Đề bài: Cảm nhận của anh chị về nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao. Bài làm Từ xưa đến nay, theo bề dày văn học Việt Nam, số phận người nông dân đã trở thành một trong những đề tài chủ yếu được các nhà văn nhà thơ tập trung khai thác. Nhắc đến số phận người nông dân, chúng ta không thể không kể đến "Tắt Đèn" của Ngô Tất Tố. Trên cái nền xã hội thực dân nửa phong kiến, chị Dậu bước ra từ trang sách là hình ảnh tượng trưng cho số phận cơ cực đầy đau khổ của người nông dân trong xã hội cũ. Nhưng đến khi Chí Phèo xuất hiện trong tác phẩm cùng tên của tác giả Nam Cao, ta mới thấy rõ bi kịch trong số phận của người nông dân trong xã hội cũ, bị tha hóa, lưu manh, tước đoạt quyền làm người, bị xã hội đẩy vào tuyệt vọng tận cùng của cái khổ. Nhà nghiên cứu Phong Lê đã nhận xét: "Sáng tác của Nam Cao là cả một kho dữ liệu bên trong một kho của đủ đầy.. có thể đào xới vào rất nhiều tầng vải, và vẫn còn hứa hẹn nhiều điều mới.". Đúng là vậy, văn của Nam Cao đã phản ánh một xã hội thối nát, nhưng song hành với nó lại là niềm tin bất diệt mãnh liệt về con người. Nam Cao xuất hiện trên Văn Đàn từ năm 1936 bằng một số bài thơ truyện ngắn chịu nhiều ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời nhưng không mấy thành công và ít được chú ý. Chỉ đến năm 1940, khi viết truyện ngắn "Chí Phèo", Nam Cao mới thực sự xác định được hướng đi cho ngòi bút của mình. Và với khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa tên tuổi và vị trí của Nam cao mới thực sự được khẳng định. So với các nhà văn hiện thực phê phán như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng.. Nam Cao là người đến muộn, song với tài năng và sự nỗ lực của mình, ông đã trở thành đại diện ưu tú nhất cho trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930-1945 với quan điểm nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực, phải "vị nhân sinh". Sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai đề tài: Người nông dân và người trí thức nghèo trước cách mạng tháng 8. Ở đề tài người nông dân, Nam Cao đã dựng lên bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trên con đường phá sản, bần cùng, không lối thoát, hết sức thê thảm vào những năm trước cách mạng tháng 8. Và nổi bật trên bức tranh ấy là hình ảnh những người nông dân hiền lành, lương thiện bị đẩy vào tình trạng tha hóa, lưu manh hóa, bị hủy hoại cả nhân hình và nhân tính (Chí Phèo, Tư Cách Mõ, Một bữa no, Trẻ Con Không Được Ăn Thịt Chó). Những sáng tác về đề tài người tri thức của ông tập trung thể hiện những tấn bi kịch của người trí thức tiểu tư sản có hoài bão, khát vọng, giàu tài năng nhưng lại bị gánh nặng "áo cơm" ghì sát đất, trở thành những mảnh "đời thừa", những "kiếp sống mòn". Nam cao không chỉ dừng lại ở Việc phản ánh tình trạng thê thảm của xã hội và con người trước cách mạng mà còn trực tiếp phân tích các nghĩ truy tìm nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. Dù ở đề tài người nông dân hay người tri thức, Nam Cao đều bộc lộ sự cảm thông, thương xót trước những đau khổ, bất hạnh của con người. Tác phẩm của ông là lời kết án đanh thép xã hội thực dân nửa phong kiến bất công chà đạp nhân phẩm của con người, đồng thời là tiếng kêu thảm thiết: "Hãy cứu lấy nhân phẩm con người.". Hãy cứu lấy Chí Phèo trong truyện ngắn "Chí Phèo" để hắn có thể là một con người chân chính trong lòng độc giả. Chí Phèo- đặc biệt! Hắn đặc biệt từ con người cho đến hoàn