ thuật. Đến thăm Vĩ Dạ có lần Xuân Diệu đã so sánh mỗi kiến trúc nhà vườn với một bài thơ Tiếng Việt. Ngay từ thời còn là học sinh trung học ở Huế, Hàn Mặc Tử đã có nhiều kỉ niệm về Vĩ Dạ, về những khu vườn nơi đây. Đặc biệt, trong thời gian làm ở sở đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử thầm yêu Hoàng Cúc, con gái ông chủ sở, người gốc Huế. Sau này, vì những biến động cuộc sống, ông đã không gặp lại người con gái ấy, cùng lúc biết mình mang bệnh. Một ngày kia, nhà thơ nhận được tấm bưu ảnh của Hoàng Cúc trên có in khung cảnh Vĩ Dạ.. có lẽ đây là những nguyên cớ trực tiếp khơi gợi niềm cảm hứng sáng tạo để thi nhân viết lên kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ". Xứ Huế mộng mơ cứ dần dần hiển hiện trong tâm tưởng của Hàn Mặc Tử như một cuốn phim hồi ức. Vì thế, sau những hoài niệm về vườn xưa Vĩ Dạ trong nắng mai hồng (khổ thơ đầu) là cảnh sông nước Hương giang vào buổi chiều hôm và đêm trăng tĩnh lặng: Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? Cảnh sắc thiên nhiên mở ra trong những câu thơ này thấm đượm một vẻ buồn vắng, hiu hắt, nhất là hai câu thơ vẽ cảnh chiều tàn. Bức tranh thơ có gió mây, sông nước nhưng mây gió lại chia lìa đôi ngả, dòng sông trôi lững lờ buồn bã. Có một cái gì đó như là nghịch lí, trái với lẽ tự nhiên trong hình ảnh: Gió theo lối gió, mây đường mây . Mây – gió vốn song hành, gió thổi, mây trôi. Vậy mà những đám mây ở đây như trôi ngược chiều gió thổi. Mây và gió được sắp xếp ở hai vế tiểu đối, lại thêm dấu phẩy giữa dòng đã gợi ra cảm giác về sự tan tác, chia phôi. Cảnh vật chia phôi, hay lòng người buồn vì sự chia phôi của chính mình? Có phải Hàn Mặc Tử đang chạnh lòng nghĩ đến sự xa cách với người con gái thôn Vĩ, hay cảm giác lìa xa dần sự sống thế gian? Không ai biết, ai hiểu hơn chính nhân vật trữ tình. Chỉ biết, câu thơ đã để lại âm hưởng mênh mang, buồn hiu hắt. Âm hưởng buồn vắng mơ hồ này cũng là âm hưởng đặc trưng của thơ ca lãng mạn. Xuân Diệu chẳng từng than thở: "Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn chẳng hiểu vì sao tôi buồn". Hay Huy Cận cũng từng trải lòng buồn theo từng con sóng: "Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp" đó sao? Sự chia lìa của gió mây cũng khiến cho dòng nước "buồn thiu". Thực ra sông nước đâu có biết buồn. Chỉ người buồn mà gán cho thiên nhiên những nỗi buồn tâm trạng của chính mình mà thôi. Nguyễn Du từng nói: "Cảnh nao cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" Khi gán cho dòng sông tâm trạng "buồn thiu", Hàn Mặc Tử vừa gợi tả trạng thái êm trôi, lững lờ của dòng sông xứ Huế, trạng thái mà có nhà văn từng so sánh "như điệu slow dành riêng cho Huế", vừa tạo hồn cho con sông, biến nó thành một sinh thể sống có linh hồn, có cảm xúc. Nghệ thuật nhân hóa được dùng một cách hữu hiệu góp phần biểu đạt những rung động tinh tế của một hồn thơ đa cảm trước khung cảnh thiên nhiên gợi tình. Nước buồn thiu, hoa bắp lay nhè nhẹ và lòng người bâng khuâng. Cảnh hoa bắp khẽ lay đã tạo nên một nét buồn phụ họa với gió mây khiến cho cảnh thơ càng hiu hắt hơn, buồn vắng hơn. Câu thơ của Hàn Mặc Tử gợi nhớ đén tứ thơ buồn của Trúc Thông: "Lá ngô lay ở bờ sông Bờ sông vẫn gió người không thấy về" (Bờ sông vẫn gió) Đối diện với thế giới hiu hắt, lạc điệu và trống vắng ấy trái tim nhà thơ lắng xuống trong một cảm giác cô đơn, u sầu. Không tìm thấy sự hài hòa trong cảnh chiều tàn, nhà thơ đi tìm sự đồng điệu trong thế giới huyền ảo của ánh trăng: "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?" Trong thơ Hàn Mặc Tử, ta đã từng gặp rất nhiều những đêm trăng, nhưng chưa ở đâu cảnh trăng đêm lại huyền ảo, thơ mộng như đêm trăng xứ Huế trong những câu thơ này, cho dẫu ta vẫn gặp ở đó những hình ảnh rất đỗi quen thuộc của miền sông nước: Một dòng sông, một bến nước, một con thuyền.. Những cảnh vật bình thường ấy đã được tắm trong vùng ánh sáng của cảm hứng lãng mạn nên trở thành kì diệu khác thường. Dưới ánh trăng, không gian bỗng trở thành hư ảo như trong thế giớ cổ tích xa xưa. Ở đó, có người, có thuyền nhưng không xác định (thuyền ai). Còn bến thì cũng thật hư vô, kì ảo (bến sông trăng). Nào ai biết bến sông trăng định vị nơi nào trên dòng Hương giang diễm ảo của Hàn Mặc Tử? Ngay cả dòng sông thơ ấy cũng biến thành dòng sông trăng. Trăng từ vô hình thành hữu hình, từ xa xôi đến gần gũi: Trăng trên trời, trăng dưới nước, trăng trên con thuyền đậu bến.. thật diễm ảo biết bao! Trong cảm xúc thẩm mĩ của Hàn Mặc Tử, trăng đã trở thành biểu tượng cho cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên, trăng cũng tượng trưng cho ước mơ hạnh phúc, tình yêu: "Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu Đợi gió đông về để lả lơi" "Trăng lạnh quá, ánh trăng không sáng mấy Cho nên chăn chiếu vẫn so le" Trong bài thơ này, khi nhà thơ nói đến hình ảnh con thuyền đậu trên bến sông trăng thì cũng là lúc thi nhân cháy lên niềm khao khát về sự hội ngộ, giao duyên. Nhưng lời thơ lại cất lên như một câu hỏi vô vọng. Hai câu thơ sau của khổ thơ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm lo âu, phấp phỏng về sự lỡ làng, muộn màng, không kịp. Nhà thơ như ngậm ngùi cay đắng bởi quỹ thời gian sống của mình đang bị vơi cạn đi từng ngày, và cuộc chia lìa vĩnh viễn có thể đến bất cứ lúc nào. Với một người bình thường nếu không trở về tối nay thì còn nhiều những đêm khác, nhưng với Hàn Mặc Tử nếu thuyền không trở về tối nay, không có sự tri âm thì thi sĩ sẽ ra đi vĩnh viễn trong đau buồn. Chỉ một chữ "kịp" câu thơ cuốì cùng đã nói lên nỗi niềm khắc khoải, nhức nhói đó. Và niềm lo âu về sự muộn màng không kịp ấy đã khiến cho cảm xúc thơ trở nên da diết, u buồn. Những xúc cảm trĩu nặng trong thế giới tâm hồn thi sĩ ấy đã được biểu đạt đầy ám ảnh bởi giọng thơ buồn da diết, bút pháp gợi tả, hình ảnh tinh tế và những biện pháp nghệ thuật như: Phép tiểu đối, phép nhân hóa, sử dụng câu hỏi tu từ.. So với khổ thơ thứ nhất, cảnh trong khổ thơ thứ hai đã chuyển biến đột ngột: Lạc lõng, chia li và bồng bềnh hư ảo như trong cõi mộng. Đằng sau bức tranh phong cảnh ấy là niềm khát khao giao cảm với đời, là tình yêu thiết tha hướng về cuộc đời trần thế của Hàn Mặc Tử. Đồng thời, qua khổ thơ, ta cũng hiểu được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của một