Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh + Thứ nhất: Một cảnh "đắt" trời cho – một cảnh tượng tuyệt đẹp mà thiên nhiên, cuộc sống đã ban tặng cho con người. Cảnh ấy không phải người nghệ sĩ nào cũng "chụp" được trong cuộc đời cầm máy săn lùng cái đẹp. Đó là hình ảnh chiếc thuyền ẩn hiện trong biển sớm mờ sương có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào, "từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích". Với người nghệ sĩ, khung cảnh đó chứa đựng "chân lí của sự hoàn thiện". Nó dấy lên trong Phùng những xúc cảm thẩm mĩ, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, trở nên trong trẻo, tinh khôi. Cái đẹp, trong trường hợp này, đã thanh lọc tâm hồn con người. + Thứ hai: Một cảnh tượng phi thẩm mĩ bước ra từ chiếc thuyền đẹp như "một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ" ấy là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một gã đàn ông to lớn, dữ dằn, phi nhân tính. Gã chồng đánh đập người vợ một cách thô bạo; đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của ông ta.. Cảnh tượng này hoàn toàn trái ngược với cảnh tượng vừa diễn ra trước đó, nó giống như một trò đùa quái ác của cuộc sống, làm cho Phùng "ngơ ngác" không tin vào mắt mình. Anh kinh ngạc, sững sờ, chết lặng bởi cái xấu, cái ác lại hiện hữu ngay trước mắt, ngay sau cái đẹp kì diệu kia. Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn muốn phát biểu: Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà luôn chứa đựng nhiều nghịch lí, luôn tồn tại những mặt đối lập, mâu thuẫn. Chính vì thế, con người, nhất là người nghệ sĩ, không nên vội đánh giá con người, sự vật, hiện tượng ở dáng vẻ bên ngoài mà phải phát hiện ra bản chất thực sau vẻ ngoài ấy. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện + Đó là câu chuyện về cuộc đời nhiều bí ẩn và éo le của một người đàn bà hàng chài nghèo khổ, lam lũ mà ẩn chứa bao phẩm chất tốt đẹp. Người đàn bà hàng chài đến tòa án để nghe chánh án Đầu khuyên bảo và đề nghị từ bỏ người chồng vũ phu. Nhưng chị đã từ chối và sẵn sàng đánh đổi mọi giá để không phải li hôn. Bởi, cho dù vũ phu, nhưng hắn vẫn là chỗ dựa quan trọng cho chị; hơn thế, con chị – hạnh phúc lớn nhất của đời chị – cần có bố để được nuôi dưỡng; vả lại, trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái hòa thuận, vui vẻ.. + Câu chuyện đã giúp chánh án Đẩu hiểu ra rất nhiều điều. Trong anh "có một cái gì mới vừa vỡ ra". Còn nghệ sĩ Phùng nhận thấy người đàn bà hàng chài là một phụ nữ nghèo khổ, nhẫn nhục nhưng không ngờ nghệch; rất kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Tuy bề ngoài thô kệch nhưng chị có tâm hồn đẹp đẽ, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Anh hiểu hơn về người bạn chiến đấu năm xưa – chánh án Đầu, hiểu thêm rằng lòng tốt và pháp luật là rất cần thiết nhưng phải được xem xét trong những hoàn cảnh cụ thể. Nghệ sĩ Phùng cũng hiểu thêm về chính mình: Sẵn sàng làm tất cả vì sự công bằng nhưng lại đơn giản trong cách nhìn nhận, suy nghĩ về cuộc đời và con người. Qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài và cách ứng xử của các nhân vật, nhà văn muốn gửi đến người đọc thông điệp: Đừng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc, hiện tượng trong các mối quan hệ đa diện, nhiều chiều. Vẻ đẹp mẫu tính qua hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài Mẫu tính là bản năng chăm lo, bảo vệ sự sống của con người; là tình thương bẩm sinh. Mẫu tính là bản năng sinh ra sự sống và bản năng hi sinh cho sự sống bằng tất cả những cưu mang, chăm lo, che chở và cả xả thân nữa. Nếu cái đẹp là sự sống thì mẫu tính là nguồn cội của sự sống. Sâu thẳm trong tâm hồn người đàn bà hàng chài quê mùa, lam lũ, nhẫn nhục, cam chịu, chính là vẻ đẹp mẫu tính sáng ngời. Nhân vật người đàn bà hàng chài được nhà văn Nguyễn Minh Châu khắc họa sắc nét theo lối tương