cảnh xuất thân. Cuộc sống của chí đã gặp ngay phải những bất công, khó khăn từ khi còn bé. Sự đau khổ ấy có lẽ đã được báo trước bởi số phận của một đứa trẻ tứ khố vô thân. Ngay từ khi sinh ra Chí đã bị vứt bỏ trong cái lò gạch cũ: "Trần truồng mà sáng nhắn trong một cái váy bên Lò Gạch cũ". Như vậy tuổi thơ của chị đã gắn liền với cái danh không cha không mẹ. Mặc dù đã có cha có mẹ bên cạnh che chở nhưng chúng ta vẫn luôn gặp phải vô vàn khó khăn không tên. Vậy thì một đứa trẻ mồ côi phải sống sao? Chắc hẳn cuộc sống của Chí Phèo sẽ vô cùng khó khăn, gian nan và nhiều trắc trở. Cái Mắc không cha, không mẹ, không tổ tiên này sẽ là nỗi chua xót của cả cuộc đời "hắn" - một kiếp người bị ghẻ lạnh từ khi vừa mới lọt lòng. Con người lúc bấy giờ cũng bị đem đi trao đổi như một món hàng hóa, bán qua, bán lại cho người này, người kia. Liệu Chí Phèo có quyền tự chủ không? Mặc dù không cha, không mẹ như vậy nhưng Chí vẫn có những suy nghĩ đúng đắn, vẫn chăm chỉ làm việc và có những khát khao ước về một gia đình hạnh phúc: "Chồng quốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.". Khó khăn, thiệt thòi đó, nhưng Chí vẫn luôn dành niềm tin vào cuộc sống, luôn mong muốn những điều tốt đẹp trong cuộc sống có thể một lần đến với mình. Đây cũng chính là cái đẹp, cái nhân văn trong tâm hồn nhân vật cũng như tác giả. Để sống, Chí Phèo đã làm nhiều việc, nhưng cuối cùng vẫn làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Bà ba chính là người quản lý những việc trong nhà của Bá Kiến có lần đã nhờ Chí bóp chân: "Hắn nhớ đến" bà Ba ", cái con quỷ cái hay bát hắn bóp chân mà lại cứ bắt bót lên trên nữa.". Chí lúc đó mới 20 tuổi.. "người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt" và trí tự cảm thấy khinh mình cùng với hành động bóp chân đó: "Vả lại bị một con đàn bà gọi đến bóp chân! Hắn thấy nhục hơn là thích.". Không chỉ ngục, Chí Phèo còn sợ "huống hồ lại sợ" vì hắn biết hành động kia là vô cùng sai trái. Hắn biết phân biệt đúng sai, biết mình đang làm gì và biết việc mình đang làm là sai trái. Quả là một người có lòng tự trọng cao! Tưởng chừng Chí Phèo là một người hung hăng, dữ tợn, nhưng trước đó hắn đã từng là một người lương thiện, hiền lành và có nhân cách biết bao. Nhưng chính những con người xung quanh và cả xã hội mục nát đã đưa hắn vào dưới đáy của xã hội. Nam Cao dường như đã đặt cái hồn và tư tưởng của mình vào trong văn chương. Ông đã thể hiện niềm tin mãnh liệt của mình về con người dù cho có ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào đi chăng nữa. Nam Cao đã cho Chí Phèo những hồi ức đẹp về quá khứ, những ước mơ và khát khao chính đáng của con người. Ông đã cho chí niềm tin trước sự bất hạnh nhưng đồng thời cũng đưa sự bất hạnh đến để làm nổi bật nhân cách sâu thẳm bên trong con người hắn. Nam Cao đã tin Chí! Chí Phèo hiền lành, lương thiện như vậy cũng nào có được một cuộc sống bình yên. Hắn phải chịu đựng những bi kịch lớn khiến cho cả thể chất và tinh thần bị thay đổi, tha hóa dần. "Bi kịch là tình cảm éo le đầy đau thương, bế tắc nhưng chưa có lối thoát mà con người phải chịu đựng", hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch, mà bi kịch sau lúc nào cũng lớn hơn bi kịch trước. Vì những sự ghen tuông vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào cảnh ngục tù tối tăm trong suốt bảy, tám năm đã ăn mòn, cắn, gặm hết nhân cách trong con người hắn theo từng ngày một. Từ một người hiền lành, thiện lương hắn biến thành một con quỷ dữ hung hăng. Sau bảy năm đi tù thì chắc chắn chí phải khác lắm? Chí thay đổi hoàn toàn! Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai: "Lạ không?". Một anh thanh niên thiện lương, một anh canh điền chất phác, sau khi trải qua bảy năm tối tăm trong tù đã biến thành một kẻ mà không ai có thể nhận ra được: "Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cao trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cương cương, hai mắt gờm gờm trông gớm chết!". Không chỉ mặc mỗi khác mà đến ngay cách ăn mặc của hắn cũng khiến người ta "trông gớm chết!". "Hắn mặc quần nải đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những vết chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, thì cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!". Từ "gớm" chỉ dùng để diễn tả những thứ gì đó thật kinh tởm phải tránh xa, nhưng ở đây "trông gớm chết!" lại được xuất hiện và nhấn mạnh những hai lần. Phải chăng, Nam Cao đang muốn đánh bật lên cái sự khác đến kinh người của Chí Phèo và song song với đó là phản ánh gay gắt cái xã hội thối tha, tệ bạc đó. Chí Phèo có hiền đó nhưng nay lại hung dữ và khát máu đến rợn người. Hắn luôn làm mọi việc trong vô thức, luôn tìm đến rượu để tạo ra cơn say khiến hắn có thể thoải mái hô hào, chửi bới, rạch mặt, đày đoạn mọi người và "ngu ngốc" hơn hết là tàn phá chính bản thân mình. "Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều." Chí ăn, uống và say như vậy để làm gì? Để chửi! Nhiều người khẳng định Chí Phèo xuất hiện sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có hành động một cuộc độc thoại. Chí Phèo say rượu vừa đi vừa chửi, Chí chửi tất cả (từ trờ- đất- cả làng Vũ Đại- chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn). Chí chửi nhiều như vậy nhưng thứ mà hắn nhận được là "Trời có của riêng nhà nào"... " Đời là tất cả nhưng chẳng là ai" và "không biết ai đã đẻ ra Chí Phèo". Hắn phải đối diện với sự im lặng của xung quanh, tiếng chửi của chính mình và đáp lại hắn chỉ có những tiếng chó sủa trong xóm "Thành thử chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu!". Chí thật lạ lùng biết mấy! Chửi mà không có người nghe, không có ai chửi lại, không còn biết chửi ai nữa thành ra hắn lại quay ra chửi chính mẹ đã đẻ ra hắn, đã cho hắn cơ hội được nhìn thế giới này. Nam Cao đã tạo ra một cách vào truyện độc đáo, ấn tượng về nhân vật chính là một kẻ say rượu vừa quen, vừa lạ: Nó say như bao gã đàn ông đang ngập chìm trong hơi men, nhưng nó khác bởi sự chửi lạ lùng. Thắc mắc thay: Vì sao trên đời lại có một kẻ tha hóa đến như vậy? Tại sao nó chửi mà không có ai chửi lại nó mà nó vẫn chửi. Và đơn giản chỉ là vì nó là Chí Phèo trong văn Nam Cao. Tác giả đã chọn ngôi kể trần thuật (ngôn ngữ của tác giả, của người kể chuyện, của nhân vật), cách trần thuật linh hoạt lúc thì theo điểm nhìn của tác giả "hắn vừa đi vừa chửi", khi thì theo điểm nhìn của nhân vật "Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật!". Giọng điệu của nhân vật phong phú biến hóa lúc tách bạch, lúc đan xen dòng miêu tả trần thuật của nhà văn: "Bao giờ cũng thế cứ rượu xong là hắn chửi.", giọng dân làng Vũ Đại: "Chắc nó trừ mình ra.", giọng Chí Phèo: "Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không?", đan xen giọng của người kể đã tạo nên một hình ảnh Chí Phèo ngang ngược, say xỉn và hung dữ, cô đơn. Chửi thôi thì đã là gì, Chí còn ăn vạ và tự