con người luôn phải đối diện với nỗi ám ảnh bởi bệnh tật và cái chết – nỗi ám ảnh đã làm nên một phần thế giới nghệ thuật của thơ Hàn: Một mai kia ở bên khe nước ngọc Với sao sương anh nằm chết như trăng Chẳng tìm thấy nàng tiên mô đến khóc Đến thương anh và rửa vết thương tâm. 3. Phân tích khổ cuối: Hàn Mặc Tử là hồn thơ tài hoa độc đáo có sức sáng tạo mãnh liệt của phong trào thơ mới. Hàn Mặc Tử đã có một quan niệm rất thú vị về sứ mệnh của thi nhân: "Nhà thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo". Làm thơ, theo ông là "nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng". Với quan niệm ấy, Hàn Mặc Tử đã đưa vào thơ của mình tất cả những gì trong sáng nhất, huyền diệu nhất của đời sống tự nhiên và thế giới tinh thần. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong những bài thơ hay và đẹp của Hàn Mặc Tử, thể hiện khá rõ quan niệm trên. Với tác phẩm này nói chung và khổ thơ cuối nói riêng, Hàn Mặc Tử đã tái hiện một bức tranh nên thơ về thiên nhiên và con người xứ Huế, đồng thời gửi vào đó tiếng lòng thiết tha của nhà thơ với thiên nhiên, con người và cuộc sống. Trong phong trào thơ mới, Hàn Mặc Tử là một nhà thơ khá đặc biệt. Nhớ đến Hàn Mặc Tử là nhớ đến một cuộc đời ngắn ngủi đầy bi kịch. Vì mắc bệnh hiểm nghèo, ông phải ra đi khi vừa hai mươi tám xuân xanh. Nhớ đến ông là nhớ đến một con người tài hoa mà đau thương tột đỉnh. Nhớ đến những vần thơ như có linh hồn và những câu thơ đau buồn mà trong sáng, đầy hư ảo mà đẹp một cách lạ lùng. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ trong số không nhiều bài thơ như thế của Hàn Mặc Tử. Bài thơ có ba khổ, cũng là ba cấp độ khác nhau của cảnh vật và lòng người, và tất cả đều gợi lên một Vĩ Dạ như thực như mơ đẹp đến nao lòng và cái nên thơ nhất là cảm xúc da diết với cuộc đời, xốn xang với tình người của Hàn Mặc Tử cứ ẩn hiện sau mỗi dòng thơ. Ba khổ của bài thơ tưởng như rời rạc nhưng vẫn liên kết với nhau bởi đều là cảm nhận của nhà thơ về cảnh sắc và con người Vĩ Dạ. Nếu khổ thơ đầu mở ra với cảm xúc vui tươi gắn liền với không gian thực – không gian khu vườn; khổ hai thoắt đã "buồn thiu" và không gian cảnh vật thực nhưng đã nhuốm màu hư ảo thì ở khổ thơ cuối, không gian đã mờ ảo sương khói như trong cõi mộng và cảm xúc thơ cũng khắc khoải, da diết hơn: Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà? Trong khổ một, hình ảnh trung tâm của bức tranh thôn Vĩ là cảnh vườn xưa Vĩ Dạ rực rỡ đầy sức sống, còn ở khổ hai là cảnh đêm trăng mộng ảo thì đến khổ ba, hình ảnh người thiếu nữ áo trắng lại trở thành hình ảnh trung tâm. Người con gái ấy là ai? Nương theo những vẫn thơ mà Hàn Mặc Tử để lại, thì người con gái ấy chính là Hoàng Thị Kim Cúc - cô gái gốc Huế, quê Vĩ Dạ, là con gái của chủ Sở Đạc điền Quy Nhơn. Trong thời gian làm việc ở đây, Hàn Mặc Tử thầm yêu Hoàng Cúc. Sau này, vì những biến động cuộc sống, Hàn Mặc Tử đã không gặp lại cô. Khi biết mình mang bệnh, thì cơ hội gặp lại càng mong manh, mơ hồ. Một ngày kia, khi đang nằm bệnh ở Quy Hòa, Quy Nhơn nhà thơ nhận được tấm bưu ảnh của Hoàng Cúc trên có in khung cảnh Vĩ Dạ.. có lẽ đây là những nguyên