phản giữa bên trong và bên ngoài, giữa thân phận và phẩm chất. Đằng sau vẻ xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng và giàu đức hi sinh. Đằng sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục đến không thể nào hiểu được lại là một bản lĩnh kiên cường, là sự can đảm của người mẹ chắt chiu khát vọng hạnh phúc đời thường. Và đằng sau vẻ quê mùa, thất học của một người đàn bà lao động bình thường lại là sự thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Tấm ảnh được chọn trong "bộ lịch năm ấy" Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, nghệ sĩ Phùng vẫn thấy "hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai" – đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật. Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh – đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là góc khuất của sự thật cuộc đời, buộc những người có lương tri phải trăn trở. Qua tấm ảnh được chọn trong "bộ lịch năm ấy", Nguyễn Minh Châu thể hiện những suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống: Nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li mà phải gắn với cuộc đời và vì cuộc đời. Tình huống truyện độc đáo Tình huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Nghệ sĩ Phùng đã có những phát hiện về một cảnh "đắt" trời cho của thiên nhiên xen cài với một cảnh oái oăm, ngang trái của gia đình hàng chài. Anh đã phát hiện ra chân lí của nghệ thuật, khám phá nhiều điều bí ẩn về cuộc sống và con người. Qua đó, hiểu hơn về những người lao động trên biển, về người bạn chiến đấu cũ và chính bản thân mình. Cách kể và ngôn ngữ thích hợp Nhà văn lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp, làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách; lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu là cây bút tiên phong trong thời kì đổi mới với nhiều tác phẩm truyện ngắn xuất sắc. Các tác phẩm văn học của ông luôn chứa đựng những triết lý, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời. Và truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất mang đậm phong cách tự sự – triết lý của ông. "Chiếc thuyền ngoài xa" được viết vào năm 1983 kể về nhân vật Phùng – một người nghệ sĩ nhiếp ảnh. Anh được giao nhiệm vụ chụp một bộ ảnh về cảnh biển để in lên bộ lịch mới nên anh đã thực hiện chuyến đi thực tế ở một vùng biển – nơi từng là chiến trường cũ của mình để kiếm tìm cảm hứng nghệ thuật. Và tại đây, anh đã có được hai phát hiện lớn lao, một là một bức ảnh tuyệt đẹp mà anh cho là cảnh "đắt giá trời cho" khiến anh phải say mê, ngây ngất, hai là phát hiện về một sự thật trần trụi đến đau lòng ngay đằng sau vẻ đẹp hoàn mỹ anh vừa tìm ra. Sau vài ngày "phục kích" săn ảnh mà vẫn chưa ưng ý, cuối cùng Phùng cũng "bắt gặp" được một khung cảnh "trời cho", đó là bức ảnh với những nét đẹp hoàn mỹ nhất: "Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ." Khung cảnh ấy thật quá đẹp và với Phùng, đó là một "bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ", nó vừa đẹp đẽ lại vừa quý giá vô cùng. Bức tranh ấy "đơn giản và toàn bích", một vẻ đẹp, một khung cảnh hoàn hảo đến diệu kì. Phùng nghĩ rằng "có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh đắt trời cho như vậy". Trước khung cảnh hoàn mỹ ấy, anh cảm thấy sự bồi hồi và có chút bối rối bởi cái đẹp ấy dường như chỉ có trong những bức họa xa xưa, nó khiến anh cảm thấy "trái tim như có cái gì bóp thắt vào". Và chính khoảnh khắc ấy, Phùng cảm thấy dường như "chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn", và anh còn cho rằng phải chăng "cái đẹp chính là đạo đức". Bởi cái đẹp nó không chỉ mang đến cho con người ta những rung động mà còn thanh lọc tâm hồn và mang đến "hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình". Phải nói rằng, Phùng là một người nghệ sĩ tâm huyết có đam mê, trách nhiệm với nghề, bởi để có được một