dùng mảnh chai rạch vào mặt minh: "Và họ thấy Chí Phèo lăn lộn dưới đất, vừa kêu vừa lấy mảnh chai rạch vào mặt, máu da loe loét trông gớm quá!". Hắn đã chọn cách tự đày đọa bản thân mình trong cơn say để khiến mọi người chú ý đến hắn. Biết hắn là ai và hắn đang làm gì dù đó có là việc dại dột. Hình ảnh của Chí Phèo dường như đã trở thành một bóng ma bên trong suy nghĩ của người dân làng Vũ Đại, luôn reo rắc nỗi sợ kinh hoàng đến với họ. Mọi người tránh mặt vào vờ như không biết mỗi lần hắn đi qua. Dân làng Vũ Đại coi hắn như không tồn tại, không để ý, không quan tâm, theo lâu dần, sự xuất hiện của Chí Phèo cũng mờ đi trong suy nghĩ của mọi người. Cũng chính vì vậy mà hắn dường như không tự ý thức được sự tồn tại của chính bản thân mình. Chắc hắn phải băn khoăn, suy nghĩ nhiều về sự tồn tại của hắn trong một cộng đồng người. Liệu họ còn coi Hắn như đang tồn tại không? Đương nhiên với sự xa lánh của mọi người, Chí đã và đang bị khai trừ, loại ra khỏi xã hội loài người. Dân làng không hề tiếp nhận sự tồn tại của Trí vì thực chất trong họ, Crí chỉ là những tiếng chửi vô chủ đích, bộc phát. Thế nên dân làng Vũ Đại không hề coi hắn là người: "Chửi mà không đáp"... " Đáp lại chỉ có tiếng chó sủa râm ran.". Thật trớ trêu, ác nghiệt và tàn nhẫn biết bao! Chắc Chí Phèo rất đau đớn vì ít nhiều ý thức được sự bạc bẽo, phũ phàng của cuộc đời mình. Chí Phèo rất cô độc: Tiếng chửi của Chí Phèo dường như là con đường giao tiếp với cộng đồng để được đối thoại với cả đời. Nếu ai đó chửi lại hắn, thì có nghĩa là người ta còn viết đến Chí vẫn đang tồn tại trong cộng đồng này. Nhưng đáp lại lời hắn chỉ có lũ chó cắn xôn xao trong xóm, tức là chỉ có những con vật đáp lại lời của Chí. Tiếng chửi, hành động rạch mặt ăn vạ có thể như là một sự hiển nhiên của một con người ít nhiều ý thức được bi kịch của cuộc đời mình, sống giữa cuộc đời mà lại bị tước đoạt quyền làm người. Là một con người khi họ đã quá đau khổ thì khát khao có được hạnh phúc lại càng mãnh liệt và Chí Phèo cũng như vậy. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã thức tỉnh phần người bấy lâu nay bị vùi lấp của Chí, để hắn trở về sống kiếp người một cách tự nhiên. Chính sự quan tâm, chăm sóc của Thị Nở đã giúp Chí cởi bỏ lớp vỏ quỷ dữ để sống lại làm người, khát khao hoàn lương để trở thành người lương thiện. Sự quan tâm của Thị đã biến thành tình yêu để cảm hóa Chí: "Ả ngớ ngẩn. Gã khùng điên. Khi tình yêu đến bỗng nhiên thành người. Vườn xuân trăng nở nụ cười Phút giây tan chảy vàng mười trong nhau." (Trăng nở nụ cười_Lê Đình Cảnh) Chí Phèo là một con người luôn triền miên với rượu và luôn luôn say không biết tỉnh táo là gì. Nhưng chính sự xuất hiện của Thị Nở đã tạo nên một kỳ tích, điều dường như không thể- Chí Phèo tỉnh rượu. Kể từ khi mãn hạn tù trở về, đây là lần đầu tiên Chí Phèo hết say, hoàn toàn tỉnh táo, lần đầu tiên hắn nhận thấy được cái không gian mình tồn tại: "Chí Phèo mỡ mắt thì trời đã sáng từ lâu. Mặt trời đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết.". Chí Phèo không chỉ nhìn, nghe mà còn dùng tâm cảm nhận được cảm xúc: "Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!" và còn ung dung phán đoán: "Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc đó hôm nào chả có.". Lòng Chí Phèo bâng khuâng tự nhận thức được tâm trạng của chính mình: "Chao ôi là buồn!". Khi tỉnh táo, Chí Phèo đã ngộ bằng nhận thức, nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ- hiện