cớ trực tiếp khơi gợi niềm cảm hứng sáng tạo để thi nhân viết lên kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ", cũng là nguyên cớ để những vần thơ rung lên trong khắc khoải: "Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra" Như vậy, cho đến thời điểm này, ánh nắng đã trở thành xa xôi, ánh trăng lịm tắt và người trong mộng đã trở thành ảnh ảo. Mặc dù sự sống trôi dần vào bế tắc, nhưng Hàn Mặc Tử vẫn luôn hướng về cuộc đời với khát khao sống mãnh liệt. Càng bế tắc, càng bị cuộc đời tuyệt giao, thi sĩ càng yêu đời thiết tha, đắm say đến đau đớn. Ao ước trở về thôn Vĩ không thành, thi sĩ lại mơ tưởng đến người thương thôn Vĩ: "Mơ khách đường xa, khách đường xa" . "Mơ" là khát khao, là mong mỏi. Thi sĩ mơ về "khách đường xa" – có lẽ là người con gái mà Hàn Mặc Tử thầm thương trộm nhớ. Điệp ngữ "khách đường xa" lặp lại đến hai lần cho thấy khát vọng mãnh liệt của nhà thơ. "Khách đường xa" đã trở thành vầng sáng lung linh trong tâm trí, trở thành nơi mà cả tâm tưởng nhà thơ hướng về. Nhưng thật xót xa, trong giấc mơ, người thương đã thành "khách đường xa" – xa xôi và cách trở. Đó không chỉ là khoảng cách của không gian, đó còn là hố sâu của mặc cảm mà thi sĩ biết mình chẳng có cách nào vượt qua. Vì thế, câu thơ như lời gọi, lời cảm thán chất chứa biết bao nhiêu mặc cảm chia li, xa cách, vô vọng. Nhịp thơ 4/3 càng gợi lên ấn tượng về sự chia li, ngăn cách ấy. Ta tưởng như trong giấc mộng của thi sĩ, bóng dáng người xưa vừa hiện lên đã mờ dần, khuất xa, mất hút để lại khoảng trống vắng nơi trái tim đau thương. Câu thơ tự sự mà mang âm diệu của tiếng nấc nghẹn ngào, của lời than chới với, hụt hẫng. Khách đường xa – người con gái xứ Huế hiện lên trong tâm tưởng nhà thơ với sắc áo trắng đầy ám ảnh: "Áo em trắng quá nhìn không ra" . Trong văn hóa truyền thống, màu áo trắng thường tượng trưng cho vẻ đẹp trong sáng, thánh thiện của người thiếu nữ. Trong thơ của mình, Hàn Mặc Tử cũng nhiều lần nói đến sắc áo trắng của người con gái. Với nhà thơ, cô gái áo trắng ấy là nơi hội tụ những gì kì diệu nhất, đẹp đẽ nhất của xứ Huế. Nhưng buồn thay, người con gái ấy dù đẹp đẽ, thánh thiện, nhưng chỉ là hình ảnh trong ảo mộng, mong manh, khó nắm bắt. Nên không phải ngẫu nhiên, nhà thơ lại tuyệt đối hóa sắc trắng của màu áo đến mức "nhìn không ra". Câu thơ không chỉ đơn giản là lời thú nhận bất lực về thị giác mà là bất lực về tâm hồn của một trái tim phải cách xa cuộc đời ngoài kia cả một khoảng không gian, thời gian xa xôi vời vợi. Và thực tại đau thương, bất hạnh bị cuộc đời tuyệt giao ấy tiếp tục được gợi lên trong câu thơ thứ ba: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh "Ở đây" là vùng biển Quy Hòa, nơi nhà thơ nằm bệnh, nơi lắm khói, nhiều sương, không gian chìm trong mịt mờ sương khói. Hình bóng con người vì thế cũng như lẫn vào cõi hư vô. Ranh giới giữa sự sống và cái chết cũng rất đỗi mong manh. Hơn lúc nào hết, Hàn Mặc Tử đã nhận thấy sự cách biệt vời vợi giữa "xứ Huế" và "ở đây", giữa quá khứ và hiện tại, giữa nhà thơ và người con gái Vĩ Dạ. Sự cách biệt này càng khiến cho nỗi tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử thêm nhức nhối. Câu thơ của Hàn Mặc Tử như chất chứa nỗi niềm đau đáu của một kiếp người bị lãng quên: Tôi đang ở đây hay ở đâu Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu Chính trong giây phút nhận thức thấm thía ấy, nhà thơ càng thấy rõ sự mong manh, vô vọng trong tình yêu đơn phương của mình. Giữa nhà thơ và cô gái Huế là sương khói của thời gian và không gian cách biệt, là tình yêu chưa có lời hẹn ước. Vì thế làm sao biết được tình ai có đậm đà hay không: Ai biết tình ai có đậm đà? Nhà thơ băn khoăn không biết tình cảm của người con gái Huế kia có "đậm đà" hay chăng? Đại từ phiếm chỉ "ai" ở hai ngôi khác nhau đã tô đậm sự băn khoăn, nghi ngờ ấy. Có biết bao tiếc nuối, xót xa nghẹn ngào trong câu thơ của Hàn Mặc Tử - câu thơ đau đáu nỗi đau nhân tình của một kiếp nhân sinh ngắn ngủi. Đến đây, lời độc thoại nội tâm ngưng bặt. Cảm xúc trữ tình chỉ còn rung lên trong câm lặng một nỗi niềm bâng khuâng day dứt pha chút oán trách giận hờn. Tình ai, ai biết.. – đại từ phiếm chỉ "ai" đã biến tiếng nói nội tâm riêng tư của Hàn Mặc Tử thành câu hỏi ngàn đời dành cho những trái tim đang khao khát yêu thương, khao khát sự đồng cảm, đồng điệu. Tuy nhiên, câu thơ còn bao hàm trong nó một nét nghĩa khác. Có thể hiểu nét nghĩa ấy là "Em có biết tình anh vẫn đậm đà". Hiểu thư thế, câu thơ là lời khẳng định tình cảm tha thiết, sâu đậm mà thi sĩ luôn dành cho người em Vĩ Dạ. Dù hiểu theo nghĩa nào, ta cũng thấy đằng sau câu thơ là tiếng lòng thi sĩ thiết tha yêu đời, yêu người và khát khao sự đồng cảm, đồng điệu đến cháy bỏng. "Thơ đi từ cái thực đến cái ảo ảnh, từ cái ảo ảnh đến cái huyền diệu, từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Bao trùm cả bài thơ là thế giới mơ". Đó là quan niệm của Hàn Mạc Tử về thơ và có lẽ điều đó chính là dành để nói về bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ". Vì vậy, khổ thơ cuối, cảnh đã hóa ảo mờ để cái tình lộ diện. Cái kín đáo làm như khách thể ở khổ một, cái mông lung không xác định ở khổ hai dường như lộ rõ trong câu thơ kết: Tất cả nghi hoặc, ao ước, mong chờ.. chỉ vì một "tình ai" không biết có đậm đà, sâu nặng? "Đi tìm cái đẹp của cõi thực, cõi thực hờ hững. Đi tìm sự đồng cảm đồng điệu trong cõi mộng, cõi mộng hư ảo, mù mịt. Cho nên đắm say rồi nguội lạnh, băng giá, mộng rồi tỉnh. Đó là lô gic vận động tâm trạng của một cái Tôi ham sống, yêu đời trong Đây thôn Vĩ Dạ". Lời bình của nhà văn Lã Nguyên đã khái quát mạch cảm xúc của cả bài thơ, và điểm lắng đọng nhất của dòng cảm xúc trữ tình ấy chính là khổ thơ cuối. Lắng đọng nhưng vẫn đầy dư âm ngậm ngùi, da diết. Làm nên đặc sắc của khổ thơ nói riêng và thi phẩm nói chung phải kể đến giọng thơ buồn da diết, những câu hỏi tu từ đặc sắc, biện pháp tả thực kết hợp với tượng trưng gợi lên nhiều trường liên tưởng cho thơ. Nhờ sự kết hợp độc đáo theo phong cách Tây phương ấy, khổ thơ mang vẻ đẹp huyền ảo mà trong sáng, thực và hư hòa quyện tạo nên vẻ riêng cho cảm xúc. Xuyên suốt khổ thơ, bài thơ là bóng dáng tâm trạng nhân vật trữ tình – một con người yêu tha thiết xứ Huế thơ mộng nhưng cũng buồn đau bởi mối tình vô vọng. Chính nỗi đau của