bức ảnh ưng ý nhất, anh đã sẵn sàng "phục kích" hàng tuần liền trên biển, dù đã chụp được rất nhiều ảnh về cảnh biển nhưng anh đều không ưng ý mà tiếp tục tác nghiệp. Hơn thế, anh cũng là một người nghệ sĩ nhạy cảm với cái đẹp để có thể khám phá, phát hiện ra một bức tranh hoàn mỹ để mà thu lấy, mà cái đẹp ấy chỉ diễn ra trong tích tắc. Thế nhưng, lại ít ai để ý rằng, nơi mà Phùng gác chiếc máy ảnh của mình để thu trọn cái cảnh đẹp toàn mỹ kia chẳng phải là một nơi có thể bao quát được toàn cảnh mà lại chỉ là bên một "bánh xích của chiếc xe tăng" – tàn tích của chiến tranh xưa để lại. Có lẽ chính vì thế mà lần đầu tiên nhìn thấy cảnh đẹp ấy, Phùng mới chỉ nhìn thấy vẻ ngoài của khung cảnh mà không phải là toàn bộ bức ảnh. Và những phát hiện, những sự thật phía sau bức ảnh "toàn bích" kia đã khiến anh bất ngờ và hụt hẫng vô cùng. Đó là khi Phùng phải chứng kiến một cảnh đời vô cùng tàn nhẫn, ngang trái và bi kịch. Từ trong những con thuyền ấy bước ra một người đàn ông cao to thô lỗ và một người đàn bà tội nghiệp. Gã đàn ông ấy "hùng hổ, mặt đỏ gay", rút chiếc thắt lưng của mình ra và "quật tới tấp vào lưng người đàn bà", vừa đánh lại vừa nói ra những lời nguyền rủa độc ác: "Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!" Mà thật kì lạ làm sao, người đàn bà ấy vẫn ngồi đó chẳng chút phản kháng, cũng chẳng kêu than một tiếng nào, chỉ "cam chịu đầy nhẫn nhục", hứng chịu từng trận đòn roi. Chứng kiến cảnh đó, Phùng đã vô cùng kinh ngạc, anh chỉ biết "đứng há mồm ra mà nhìn". Bởi anh không thể hiểu được cái điều nghịch lý đang diễn ra trước mắt mình. Anh từng là một người lính ở chiến trường đầy khói lửa. Những sự dã man, tàn bạo nhất, anh đều đã từng chứng kiến, thế nhưng cảnh tượng vô lí trước mắt vẫn khiến anh khó lòng mà chấp nhận. Càng kinh ngạc hơn khi hình ảnh của một đứa bé lao vút qua người anh, rồi giằng lấy chiếc thắt lưng và quật vào ngực người đàn ông kia. Đứa bé đó là Phác, là đứa con trai của hai vợ chồng người đàn bà đáng thương đó. Và đáp lại hành động đó là hai cái tát nảy lửa giáng xuống mặt thằng bé khiến nó ngã nhào. Khi thấy cảnh này, người đàn bà hàng chài mới bật khóc, ôm lấy đứa con nhỏ tội nghiệp và rồi lại buông ra, vội vã đuổi theo gã đàn ông và trở lại con thuyền. Tất cả những sự việc diễn ra trước mắt khiến Phùng ngơ ngác và khó hiểu, sự việc quái đản diễn ra quá bất ngờ khiến anh chẳng thể nào hiểu nổi. Chiếc thuyền kia đã biến mất "như trong câu chuyện cổ quái đản", nhưng lại để lại trong Phùng những cảm xúc khó diễn tả, để lại cho anh nhiều điều băn khoăn, nhiều điều bối rối. Cái hiện thực trần trụi đến đau lòng mà anh vừa chứng kiến đã thay đổi cảm quan của anh. Anh phát hiện ra rằng dường như ranh giới giữa cái đẹp và cái xấu, cái hoàn mỹ và cái dã man tàn độc chỉ cách nhau một tấm màn mỏng. Một bức tranh tuyệt mỹ như vậy nhưng ẩn chứa trong nó là bao nhiêu cái dã man, tàn nhẫn và xấu xa vô cùng. Nó cũng là những điều cần chiêm nghiệm mà nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm, ông cho rằng nghệ thuật tuy hướng về cái đẹp nhưng nó cũng phải gắn liền với hiện thực dù nó có trần trụi đến mức nào. Không thể lấy cái đẹp mà che giấu đi những điều xấu xa, tàn ác bên trong được. Và một người nghệ sĩ chân chính phải là người có cái nhìn đa chiều, đa diện, nhìn thấu cả cái đẹp bên ngoài và cả nội dung phía trong nữa. Sau khi chứng kiến cảnh bạo lực gia đình vô cùng dã man và vô lí ấy, Phùng đã ở lại bãi biển vài ngày để giúp đỡ người đàn bà ấy. Anh cùng Đẩu muốn khuyên giải người đàn bà ly hôn để thoát khỏi cuộc hôn nhân "địa ngục". Thế nhưng người đàn bà ấy đến tòa án huyện với một vẻ sợ sệt, lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt, dù rằng đây là lần thứ hai chị đến đây để giải quyết chuyện gia đình. Phải sống trong địa ngục trần gian đầy đau đớn với những trận đòn roi liên tục: "Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" từ người chồng, thế nhưng chị ta lại nhẫn nhịn cam chịu những tổn thương về cả thể xác và tinh thần chứ một mực không chịu bỏ chồng, thậm chí chị còn van xin người ta đừng bắt mình bỏ chồng: "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó.." Ban đầu, Phùng và Đẩu vô cùng bất bình và cũng thấy ngạc nhiên trước thái độ và hành động không sao hiểu nổi của người đàn bà, thế nhưng khi lắng nghe câu chuyện về cuộc đời của chị và về người đàn ông kia, hai người bỗng hiểu ra tất cả. Khi kể về câu chuyện cuộc đời mình, người đàn bà ấy đã đổi cách xưng hô: Từ "con" với "quý tòa" sang "chị" với "các chú", điều này thể hiện rằng người đàn bà ấy muốn tâm sự với họ như những người em thân thiết, cũng muốn trải lòng với sự chân thành của mình. Chị chấp nhận sống cùng người chồng vũ phu, độc ác và cam chịu những trận đòn roi vô lí ấy là bởi chị biết ơn và cũng hiểu được tâm tính cùng nỗi khổ của người chồng. Người đàn ông vũ phu ấy trước kia cũng đã từng là "một anh con trai cục tính nhưng hiền lành", ông ta cũng là người duy nhất đã chấp nhận cưu mang người phụ nữ xấu xí, quá lứa lỡ thì là chị ta. Bởi vậy, với người chồng bạo tàn, hung dữ hiện tại, người đàn bà không chỉ có sự thấu hiểu, tình nghĩa mà còn có lòng biết ơn sâu sắc. Những lời kể chân thật của người đàn bà đã khiến cho cả hai người họ sững sờ. Lúc này họ mới chợt hiểu ra tấm lòng của một người phụ nữ, nó bao dung và giàu hy sinh đến nhường nào! Người đàn bà ấy thấu hiểu bản chất thật và sự thay đổi của người chồng, nó cũng chỉ vì cái đói cái khổ mà ra, lại còn đẻ nhiều con nên người chồng mới trở nên cục cằn, bạo lực như thế. Chị cũng hiểu về cuộc sống vất vả, cực khổ trên biển, một con thuyền lênh đênh trên biển không thể thiếu đi bàn tay chèo lái của người đàn ông, nhất là khi biển động, bão bùng, sóng gió. Và sự cam chịu của chị càng trở nên có ý nghĩa hơn khi sự cam chịu hy sinh ấy sẽ giúp cho những đứa con mình có một gia đình hoàn chỉnh, có đủ bố mẹ. Đó là vẻ đẹp mẫu tính sáng ngời từ sâu thẳm trong tâm hồn người đàn bà hàng chài quê mùa, lam lũ, nhẫn nhục, cam chịu. Nhân vật người đàn bà hàng chài được nhà văn Nguyễn Minh Châu khắc họa sắc nét theo lối tương phản giữa bên trong và bên ngoài, giữa thân phận và phẩm chất. Đằng sau vẻ xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng và giàu đức hy sinh. Đằng sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục đến không thể nào hiểu được lại là một bản lĩnh kiên cường, là sự can đảm của người mẹ chắt chiu khát vọng hạnh phúc đời thường. Và đằng sau vẻ quê mùa, thất học của một người đàn bà lao động bình thường lại là sự thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Câu chuyện của người đàn bà cùng khổ ấy đã giúp Phùng và Đẩu hiểu rõ rằng nguồn gốc, căn nguyên của bạo lực gia đình chính là cái nghèo, cái đói. Phùng ngỡ ngàng nhận ra bản chất xù xì, thô nhám của hiện thực, đó có thể là những nghịch lí, những sự thật trái ngang vẫn tồn tại trong cuộc sống mà nếu chỉ nhìn qua vẻ bề ngoài, quan sát bằng đôi mắt hời hợt, phiến diện thì không thể nhận ra. Hiện thực ấy cũng giúp Phùng chiêm nghiệm ra một chân lý rằng: Nghệ thuật không thể chỉ có lãng mạn, đẹp đẽ và thi vị hóa, mà nó đôi khi còn có cả sự thật đầy ngang trái, nghịch lý. Sau khi trở về tòa soạn và bức ảnh kia đã được chọn thì trong lòng Phùng lại luôn canh cánh, ẩn chứa những điều mà ít ai có thể thấu hiểu. Bức ảnh ấy đã diễn tả một cảnh đẹp tinh khôi, hoàn mỹ và trở thành bức ảnh nghệ thuật sáng giá "được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật" . Thế nhưng, chỉ riêng Phùng mới có thể nhìn thấy từ đằng sau bức tranh đẹp đẽ ấy bước ra "một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch". Ở đây, Nguyễn Minh Châu đã cố ý lồng ghép vào đó những hình ảnh mang tính biểu tượng: "Màu hồng hồng của ánh sương mai" chính