Nội dung chi tiết từng đoạn và nghệ thuật của đoạn trích "Việt Bắc" -Tố Hữu Đoạn thơ: Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay Bốn câu thơ mở đầu là lời của Việt Bắc hỏi người ra đi, khơi gợi kỷ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, nghĩa tình: Mình về mình có nhớ ta? * * * Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn Mở đầu là câu hỏi tu từ "Mình về mình có nhớ ta?" Trong câu hỏi này, "Mình" là chỉ người ra đi, "Ta" là chỉ người ở lại. Người ở lại hỏi người ra đi: Có nhớ "Ta" trong "mười lăm năm ấy" hay không? "Mười lăm năm ấy" là trạng ngữ chỉ thời gian, đó là thời gian chỉ độ dài gắn bó nhớ thương vô vàn giữa người đi kẻ ở. Thời gian ấy được tính từ năm 1940 sau khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10.1954 vừa đúng mười lăm năm. Đó là mười lăm năm "Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi". Bốn chữ "thiết tha mặn nồng" đã cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Hai câu đầu là gợi nhắc kỷ niệm mười lăm năm gắn bó, hai câu sau là lời nhắc nhở chân tình, lời dặn dò kín đáo mà rất đỗi thiết tha: Mình về mình có nhớ không? Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn Người ở lại hỏi "Mình về mình có nhớ không"? Hỏi là để gợi nhắc. Cách gợi nhắc này cho thấy được lời dặn dò kín đáo rất đỗi chân thành: Việt Bắc là cội nguồn Cách mạng, là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Xin người về đừng quên cội quên nguồn mà hãy luôn nhớ về nguồn cội. Câu thơ này phải chăng là sự vận dụng rất linh hoạt và tài tình của Tố Hữu với câu tục ngữ "Uống nước nhớ nguồn". Qua đó, nhà thơ cũng nhắc nhở thế hệ cháu con phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi cho ta hình hài. Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi nhớ thương, bịn rịn: Tiếng ai tha thiết bên cồn .. Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.. Hai câu đầu tác giả sử dụng hai từ láy "bâng khuâng" và "bồn chồn" để diễn tả tâm trạng người ra đi. "Bâng khuâng" có nghĩa là nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn (buồn vì phải xa VB, vui vì được trở lại quê hương của mình) mà buồn nhiều hơn vui. "Bồn chồn" là từ láy diễn tả tâm trạng cảm xúc day dứt, hồi hộp, nôn nao trong lòng khiến cho bước chân đi cũng ngập ngừng, bịn rịn không muốn chia xa. Buổi chia tay ấy có hình ảnh "Áo chàm đưa buổi phân ly" đầy cảm động. "Áo chàm" là màu áo nghèo khổ, bình dị của người dân Việt Bắc là hình ảnh hoán dụ để chỉ con người Việt Bắc. Đó là những con người nghèo khổ "hắt hiu lau xám" nhưng luôn "đậm đà lòng son" thủy chung, mặn nồng. Chính màu áo ấy, con người ấy đã góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hỏi làm sao người đi có thể quên được màu áo ân tình ấy? Câu thơ "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay" đầy tính chất biểu cảm. "Biết nói gì hôm nay.." không phải là không có gì để nói. Không nói được vì xúc động nghẹn ngào không thốt được nên lời. Những lời không nói ấy có lẽ đã nằm hết trong ba chữ "Cầm tay nhau". "Cầm tay" là biểu tượng của tình yêu thương đoàn kết. "Cầm tay" là đã đủ nói lên bao cảm xúc trong lòng rồi. Mặt khác, ba dấu chấm lửng đặt ở cuối câu như càng tăng thêm cái tình cảm mặn nồng ấy. Nó giống như nốt lặng trong một khuôn nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. Nghệ thuật: Thể thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo (Hoán dụ, câu hỏi tu từ). Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình). * * * Đoạn thơ mười hai câu thơ tiếp theo là lời tâm tình của Việt Bắc: Mình đi có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù Mình về có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai Mình về rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già Mình đi có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Mình về còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh Mình đi mình lại nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa Bốn câu thơ đầu là những câu thơ gợi nhắc đến những kỷ niệm kháng chiến gian khổ mà cán bộ và nhân dân đã từng trải qua: Mình đi có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù Mình về có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai – Điệp từ "nhớ" được lặp lại hai lần cùng với hai câu hỏi tu từ "có nhớ những ngày", "có nhớ chiến khu" đã khơi gợi những kỷ niệm gian khổ nhưng nghĩa tình: + Gian khổ khi phải chịu đựng thiên nhiên, thời tiết khắc nghiệt: "Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù". Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ để chỉ cảnh "ăn tuyết nằm sương", "nếm mật nằm gai" mà cán bộ và nhân dân phải chịu đựng. (so sánh thêm Tây Tiến) + Gian khổ vì thiếu thốn vật chất: "Miếng cơm chấm muối" – ăn không đủ no, mặc không đủ ấm "Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng" (liên hệ bài Tức cảnh Pắc Bó) – Tinh thần: Luôn lạc quan "gian nan đời vẫn ca vang núi đèo" bởi họ đang phải gánh vác nhiệm vụ nặng nề "mối thù nặng vai" – nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Cái chung luôn đặt trên cái riêng, đó là tinh thần lớn của thời đại. Bốn câu thơ tiếp theo, người Việt Bắc tiếp tục ghi khắc vào lòng của người ra đi bằng những câu hỏi tu từ khơi gợi những kỷ niệm gắn bó với thiên nhiên núi rừng kháng chiến và con người nặng nghĩa nặng tình: Mình về rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già Mình đi có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son – Kỷ niệm với thiên nhiên: "Rừng núi nhớ ai" – hình ảnh nhân hóa thể hiện tình cảm tha thiết. Cách nói "Trám bùi để rụng măng mai để già" toát lên nỗi bùi ngùi thương nhớ. Ở đây, không chỉ con người mang nỗi nhớ mà thiên nhiên cũng rất nặng nghĩa tình. – Kỷ niệm với con người: Nhà thơ hướng nỗi nhớ của mình về những con người Việt Bắc trong câu thơ "Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son". Câu thơ sử dụng phép tương phản: "Hắt hiu lau xám" là để chỉ những ngôi nhà của những con người áo chàm dân dã, bình dị những ngôi nhà nghèo khổ của đồng bào Việt Bắc. Nhưng bên trong những căn nhà ấy lại chứa đựng "tấm lòng son", tấm lòng nhân dân thủy chung, đậm đà luôn hướng về Cách mạng. Bốn câu thơ cuối, Việt Bắc gợi nhắc những sự kiện lịch sử gắn liền với những địa danh, những tên gọi đã trở thành điểm mốc của chiến khu: Mình về còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh Mình đi mình lại nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa – Câu hỏi tu từ thứ nhất: "Mình về, có nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh" + Câu thơ có sự liệt kê hình ảnh "núi non", liệt kê sự kiện "khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh" để nhắc nhở người về xuôi rằng: Việt Bắc là nơi có mặt trận Việt Minh lãnh đạo cách mạng đánh Pháp, đuổi Nhật, Việt Bắc là căn cứ quan trọng của cách mạng giải phóng dân tộc thời kì trước 1945. – Kết thúc đoạn thơ là một câu hỏi lạ: "Mình đi mình có nhớ mình". Đây là một cách nói sâu sắc. Từ "mình" thứ nhất và thứ hai chỉ người cán bộ về xuôi, từ "mình" thứ ba chỉ người Việt Bắc. Giữa người Việt Bắc và cán bộ như đã có sự gắn bó mật thiết, hòa nhập, tuy hai mà một. Hình ảnh liệt kê mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào chỉ hai địa danh gắn với hai sự kiện quan trọng trước cách mạng tháng Tám, nhằm khẳng định Việt Bắc chính là cái nôi cách mạng, là cội nguồn cách mạng. Nghệ thuật: Cả đoạn thơ có 7 chữ "mình" được lặp lại. Khi thì "mình đi", "mình