thể xác, chính niềm vô vọng về sự sống và tình yêu đã đẩy những dòng huyết lệ tràn lên ngòi bút, kết thành áng thơ tuyệt đẹp mà lóng lánh đau thương. Hàn Mặc Tử là hồn thơ tài hoa độc đáo có sức sáng tạo mãnh liệt của phong trào thơ mới. Hàn Mặc Tử đã có một quan niệm rất thú vị về sứ mệnh của thi nhân: "Nhà thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo". Làm thơ, theo ông là "nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng". Với quan niệm ấy, Hàn Mặc Tử đã đưa vào thơ của mình tất cả những gì trong sáng nhất, huyền diệu nhất của đời sống tự nhiên và thế giới tinh thần. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong những bài thơ hay và đẹp của Hàn Mặc Tử, thể hiện khá rõ quan niệm trên. Với tác phẩm này nói chung và khổ thơ cuối nói riêng, Hàn Mặc Tử đã tái hiện một bức tranh nên thơ về thiên nhiên và con người xứ Huế, đồng thời gửi vào đó tiếng lòng thiết tha của nhà thơ với thiên nhiên, con người và cuộc sống. Trong phong trào thơ mới, Hàn Mặc Tử là một nhà thơ khá đặc biệt. Nhớ đến Hàn Mặc Tử là nhớ đến một cuộc đời ngắn ngủi đầy bi kịch. Vì mắc bệnh hiểm nghèo, ông phải ra đi khi vừa hai mươi tám xuân xanh. Nhớ đến ông là nhớ đến một con người tài hoa mà đau thương tột đỉnh. Nhớ đến những vần thơ như có linh hồn và những câu thơ đau buồn mà trong sáng, đầy hư ảo mà đẹp một cách lạ lùng. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ trong số không nhiều bài thơ như thế của Hàn Mặc Tử. Bài thơ có ba khổ, cũng là ba cấp độ khác nhau của cảnh vật và lòng người, và tất cả đều gợi lên một Vĩ Dạ như thực như mơ đẹp đến nao lòng và cái nên thơ nhất là cảm xúc da diết với cuộc đời, xốn xang với tình người của Hàn Mặc Tử cứ ẩn hiện sau mỗi dòng thơ. Ba khổ của bài thơ tưởng như rời rạc nhưng vẫn liên kết với nhau bởi đều là cảm nhận của nhà thơ về cảnh sắc và con người Vĩ Dạ. Nếu khổ thơ đầu mở ra với cảm xúc vui tươi gắn liền với không gian thực – không gian khu vườn; khổ hai thoắt đã "buồn thiu" và không gian cảnh vật thực nhưng đã nhuốm màu hư ảo thì ở khổ thơ cuối, không gian đã mờ ảo sương khói như trong cõi mộng và cảm xúc thơ cũng khắc khoải, da diết hơn: Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà? Trong khổ một, hình ảnh trung tâm của bức tranh thôn Vĩ là cảnh vườn xưa Vĩ Dạ rực rỡ đầy sức sống, còn ở khổ hai là cảnh đêm trăng mộng ảo thì đến khổ ba, hình ảnh người thiếu nữ áo trắng lại trở thành hình ảnh trung tâm. Người con gái ấy là ai? Nương theo những vẫn thơ mà Hàn Mặc Tử để lại, thì người con gái ấy chính là Hoàng Thị Kim Cúc - cô gái gốc Huế, quê Vĩ Dạ, là con gái của chủ Sở Đạc điền Quy Nhơn. Trong thời gian làm việc ở đây, Hàn Mặc Tử thầm yêu Hoàng Cúc. Sau này, vì những biến động cuộc sống, Hàn Mặc Tử đã không gặp lại cô. Khi biết mình mang bệnh, thì cơ hội gặp lại càng mong manh, mơ hồ. Một ngày kia, khi đang nằm bệnh ở Quy Hòa, Quy Nhơn nhà thơ nhận được tấm bưu ảnh của Hoàng Cúc trên có in khung cảnh Vĩ Dạ.. có lẽ đây là những nguyên cớ trực tiếp khơi gợi niềm cảm hứng sáng tạo để thi nhân viết lên kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ", cũng là nguyên cớ để những