tại- tương lai. Trước hết hắn lao đao buồn nhớ về những ngày rất xa xôi, nhớ về thời gian hắn đã từng ao ước có một gia đình nho nhỏ. Quá khứ là vậy, còn hiện tại thì sao? Hiện tại mình thật đáng buồn vì đã già "Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu..". Ở cái xã hội bấy giờ năm mươi tuổi đã được lên lão. Vậy thì cái tuổi bốn mươi của hắn dường như đã đi hết hai phần ba cuộc đời rồi "hắn đã tới cái dốc bên kia của đời- cơ thể đã hư hỏng nhiều". Tương lai đối với Chí Phèo còn đáng buồn hơn, không chỉ buồn mà còn lo sợ bởi hắn đã từng trông thấy trước mắt có quá nhiều điều bất hạnh. Tuổi già, đói rét, ốm đau và đặc biệt là sự cô độc. Sau những ngày tháng sống gần như vô thức, Chí Phèo đã tỉnh táo và suy nghĩ về cuộc đời mình, Chí Phèo đang thức tỉnh và bắt đầu hồi sinh để trở lại kiếp người. Trong lúc trí đa ngẩn ngơ suy nghĩ thì Thị Nở trở vào với một nồi cháo hành còn nóng nguyên đến gần hắn. Chí hết sức ngạc nhiên, xúc động vì đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà chăm sóc, bởi đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi bàn tay đàn bà. Thị Nở múc cháo ra bát giục hắn ăn cho nóng. Hắn hút xong rồi Thị Nở đỡ đến bát cháo và mốc thêm bát nữa. Hành động chăm sóc đầy tình cảm yêu thương làm cho Chí Phèo tự thấy mình là trẻ con, muốn làm nũng với Thị, hắn tự nhiên hiền lành đến khó tin, đến bản tính thường ngày của hắn bị lấp đi đã trỗi dậy mạnh mẽ. Chí Phèo đã sống đúng với bản thân mình, trở lại nguyên tính cách của anh canh điền ngày xưa. Từ xúc động, ăn năn hồi tỉnh, Chí mong muốn được trở lại làm người hiền lành lương thiện. Chí khao khát hạnh phúc với một mái ấm gia đình, hắn ao ước cùng Thị Nở: "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ!". Hắn cứ muốn được ăn cháo hành, được sống bên Thị, được Thị quan tâm, chăm sóc, yêu thương, được làm nũng với Thị. Nếu được như vậy, hắn sẽ thích thú, sung sướng, hạnh phúc vô bờ bến. Hắn còn rủ Thị Nở: "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.", đây dường như là lời cầu hôn chân thành của Chí Phèo. Ta có thể dễ dàng thấy được sức sống bất diệt của sự lương thiện, khát khao hạnh phúc là bản tính tự nhiên tốt đẹp và mạnh mẽ của con người mà không một thế lực bạo tàn nào có thể hủy diệt được. Ngay cả khi con người bị tha hóa, bị đẩy vào con đường lưu manh thì cái bản tính ấy chỉ là tạm thời chìm xuống chứ không biến mất. Nó là ngọn lửa âm thầm cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh, chỉ đợi gió yêu thương thổi xuống khiến nó cháy mãnh liệt. Tác giả muốn gửi đến cho người đọc thông điệp hãy tin vào bản chất con người. Khao khát, ước mơ và cố gắng nhiều như vậy nhưng cuối cùng Chí Phèo nhận lại chỉ là thất vọng đau đớn, phẫn uất. Khởi nguồn của sự tuyệt vọng này là việc bà cô Thị Nở kiên quyết không cho thì đến với Chí, nhất định ngăn cản mối nhân duyên này. Bà không chấp nhận cho cháu bà đâm đầu lấy thằng Chí Phèo- con quỷ dữ của làng Vũ Đại mà lâu nay chỉ có một nghề rạch mặt, ăn vạ. Thế nên con đường hoàn lương của Chí đã bị chặn đứng, cái xã hội làng Vũ Đại không chịu chấp nhận hắn. Trong suy nghĩ của họ thì Chí Phèo đã không phải là người từ rất lâu rồi. Họ không biết, không tin Chí thức tỉnh, hồi sinh trở lại làm phần người lương thiện trong hắn. Hành động giết người dường như lúc đó đã hình thành trong hắn, hắn đã cầm dao đến nhà Bá Kiến và giết Bá Kiến. Đây là một hành động tất yếu vì Chí Phèo đã