về" rồi lại "mình về", "mình đi" rồi "mình đi mình lại nhớ".. tạo nên một giai điệu trữ tình luyến láy như khắc như chạm vào trong sâu thẳm tâm hồn người đi. Tác giả dùng từ "mình" kết hợp hai từ "đi – về" biến hóa, linh hoạt gợi ra một cuộc chia tay đầy lưu luyến. Điệp từ "có nhớ" là tâm tình người về với Việt Bắc. Thể thơ lục bát với âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng góp phần diễn tả tình cảm tha thiết của Việt Bắc với cách mạng, của con người Việt Nam trong kháng chiến. * * * Đoạn thơ tiếp theo diễn tả nỗi nhớ về những kỷ niệm kháng chiến của người cán bộ về xuôi: "Ta với mình, mình với ta .. Chày đêm nện cối đều đều suối xa.." Gợi ý phân tích Bốn câu thơ đầu, người cán bộ bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình với Việt Bắc. Đoạn thơ như một lời thề "đinh ninh hai mặt một lời" : "Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu" – Điệp từ "mình – ta" đảo vị trí cho nhau, tạo ấn tượng về sự quấn quýt, hòa quyện giữa người đi và kẻ ở. Trong đoạn thơ trước đó, người Việt Bắc hỏi: "Mình đi mình lại nhớ mình" thì câu thơ thứ ba của đoạn thơ này là lời đáp của người cán bộ. Ở đây, từ "mình" đã có sự chuyển nghĩa: Từ "mình" thứ nhất và thứ hai chỉ người cán bộ, từ "mình" thứ ba chỉ người Việt Bắc. Như vậy, không còn "ta" với "mình" nữa mà chỉ còn "mình" với "mình" thôi. Tố Hữu sử dụng từ "mình – ta" thật sâu sắc, góp phần diễn tả tình cảm sâu nặng giữa người cán bộ với Việt Bắc. – Từ láy "mặn mà", "đinh ninh" khẳng định tình cảm thủy chung, sâu nặng, trước sau không thay đổi. Lối so sánh "Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu" thật tinh tế, diễn tả tình cảm của người cán bộ với Việt Bắc là sâu nặng không kể hết. Những câu thơ còn lại là nỗi nhớ của người về. Trước hết, người cán bộ về xuôi nhớ thiên nhiên, nhớ cảnh vật Việt Bắc: "Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy" – Câu thơ thứ nhất diễn tả nỗi nhớ Việt Bắc, so sánh "như nhớ người yêu" là cách nói diễn tả nỗi nhớ da diết, cháy bỏng. "Nhớ người yêu" là nỗi nhớ đặc biệt. Ca dao từng nói: "Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa như ngồi đống than", "Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ". Nhà thơ Nguyễn Bính có câu: "Trời còn có bữa sao quên mọc/ Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em". Xuân Quỳnh thì viết: "Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức". Từ đó cho thấy người cán bộ về xuôi mang theo nỗi nhớ Việt Bắc sâu nặng, dạt dào, tha thiết. – Năm câu còn lại là đối tượng "nhớ" của cán bộ. Liệt kê các hình ảnh: "Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương", "bản khói cùng sương" chỉ cảnh thiên nhiên Việt bắc đẹp, thơ mộng. Câu thơ "Sớm khuya bếp lửa người thương đi về" gợi hình ảnh người lao động Việt Bắc vất vả "sớm khuya". Các từ "trăng lên – nắng chiều – sớm khuya" gợi nỗi nhớ sâu nặng, nỗi nhớ bao trùm cả thời gian. – Hình ảnh liệt kê: "Rừng nứa, bờ tre – ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê" cho thấy cảnh vật Việt Bắc phong phú, đa dạng. Cách dùng từ sâu sắc: "Rừng, bờ, ngòi, sông, suối" diễn tả nỗi nhớ dàn đều, rộng khắp, nhớ từ cái lớn đến cái nhỏ. Từ "vơi đầy" vừa chỉ mực nước của sông suối, vừa gợi nỗi nhớ vơi đầy, dào dạt. Không chỉ nhớ cảnh, người cán bộ về xuôi còn nhớ hình ảnh con người Việt Bắc: "Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô" – Hai câu thơ đầu, người đi khẳng định "ta đi ta nhớ" những tháng ngày "mình đây ta đó" với những "đắng cay ngọt bùi". Cụm từ "đắng cay ngọt bùi" là một ẩn dụ, chỉ gian khổ và niềm vui. Đây là sự gắn bó mật thiết giữa người về xuôi với Việt Bắc, cùng chịu đựng gian khổ, cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn. – Trong