vần thơ rung lên trong khắc khoải: "Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra" Như vậy, cho đến thời điểm này, ánh nắng đã trở thành xa xôi, ánh trăng lịm tắt và người trong mộng đã trở thành ảnh ảo. Mặc dù sự sống trôi dần vào bế tắc, nhưng Hàn Mặc Tử vẫn luôn hướng về cuộc đời với khát khao sống mãnh liệt. Càng bế tắc, càng bị cuộc đời tuyệt giao, thi sĩ càng yêu đời thiết tha, đắm say đến đau đớn. Ao ước trở về thôn Vĩ không thành, thi sĩ lại mơ tưởng đến người thương thôn Vĩ: "Mơ khách đường xa, khách đường xa" . "Mơ" là khát khao, là mong mỏi. Thi sĩ mơ về "khách đường xa" – có lẽ là người con gái mà Hàn Mặc Tử thầm thương trộm nhớ. Điệp ngữ "khách đường xa" lặp lại đến hai lần cho thấy khát vọng mãnh liệt của nhà thơ. "Khách đường xa" đã trở thành vầng sáng lung linh trong tâm trí, trở thành nơi mà cả tâm tưởng nhà thơ hướng về. Nhưng thật xót xa, trong giấc mơ, người thương đã thành "khách đường xa" – xa xôi và cách trở. Đó không chỉ là khoảng cách của không gian, đó còn là hố sâu của mặc cảm mà thi sĩ biết mình chẳng có cách nào vượt qua. Vì thế, câu thơ như lời gọi, lời cảm thán chất chứa biết bao nhiêu mặc cảm chia li, xa cách, vô vọng. Nhịp thơ 4/3 càng gợi lên ấn tượng về sự chia li, ngăn cách ấy. Ta tưởng như trong giấc mộng của thi sĩ, bóng dáng người xưa vừa hiện lên đã mờ dần, khuất xa, mất hút để lại khoảng trống vắng nơi trái tim đau thương. Câu thơ tự sự mà mang âm diệu của tiếng nấc nghẹn ngào, của lời than chới với, hụt hẫng. Khách đường xa – người con gái xứ Huế hiện lên trong tâm tưởng nhà thơ với sắc áo trắng đầy ám ảnh: "Áo em trắng quá nhìn không ra" . Trong văn hóa truyền thống, màu áo trắng thường tượng trưng cho vẻ đẹp trong sáng, thánh thiện của người thiếu nữ. Trong thơ của mình, Hàn Mặc Tử cũng nhiều lần nói đến sắc áo trắng của người con gái. Với nhà thơ, cô gái áo trắng ấy là nơi hội tụ những gì kì diệu nhất, đẹp đẽ nhất của xứ Huế. Nhưng buồn thay, người con gái ấy dù đẹp đẽ, thánh thiện, nhưng chỉ là hình ảnh trong ảo mộng, mong manh, khó nắm bắt. Nên không phải ngẫu nhiên, nhà thơ lại tuyệt đối hóa sắc trắng của màu áo đến mức "nhìn không ra". Câu thơ không chỉ đơn giản là lời thú nhận bất lực về thị giác mà là bất lực về tâm hồn của một trái tim phải cách xa cuộc đời ngoài kia cả một khoảng không gian, thời gian xa xôi vời vợi. Và thực tại đau thương, bất hạnh bị cuộc đời tuyệt giao ấy tiếp tục được gợi lên trong câu thơ thứ ba: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh "Ở đây" là vùng biển Quy Hòa, nơi nhà thơ nằm bệnh, nơi lắm khói, nhiều sương, không gian chìm trong mịt mờ sương khói. Hình bóng con người vì thế cũng như lẫn vào cõi hư vô. Ranh giới giữa sự sống và cái chết cũng rất đỗi mong manh. Hơn lúc nào hết, Hàn Mặc Tử đã nhận thấy sự cách biệt vời vợi giữa "xứ Huế" và "ở đây", giữa quá khứ và hiện tại, giữa nhà thơ và người con gái Vĩ Dạ. Sự cách biệt này càng khiến cho nỗi tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử thêm nhức nhối. Câu thơ của Hàn Mặc Tử như chất chứa nỗi niềm đau đáu của một kiếp người bị lãng quên: Tôi đang ở đây hay ở