là biểu tượng cho cái đẹp, cho cái thơ mộng, cho vẻ đẹp toàn bích, hoàn mỹ mà con người ta luôn tìm kiếm; hình ảnh người đàn bà hàng chài với dáng vẻ mệt mỏi, tiều tụy, đau khổ là hiện thực, là cái nhìn có chiều sâu, khám phá vào tận sâu bên trong bản chất của sự vật, hiện tượng, để thấy được những điều ẩn chứa sâu bên trong cái đẹp và có đôi khi, cái nằm ở sâu bên trong ấy lại trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp bên ngoài. Nhà văn lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp, làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách; lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa. Với tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm những giá trị nhân văn sâu sắc. Đó là nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực, không được tách rời với hiện thực và người nghệ sĩ chân chính phải là người có cái nhìn đa chiều, đa diện để phát hiện ra bản chất thật bên trong vẻ đẹp bề ngoài rực rỡ, hào nhoáng.
Nghệ thuật Chiếc thuyền ngoài xa ngắn gọn - Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện, bút pháp miêu tả sống động, từ ngữ gợi hình, ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật - Diễn biến tình tiết giàu kịch tính, chi tiết đối lập.. - Nghệ thuật khắc họa nhân vật - Giọng văn chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở, nét đặc trưng không thể nhầm lẫn với ai khác của Nguyễn Minh Châu - Giọng điệu thay đổi linh hoạt: Lúc say sưa hùng biện, lúc hài hước tự trào, lúc khách quan tiết chế, lúc trầm lắng suy tư - Những câu văn miêu tả giàu chất trữ tình, nhịp chậm, ngữ điệu trầm; những so sánh mở ra trường liên tưởng nhiều lo âu, day dứt - Lời văn giản dị, mộc mạc mà nhiều dư vị
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu có sức hấp dẫn riêng biệt, nhà văn khẳng định bản sắc cá nhân nghệ sĩ bằng nét phong cách kết hợp hài hòa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn, hình tượng nhân vật được soi thấu trong mối quan hệ đa chiều, phức tạp nhưng hòa hợp và thống nhất trong tư tưởng đề cao tôn vinh những giá trị cuộc sống của nhà văn. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là một trong những sáng tác tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác thứ hai (sau năm 1980) của nhà văn. Quan niệm nghệ thuật về con người luôn được nhà văn chú ý đến để miêu tả, lí giải, đánh giá, cảm nhận, nâng đỡ, trân trọng. Cùng với nhiều truyện ngắn khác như: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Những người đi từ trong rừng ra, Bên đường chiến tranh, Lửa từ những ngôi nhà, Mảnh đất tình yêu, Cỏ lau, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa cho thấy nét độc đáo của phong cách Nguyễn Minh Châu khi miêu tả người phụ nữ. Cùng với những đổi mới trong quan niệm và cách tiếp cận hiện thực và con người, ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã có nhiều tìm tòi, thể nghiệm để đổi mới cách viết, mà nổi lên là nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật. Tương ứng với sự mở rộng các loại hình nhân vật trong sáng tác sau 1975, Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc sử dụng nhiều thủ pháp khắc họa nhân vật, mà đặc sắc hơn cả là miêu tả tâm lý, sử dụng độc thoại nội tâm. Nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu cũng có nhiều tìm tòi. Đáng chú ý là sự nới lỏng cốt chuyện, tạo tình huống, việc thay đổi linh hoạt điểm nhìn trần thuật, sử dụng thường xuyên các biểu tượng và đổi mới giọng điệu trần thuật. Chất trữ tình được thể hiện ở những bức tranh thiên nhiên, được miêu tả bằng ngòi bút tinh tế, gợi cảm và thường mang tính biểu tượng. Bút pháp của Nguyễn Minh Châu đa dạng, tinh tế và giàu chất tạo hình trong miêu tả, linh hoạt, biến hóa trong lối kể chuyện, sắc sảo trong miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật, đặc sắc trong việc sử dụng các hình ảnh biểu tượng.