hai câu thơ tiếp, những từ "chia, sẻ, đắp cùng" gợi ra một hiện thực giản dị, người Việt Bắc luôn chia sẻ khó khăn, thiếu thốn cùng người cách mạng. Đó là tinh thần đồng cam cộng khổ để hướng đến nhiệm vụ chung. – Hai câu cuối là hình ảnh người mẹ Việt Bắc vất vả, cần cù, giàu tình yêu thương: "Nhớ người mẹ nắng cháy lưng/ Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô". Những câu thơ còn lại, người về nhớ hình ảnh chiến khu kháng chiến: "Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa" – Người về nhớ những tháng ngày ở chiến khu, cán bộ dạy chữ cho dân, cùng vui những đêm liên hoan văn nghệ. Nhớ những ngày tháng ở cơ quan, dẫu gian nan nhưng luôn lạc quan, "ca vang núi đèo". Đặc biệt, nhớ Việt Bắc là nhớ âm thanh đặc trưng là "tiếng mõ rừng chiều" và tiếng "chày đệm nện cối đều đều suối xa". Âm thanh ấy gợi lên vẻ đẹp thanh bình, yên ả ở Việt Bắc. – Ba câu lục đều có điệp từ "nhớ sao" có dáng dấp của những câu hỏi, thể hiện nỗi nhớ da diết, không thể nào quên của người cán bộ, chiến sĩ khi rời chiến khu Việt Bắc. Tổng kết nghệ thuật: Cả đoạn thơ, tác giả sử dụng điệp từ "nhớ" với cách kết hợp từ linh hoạt: "Nhớ gì.. nhớ từng.. ta nhớ.. nhớ người.. nhớ sao", cùng thể thơ lục bát có âm điệu sâu lắng, đã thể hiện sâu sắc nỗi nhớ, tình cảm sâu nặng của người cách mạng đối với cảnh và người Việt Bắc. * * * Đoạn thơ tiếp theo là nỗi nhớ về thiên nhiên bốn mùa tươi đẹp ở Việt Bắc. Cảnh đẹp bốn mùa ấy là một "Bộ tranh tứ bình" đa màu sắc: Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợ giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung Gợi ý phân tích Hai câu thơ mở đầu mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là cảm xúc nhớ nhung không nguôi về Việt Bắc: "Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người" – Mở đầu đoạn thơ là một câu hỏi tu từ bâng khuâng, thấm vào hồn người và cảnh vật. Vẫn là cách xưng hô "Ta – Mình" ngọt gợi nhiều cảm xúc. "Ta" chỉ người đi, "mình" chỉ người ở lại. Điệp từ "ta" được nhắc lại bốn lần cùng với từ "hoa" là âm "a" (âm mở) khiến cho dòng cảm xúc của người đi như bỗng trở nên mênh mang, sâu lắng hơn. Người về mang theo nỗi nhớ "những hoa cùng người". "Hoa" là vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc còn "người" là vẻ đẹp của con người lao động Việt Bắc. Bốn cặp câu tiếp theo, câu lục nhắc đến hoa thì câu bát lại nói đến người. Hoa và người đều hài hòa trong những câu thơ đầy lãng mạn, trẻ trung của hồn thơ Tố Hữu. Bức tranh mùa đông mở ra thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đầy sức sống: "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" – Sức sống mùa đông của Việt Bắc được gợi nên bởi màu xanh trầm tĩnh của đại ngàn (màu xanh là màu của sức sống chứ không phải là cánh rừng trụi lá). Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu "hoa chuối đỏ tươi" đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Màu đỏ là gam màu nóng, lại thêm "đỏ tươi" làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. – Bức tranh mùa đông càng sống động hơn bởi sự xuất hiện của con người: "Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng", ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất lương thực cung cấp cho kháng chiến. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở thắt lưng. Con người như một điểm hội tụ của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – "đèo cao". Tư thế ấy là tư thế của con người làm chủ: Làm chủ tự do, làm chủ lao động, làm chủ tình thế. Có thể nói, giữa hoang sơ tráng lệ, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang, con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc. Bức tranh mùa xuân lan tỏa và bừng sáng một sức sống hoang dại và mãnh liệt của hoa mơ: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang" – Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng. Động từ "nở" nằm ở giữa câu làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Nở trắng cả thời gian "ngày xuân", nở trắng cả không gian "trắng rừng". Như vậy là màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. – Dưới bóng hoa mơ dịu mát, thấp thoáng hình ảnh con người lao động với hoạt động "chuốt từng sợi giang". Người Việt Bắc đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày, đó là công việc đan nón bằng thủ công, một nghề truyền thống của Việt Bắc. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay và phẩm chất của con người lao động: Cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc tạo nên nét đáng yêu của con người làm chủ nơi đây. Bức tranh mùa hạ Việt Bắc óng vàng tựa như một bức tranh sơn mài vừa đậm chất cổ điển vừa mang những đường nét hiện đại: "Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình" – Câu thơ thứ nhất có hai hình ảnh: Tiếng ve và hoa phách. Tiếng ve là đặc trưng của mùa hạ. Hoa phách là đặc trưng của mùa hè Việt Bắc. "Chữ" đổ "được dùng thật chính xác, tinh tế. Nó vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt mưa hoa rừng phách khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện chính xác khoảnh khắc hè sang. Tác giả sử dụng nghệ thuật âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy cảnh thực mà vô cùng huyền ảo. – Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội:" Nhớ cô em gái hái măng một mình ". Hai chữ" một mình "mà vẫn không gợi lên cái cô đơn, hiu hắt bởi cô đang làm bạn với thiên nhiên tươi đẹp, đang làm chủ lao động, làm chủ tự do. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả. Ba chữ" măng – một – mình "đi liền với nhau tạo nên nhạc tính làm giọng thơ trở nên da diết bâng khuâng. Bức tranh mùa thu khép lại bộ tranh tứ bình bằng tiếng hát chia tay giã bạn để lại âm vang nghĩa tình kháng chiến: " Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung " – Chữ" rọi "rất hay, nó diễn tả được ánh trăng tràn ngập cả không gian bao la. Đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. – Giữa bao la ánh trăng vàng dịu mát ấy lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát" ân tình thủy chung "gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước. Tổng kết nghệ thuật: Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: Thể thơ lục bát với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng. Cách miêu tả giàu hình ảnh, sử dụng nhiều động từ. Điệp từ" nhớ "biến hóa linh hoạt để lại trong lòng bao dư vị khó quên. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ giàu tính tạo hình về thiên nhiên và con người Việt Bắc, mở rộng hơn nữa, đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng trong tâm hồn của nhà thơ cách mạng – Tố Hữu. Đoạn thơ tiếp theo là nỗi nhớ về Việt Bắc những ngày kháng chiến: " Nhớ khi giặc đánh giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù. " " Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà. " Gợi ý phân tích Từ những ngày đầu khó khăn gian khổ, Việt Bắc đã trở thành trận địa khóa chặt kẻ thù: " Nhớ khi giặc đánh giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù. " – Trong những ngày đầu kháng chiến gian khổ của giai đoạn cầm cự, phòng ngự, bộ đội phải dựa vào dân, dựa vào núi rừng Việt Bắc hiểm trở để đánh địch. Trước giờ khắc quyết định của lịch sử, không chỉ nhân dân mà cả núi rừng cùng đều vùng lên, chung sức đánh Tây. Với cuộc kháng chiến đầy gian lao của quân và dân Việt Bắc, núi rừng cũng trở nên có chí, có tình người, đã trở thành những người bạn, những người đồng đội, những chiến