hiểu quá rõ cảnh ngộ của đời mình. Bây giờ hắn không thể đập phá, đâm chém, ăn vạ như trước, nhưng làm một người lương thiện cũng không xong bởi không ai cho phép và giúp hắn hoàn lương. Kẻ thù của hắn là cả xã hội vô nhân tính. Sau khi giết Bá Kiến, Chí đã tự sát. Có lẽ cái chết của Chí là sự giải thoát, là sự tất yếu. Chính hành động đó của Chí Phèo đã tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẩy người nông dân vào con đường lưu manh hóa, đẩy họ vào chỗ chết. Phản ánh xung đột giai cấp quyết liệt ở vùng nông thôn Việt Nam trước Cách mạng, họ bị áp bức thì họ sẽ phản kháng "Tức nước vỡ bờ" - một chân lý đúng đắn và giản dị của đời sống. Nam Cao đã xây dựng những hình tượng nhân vật hết sức mới lạ, tài tình và vô cùng tinh tế. Nhân vật của Nam cao còn thể hiện như một nhân vật có cá tính hết sức độc đáo, không lặp lại, vừa đa dạng, vừa thống nhất. Chí Phèo vừa là kẻ bán rẻ nhân tính, nhân hình để tồn tại. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một thằng triền miên trong cơn say đến mất cả lý trí, vừa là kẻ khao khát lương thiện, muốn làm hòa với mọi người, vừa là một kẻ nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất, tỉnh táo nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát sâu sắc về quyền làm người lương thiện, đến mức Bá Kiến cũng phải ngạc nhiên. Chí Phèo vừa là kẻ cố cùng, vừa là kẻ, người tự xưng: "Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta.". Chí Phèo, Binh Chức, Nam Thọ trong "Chí Phèo" vốn là những con người lương thiện nhưng lại bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh, mất cả nhân hình và nhân tính. Viết về về những người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa, Nam Cao đã lên án gay gắt xã hội bất công, ngang trái đã chà đạp lên nhân phẩm con người, đồng thời phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện vẫn luôn tồn tại ở ngay cả những con người bị tha hóa ấy. Trong cuộc đời viết văn của mình, Nam Cao đã dành phần lớn những trang viết của mình để khắc họa, tô đậm bản chất lương thiện và phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay cả khi họ đã bị xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác biến thành quỷ dữ, ruồng bỏ, đẩy vào đường cùng. Từ đó, qua các tác phẩm văn học của Nam Cao, ta thấy rõ ràng cái vấn đề được tác giả đặt ra trước mắt: Cần kiên quyết đấu tranh với cái ác, cái xấu để bảo vệ nhân tính, phải quan tâm, nuôi dưỡng phần người trong mỗi con người để cho nó ngày càng lành vững, mạnh mẽ đủ sức đối kháng với phần con luôn sẵn sàng trỗi dậy khi bị tác động. Với truyện ngắn "Chí Phèo", Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách Mạng. Không chỉ dừng ở hiện tượng bên ngoài, Nam Cao còn đi sâu thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Qua đó càng làm sâu sắc hơn những giá trị ấy trong lòng độc giả, hướng con người đến việc bảo vệ phần lương thiện trong bản thân mỗi người, chống lại cái ác, cái nhơ bẩn, xấu xa. Hình tượng nhân vật Chí Phèo đã để lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và lòng cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người tàn tạ trước cách mạng tháng 8. Cũng có thể nói, tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi nam cao trong lịch sử văn chương của nước ta. Khép lại trang sách, bánh răng thời gian vẫn cứ trôi, lớp bụi mù có thể phủ kín lịch sử. Nhưng tác phẩm vẫn sẽ mãi sống trong lòng độc giả cùng những xúc cảm đặc biệt.