đâu Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu Chính trong giây phút nhận thức thấm thía ấy, nhà thơ càng thấy rõ sự mong manh, vô vọng trong tình yêu đơn phương của mình. Giữa nhà thơ và cô gái Huế là sương khói của thời gian và không gian cách biệt, là tình yêu chưa có lời hẹn ước. Vì thế làm sao biết được tình ai có đậm đà hay không: Ai biết tình ai có đậm đà? Nhà thơ băn khoăn không biết tình cảm của người con gái Huế kia có "đậm đà" hay chăng? Đại từ phiếm chỉ "ai" ở hai ngôi khác nhau đã tô đậm sự băn khoăn, nghi ngờ ấy. Có biết bao tiếc nuối, xót xa nghẹn ngào trong câu thơ của Hàn Mặc Tử - câu thơ đau đáu nỗi đau nhân tình của một kiếp nhân sinh ngắn ngủi. Đến đây, lời độc thoại nội tâm ngưng bặt. Cảm xúc trữ tình chỉ còn rung lên trong câm lặng một nỗi niềm bâng khuâng day dứt pha chút oán trách giận hờn. Tình ai, ai biết.. – đại từ phiếm chỉ "ai" đã biến tiếng nói nội tâm riêng tư của Hàn Mặc Tử thành câu hỏi ngàn đời dành cho những trái tim đang khao khát yêu thương, khao khát sự đồng cảm, đồng điệu. Tuy nhiên, câu thơ còn bao hàm trong nó một nét nghĩa khác. Có thể hiểu nét nghĩa ấy là "Em có biết tình anh vẫn đậm đà". Hiểu thư thế, câu thơ là lời khẳng định tình cảm tha thiết, sâu đậm mà thi sĩ luôn dành cho người em Vĩ Dạ. Dù hiểu theo nghĩa nào, ta cũng thấy đằng sau câu thơ là tiếng lòng thi sĩ thiết tha yêu đời, yêu người và khát khao sự đồng cảm, đồng điệu đến cháy bỏng. "Thơ đi từ cái thực đến cái ảo ảnh, từ cái ảo ảnh đến cái huyền diệu, từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Bao trùm cả bài thơ là thế giới mơ". Đó là quan niệm của Hàn Mạc Tử về thơ và có lẽ điều đó chính là dành để nói về bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ". Vì vậy, khổ thơ cuối, cảnh đã hóa ảo mờ để cái tình lộ diện. Cái kín đáo làm như khách thể ở khổ một, cái mông lung không xác định ở khổ hai dường như lộ rõ trong câu thơ kết: Tất cả nghi hoặc, ao ước, mong chờ.. chỉ vì một "tình ai" không biết có đậm đà, sâu nặng? "Đi tìm cái đẹp của cõi thực, cõi thực hờ hững. Đi tìm sự đồng cảm đồng điệu trong cõi mộng, cõi mộng hư ảo, mù mịt. Cho nên đắm say rồi nguội lạnh, băng giá, mộng rồi tỉnh. Đó là lô gic vận động tâm trạng của một cái Tôi ham sống, yêu đời trong Đây thôn Vĩ Dạ". Lời bình của nhà văn Lã Nguyên đã khái quát mạch cảm xúc của cả bài thơ, và điểm lắng đọng nhất của dòng cảm xúc trữ tình ấy chính là khổ thơ cuối. Lắng đọng nhưng vẫn đầy dư âm ngậm ngùi, da diết. Làm nên đặc sắc của khổ thơ nói riêng và thi phẩm nói chung phải kể đến giọng thơ buồn da diết, những câu hỏi tu từ đặc sắc, biện pháp tả thực kết hợp với tượng trưng gợi lên nhiều trường liên tưởng cho thơ. Nhờ sự kết hợp độc đáo theo phong cách Tây phương ấy, khổ thơ mang vẻ đẹp huyền ảo mà trong sáng, thực và hư hòa quyện tạo nên vẻ riêng cho cảm xúc. Xuyên suốt khổ thơ, bài thơ là bóng dáng tâm trạng nhân vật trữ tình – một con người yêu tha thiết xứ Huế thơ mộng nhưng cũng buồn đau bởi mối tình vô vọng. Chính nỗi đau của thể xác, chính niềm vô vọng về sự sống và tình yêu đã đẩy những dòng huyết lệ tràn lên ngòi bút, kết thành áng thơ tuyệt đẹp mà lóng lánh đau thương.