sĩ anh hùng của toàn quân. – Chỉ với bốn câu thơ, chữ" rừng "và" núi "được lặp đi lặp lại đến năm lần, nó rải kín câu thơ, rải kín đất Việt Bắc tạo lên thế hiểm của trường thành của lũy thép vây bọc quân thù. Rừng cây núi đá" ta cùng "đánh Tây, bằng phép nhân hóa, rừng bạt ngàn cây, với núi bao la đá để rồi trên dưới một lòng cùng con người đánh đuổi quân xâm lược. Đồng thời thể hiện tình cảm giữa con người kháng chiến và thiên nhiên núi rừng Việt Bắc rất tha thiết, bao la. Đến khi thế và lực đủ mạnh mang về những chiến thắng hào hùng: " Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà. " – Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã làm nên những chiến công vang dội, hàng loạt những địa danh vang lên, mỗi nơi đều gắn với một thắng lợi vinh quang. – Bằng câu hỏi tu từ, hỏi nhưng không cần trả lời, thể hiện niềm vui to lớn trước chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Sau đó là câu trả lời:" Ta về ta nhớ "vừa là câu trả lời, đồng thời cũng là câu nói khẳng định ẩn chứa biết bao niềm tự hào không nhỏ. Bằng phép liệt kê các địa danh ở Việt Bắc gắn liền với những sự kiện quan trọng như Phủ Thông, đèo Giàng, là nơi đã diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống pháp. Sông Lô, phố Ràng: Trận sông Lô đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn phố Ràng. Cao – Lạng: Cao Bằng và Lạng Sơn, năm 1950 ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt – Trung. Đó là những chiến công tiêu biểu góp phần quan trọng, mang tính quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. – Với điệp từ nhớ cùng với thể thơ lục bát âm điệu nhẹ nhàng, ngọt ngào, sâu lắng, diễn tả nối nhớ vơi đầy dào dạt trong kí ức của nhà thơ. Giọng thơ thay đổi linh hoạt, lúc trầm lắng, lúc mạnh mẽ mãnh kiệt trong niềm vui, khiến đọc giả như đang hòa mình vào niềm vui lớn của dân tộc, niềm vui trọn vẹn khi đất nước hoàn toàn tự do. * * * Đoạn thơ tiếp theo là không khí ra trận và tin vui chiến thắng của quân và dân ta trong kháng chiến chống Pháp: " Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên Tin vui chiến thắng trăm miền Hòa bình Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng " Gợi ý phân tích Trước hết đó làấn tượng chung về sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta trong kháng chiến qua hai câu thơ đầu: " Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung " – Câu thơ đầu tiên vang lên rất đỗi tự hào. Hai chữ" của ta "vang lên khẳng khái, chắc nịch, hùng hồn. Đó là niềm tự hào về những con đường Việt Bắc. Khi tác giả nói" Những đường Việt Bắc "đó là những con đường mở ra cùng với chiến thắng của quân dân ta, nhưng cũng là con đường đầy ý nghĩa tượng trưng khái quát cả một quá trình đi lên của kháng chiến và cách mạng. Con đường ấy đang mở tới chiến công. –" Đêm đêm rầm rập như là đất rung "là sức mạnh của quân và dân ta, sức mạnh đã được đo bằng thước đo sông núi. Đọc câu thơ ta đã thấy ngay âm hưởng hết sức hùng tráng của bài ca kháng chiến vang lên từ những điệp từ" đêm đêm ", từ láy" rầm rập ". Và từ gợi tả hình ảnh" đất rung ". Tất cả đã tạo nên bức tranh tổng hợp của sức mạnh Việt Nam. Hình ảnh một Việt Bắc trong những năm tháng hào hùng bỗng trở nên rực sáng và hùng vĩ bởi hình ảnh của những đoàn quân ra trận. Đó là sức mạnh của quân đội nhân dân Việt Nam: " Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan ". – Điệp từ" điệp điệp "," trùng trùng "tạo ấn tượng về một sự lớn mạnh khổng lồ của quân đội nhân dân Việt Nam, có thể đương đầu, đập tan mọi hành động gây hấn của kẻ thù. Đoàn quân nối dài trên những con đường Việt Bắc thật hùng vĩ đông đảo như trải dài, vươn rộng khắp mọi nẻo đường Việt Bắc. – Hình ảnh" ánh sao đầu súng ", vừa