Nghệ thuật kể chuyện trong Chiếc thuyền ngoài xa Người kể chuyện là nhân vật chính, Phùng, người nghệ sĩ nhiếp ảnh xuất thân là lính. Nhưng có lúc, người kể chuyện lại là người đàn bà hàng chài. Cách kể như vậy đem lại sự chân thực, sinh động của lời kể. Đây là nghệ thuật kể chuyện giúp cho câu chuyện được kể linh hoạt, hấp dẫn. Cảnh người chồng đánh vợ, tất nhiên sẽ chân thực hơn nếu nhìn từ góc độ của người chứng kiến và từ góc nhìn đó, dễ hiểu phản ứng của người chứng kiến: "Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới." Người kể chuyện vừa kể sự việc, vừa bình luận, phân tích tâm lí chính mình, ví dụ: "Chỉ mấy lời mào đầu ấy, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác, ngôn ngữ khác. Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khôn khổ, không phải dễ nghe đốì với chúng tôi: Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một người đáng lẽ mụ phải biết ơn.." Khi người đàn bà hàng chài trong vai người kể chuyện thì việc lí giải sự nhẫn nhịn của chị ta mới chân thực, gây được bất ngờ cho người đọc. Trong đoạn này, xen kẽ lời kể của "tôi" - tức nhân vật Phùng - với lời kể của người đàn bà. Chị ta tự kể về mình, tự phân tích tâm lí mình, tự đánh giá cách hành xử của mình, gây bất ngờ ngạc nhiên, làm sụp đổ những thành kiến cũ của Phùng. Ngôn ngữ kể chuyện của người đàn bà hàng chài cũng thể hiện sự nhẫn nại, cam chịu của người phụ nữ đã bao năm quen với bạo lực gia đình. Có thể không dễ nghe nhưng chân thực, lời của một người lao động quen nói thật, nói thẳng ý nghĩ.
Chủ đề tư tưởng của Chiếc thuyền ngoài xa Chiếc thuyền ngoài xa toát lên hai chủ đề tư tưởng chính: - Chủ đề tư tưởng về quan niệm nghệ thuật: Sáng tạo nghệ thuật là một quá trình gian nan, người nghệ sĩ phải có tâm huyết và sự đam mê. Nghệ thuật không chấp nhận sự sao chép, đại khái. Nghệ thuật không thể tách rời thực tế. - Chủ đề tư tưởng về chân lý đời sống: Cuộc đời không hề đơn giản mà luôn tồn tại những nghịch lý; phải có cái nhìn tỉnh táo, độ lượng mới hiểu và thấy được bản chất tốt đẹp của mỗi con người.
Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống trong Chiếc thuyền ngoài xa Nghệ thuật chân chính cần bắt nguồn từ cuộc sống và con người, phải vì cuộc sống và và con người mà phát triển. Giữa cuộc sống và nghệ thuật luôn tồn tại khoảng trống, nếu nghệ thuật hời hợt chỉ phát hiện cái bên ngoài, cái bề nổi của sự vật thì chỉ giống như cái nhìn ngoài xa, một cái nhìn phiến diện. Do đó, Nguyễn Minh Châu đặt ra trách nhiệm của người nghệ sĩ: Để sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật đích thực, cần biết yêu thương, đồng cảm để khám phá ra bản chất bên trong con người, kéo gần mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa người nghệ sĩ và cuộc sống bình dân.