thực vừa lãng mạn. Đó là hình ảnh những người lính trong đêm hành quân đi dưới trời sao. Ngôi sao trên mũ người lính cũng như lấp lánh. Có lẽ vì vậy mà ta như thấy cả đất trời đang hành quân cùng người lính. Khẩu súng tượng trưng cho ý chí đánh giặc của người lính, chiếc mũ là cách nói hoán dụ để nói về người lính nhưng đồng thời cũng chỉ tầm vóc vươn tới sao trời của người lính. Trong bức tranh tổng hợp về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến, Tố Hữu đã khái quát thêm một sức mạnh. Đó là sức mạnh của đoàn dân công: " Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đã muôn tàn lửa bay " – Dân công là những người đi mở đường, xẻ núi, lăn bom.. góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang. Tác giả không viết" Từng đoàn dân công đỏ đuốc ", mà mở đầu câu thơ là hai chữ" Dân công ", cuối câu thơ là hai chữ" từng đoàn ". Cấu trúc ấy gợi ra sự điệp trùng vô tận của những đoàn dân công. Ở đây là hình ảnh" Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay "." Bàn chân "là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh của con người gắn liền với những chặng đường đấu tranh cách mạng. Ở đây hình ảnh bàn chân đã được thủ pháp phóng đại, cường điệu làm bừng sáng lên ánh sáng lãng mạn nhưng đầy khí thế oai hùng lẫm liệt Với hai dòng thơ tiếp theo, bức tranh kháng chiến hiện lên với những hình ảnh mới. Là hình ảnh những đoàn xe cơ giới ầm ầm kéo nhau ra mặt trận. Ánh đèn pha rực sáng xuyên thủng cả màn sương dày: " Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Dèn pha bật sáng như ngày mai lên " –" Nghìn đêm thăm thẳm sương dày "là cụ thể hóa những năm tháng đêm trường nô lệ của cả dân tộc, nay đêm trường ấy đã bị xua đi bởi" Đèn pha bật sáng như ngày mai lên ". Sự tương phản giữa quá khứ" thăm thẳm sương dày "với ánh sáng của" ngày mai lên "là sự tương phản làm nổi bật giá trị của nghìn đêm kháng chiến. Chữ" bật sáng "nhằm nhấn mạnh cái khoảnh khắc chói lòa, kháng chiến chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ chiến thắng. Bốn câu thơ cuối Tố Hữu miêu tả không khí chiến thắng đang dồn dập trên khắp cả nước: " Tin vui chiến thắng trăm miền Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Vui từ Đồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng " – Cũng là một thủ pháp liệt kê nhưng những địa danh ở đây không gắn với chữ" nhớ "như ở những dòng thơ mở đầu của Việt Bắc mà gắn với những chữ" vui "để thấy tin vui đang như bay lên từ khắp trăm miền. Kết cấu của bốn câu thơ này cũng là một kết cấu khá chặt chẽ. Câu một là cảm xúc bao quát:" Tin vui chiến thắng trăm miền ", còn ở câu sau nhằm thể hiện sự lan tỏa của những tin vui khắp trăm miền ấy. Vì thế những địa danh liên tiếp xuất hiện gắn liền với các tin vui chiến thắng. Sự liệt kê các địa danh chiến thắng cũng chứa đựng những giá trị tư tưởng – nghệ thuật. Đó là sự sắp xếp nhằm làm nổi bật tin vui như bay đi trong một tốc độ" siêu tốc ". Vừa mới đó là Hòa Bình – Tây Bắc – Điện Biên, tiếp sau đã là Đồng Tháp (Nam Bộ), An Khê (Tây Nguyên), lại đã là Việt Bắc đèo De núi Hồng. Câu kết là tin vui về Việt Bắc, chứng tỏ sự trân trọng của tác giả đối với Việt Bắc – trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Tổng kết nghệ thuật: Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: Sử dụng thể thơ lục bát truyền thống. Các biện pháp tu từ, so sánh, trùng điệp. Từ láy tượng hình, tượng thanh; hình ảnh thơ sinh động, gợi cảm.. Giọng thơ hào hùng, sôi nổi. Ngôn ngữ sử thi tráng lệ, hào hùng. Đoạn thơ cuối cùng là đoạn thơ ngợi ca công ơn của Đảng, của Việt Bắc và của chủ tịch Hồ Chí Minh: " Ai về ai có nhớ không .. Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào" Cảm ơn các bạn đã đọc!