BÀI 1 Bài thơ Bếp lửa sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta. Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bá nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí cua Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ Bếp lửa của ông. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Khổ 1 Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà: 'Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa'. Hình ảnh chờn vờn gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và tỏa sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua biết mấy nắng mưa. Từ đó. Hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ. Khổ 2 Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cổ tích của những bạn cùng lứa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của Bằng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu không thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói: 'Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!' Chính mùi khói đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy sống mũi còn cay. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt? 'Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!' Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm tri thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy! Từ "tu hú" được điệp lại ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng tu hú lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm: 'Mẹ cùng cha bận công tác không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe' () Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vômờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ cùa con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, g bờ. Ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ iấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế.. Thi sĩ bỗng tự hỏi lòng mình: "Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?" Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ bà, cháu đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời. Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: Gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi.. 'Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh: "Bố ở chiến khu bố còn việc bố Mày viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!" Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn. Bà không muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thế thấy rõ qua lời dặn của bà: "Mày có viết thư chở kể này kể nọ / Cứ báo nhà vẫn được bình yên!". Lời dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng đế yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con quý cháu. Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn lửa, một ngọn lửa: 'Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.' Hình ảnh ngọn lửa tỏa sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng con đường cho đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: Nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu. Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thơ muốn gửi tới bạn đọc, qua đó cùng là những bài học sâu sắc từ công việc nhóm lửa tưởng chừng đơn giản: 'Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm' Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa ấp iu, nồng đượm đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu. 'Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi'. Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống với nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.'Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui'. Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui của bà hay là lời răn dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ. 'Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ' Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh: "Tiếng gà trưa Mang bao nhiêu hạnh phúc Đêm cháu về nằm mơ Giấc ngủ hồng sắc trứng.." Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm đang trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kỳ phương trời nào. Bà đã trở thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu. Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà: "Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?" Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm giữa hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái mùa đông lạnh giá của nước Nga. Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó. Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính sóng đôi này hiện lên thật sống động, rõ ràng như thể nét khắc, nét chạm vậy.. (Văn Giá). Bài thơ Bếp lửa sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta.
BÀI 2: Bấm để xem Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. "Bếp lửa" của Bằng Việt là một bài thơ như thế, đọc lên không còn thấy câu thơ, chỉ thấy tình cảm chan chứa thắm thiết của tình bà cháu, tình yêu quê hương đất nước. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành thời kì kháng chiến chống Mĩ, những năm tháng xa quê ở nước ngoài là nguồn cảm hứng thôi thúc ông viết nên những vần thơ xúc động, ám ảnh lòng người. Bài thơ là những dòng tâm sự xúc động về tình bà cháu, tình yêu quê hương được gửi gắm ý nhị, đằm thắm qua hình ảnh biểu tượng bếp lửa. Sống xa quê hương, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh lòng nhớ đến một bếp lửa thật ấm áp của quê hương. Bếp lửa gắn chặt với hình ảnh người bà, bếp lửa của một thời thơ ấu với nhiều kỉ niệm khó phai. "Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa." Trong câu thơ mở đầu, có một bếp lửa chờn vờn mang màu cổ tích. Hình ảnh "chờn vờn sương sớm" thật sống động, gợi lên ngọn lửa không định hình, khi to khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng rất mạnh mẽ. Từ láy "ấp iu" bao gồm hàm ý bé nhỏ, thầm kín bên trong, đồng thời còn gợi lên cho ta bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và chăm chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ "một bếp lửa" được lặp lại ở đầu những câu thơ có tác dụng nhấn mạnh dấu ấn kỉ niệm sâu lắng trong kí ức tác giả. Nó trở thành hình tượng xuyên suốt hết bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa quê hương cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình. "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa", đọng lại trong ba dòng thơ đầu có lẽ là chữ "thương", và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lũi "biết mấy nắng mưa", hai chữ "nắng mưa" nói lên nỗi cơ cực, vất vả và những khó nhọc mà bà đã trải qua. Cùng với nó, những kỉ niệm về tình bà cháu ùa về thành từng dòng thương nhớ: "Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi, Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy, Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà? Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế. Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế! Mẹ cùng cha công tác bận không về, Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe, Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học, Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc, Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà, Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?" Tuổi thơ ấy có những bóng đen ghê rợn, những kỉ niệm buồn thương sâu đậm về nạn đói năm 1945. Đó là mùi khói hun nhèm mắt cháu, cay xộc của những đắng cay, vất vả, những rách nát, cơ cực lầm than mà bà đã nuôi nấng cháu từ chính những gì đau thương, mất mát, thiếu hụt ấy. Vậy là ngọn lửa tình bà gắn liền với mùi khói thân thương, mùi khói của sự hi sinh, tảo tần, cơ cực của cả một thời ấu thơ, gọi lại những tiếng tu hú kêu, những câu chuyện ấm áp bà kể. Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, tình cảm chân thật, giản dị như thế. Cái bếp lửa kỉ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoảng mùi khói mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đẫm biết bao nghĩa tình sâu nặng. Khổ thơ tiếp theo với những hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm tháng chiến tranh: "Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh: " Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, Mày có viết thư chớ kể này kể nọ, Cứ bảo nhà vẫn được bình yên! " Đứa cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn trước song nghị lực của bà vẫn bền vững, tấm lòng của bà vẫn nhân hậu mênh mang. Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động." Bố ở chiến khu bố còn việc bố-Mày có viết thư chớ kể này kể nọ-Cứ bảo nhà vẫn được bình yên ". Gian khổ thiếu thốn và nhớ nhung cần phải che giấu cho con người đi xa được yên lòng. Tấm lòng người bà thương con, thương cháu ân cần chu đáo biết bao. Đó cũng chính là phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam ta từ muôn thuở, luôn can đảm, bản lĩnh và cứng rắn trước nỗi đau của dân tộc, hi sinh tình riêng đặt tình chung lên trên. Đó chẳng phải là biểu hiện cao nhất của tình yêu quê hương đất nước đó ư? Khổ thơ tiếp theo, hình ảnh bếp lửa chuyển thành ngọn lửa lan tỏa mãnh liệt, chân thành của tình bà cháu: " Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen, Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn, Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.. " Hình ảnh người bà sớm chiều bên bếp lửa thật ám ảnh, nó gợi lên vẻ đẹp tâm hồn cần mẫn, kiên trung, âm thầm lặng lẽ của người phụ nữ Việt ta bao đời nay sau lũy tre làng. Có sự thay đổi trong dụng ý nghệ thuật của nhà thơ, từ bếp lửa chuyển thành ngọn lửa." Bếp lửa "với những ấm áp bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu, đã trở thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin sức sống mãnh liệt con người. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ, tỏa sáng, trường tồn. Từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ với bà, tác giả đã chuyển sang bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của một thanh niên đã trưởng thành đối với người bà trong hiện tại: " Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng-bếp lửa. " Chiến tranh đã đi qua, những gian khổ đã vơi bớt nhưng bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, bếp lửa bà vẫn ấp iu nồng đượm như ngày nào. Điệp từ" nhóm "lặp lại 4 lần mang bốn nghĩa khác nhau, tỏa sáng dần nét kỳ lạ thiêng liêng và nhất là tình nghĩa của bà." Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm "ấy là bếp lửa có thật, có ánh sáng và hơi ấm." Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui "hay cũng chính là bà mở rộng tấm lòng đoàn kết với xóm làng, quê hương." Nhóm niềm yêu thương "có nghĩa là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng đượm, ngọt ngào. Và cuối cùng người bà kì diệu ấy, nhóm dậy chính là thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu về tâm hồn và nhân cách sống. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và truyền lửa để ngọn lửa ấy cháy sáng mãi mãi, trở nên bất diệt trong lòng cháu, là ngọn lửa của niềm tin, sức mạnh nâng đỡ cháu trong những phút yếu lòng. Điệu thơ dào dạt như sóng dồn, những từ láy" ấp iu "," nồng đượm "càng làm tăng thêm tính biểu cảm và sức gợi cảm xúc của khổ thơ, giống như những con sóng lòng tha thiết bồi hồi của người cháu đang trào ra trên trang giấy. Để rồi, trong lặng nhẹ và dịu êm, những suy nghĩ thấm thía, sâu sắc của cháu sáng lên: " Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, có niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?" Dù sống xa nhà cuộc sống có đầy đủ tiện nghi nhưng tình cảm người cháu dành cho bà, về bà, về bếp lửa lúc nào cũng vậy. Vẫy cứ thiết tha, nồng đượm, mãnh liệt và dai dẳng. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ thật khéo thật hay, có sức ám ảnh, day dứt tâm hồn người đọc. Một lần nữa, bếp lửa của tình bà cháu lại cháy sáng trong trái tim và tâm trí người đọc. Bằng cách sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ, những từ ngữ biểu cảm, tình cảm bà cháu đã được diễn tả thật xúc động và bồi hồi. Bài thơ chính là món quà quý giá Bằng Việt gửi đến cho người đọc, gửi đến độc giả những thông điệp quý báu về tình bà cháu, tình yêu đất nước thiêng liêng, sâu nặng, nuôi dưỡng tâm hồn con người muôn thuở.
BÀI 3: I. NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ Bấm để xem - Bếp lửa trong cuộc sống và nghệ thuật: Bếp lửa không rõ từ khi nào đã trở thành một biểu tượng quan trọng về sự sống, về quê hương và gia đình. Trong văn học nghệ thuật, hình ảnh ngọn lửa hồng trên bếp hay những làn khói lam chiều trên mái rạ.. đã được sử dụng khá thành công để diễn tả tình yêu, nỗi nhớ quê hương. Không phải ngẫu nhiên mà trong đoạn kết bài thơ Bếp lửa, những "ngọn khói trăm tàu", "lửa trăm nhà" lại gợi nhớ về bếp lửa của bà. - Nhà thơ Bằng Việt viết bài thơ Bếp lửa năm 1963, khi đang du học ở nước ngoài. Hình ảnh bếp lửa đã thành điểm tựa để từ đó người cháu đi xa hồi tưởng về gia đình, bộc lộ cảm xúc về tình bà cháu, tình yêu quê hương đất nước. II - PHÂN TÍCH TÁC PHẨM Bấm để xem 1. Nhân vật trữ tình Người cháu là nhân vật trữ tình trong bài thơ. Dưới hình thức hồi ức, người cháu hiện giờ đã đi xa lần lượt hồi tưởng lại các chặng đường của tuổi thơ ấu được sống cùng bà. Hai bà cháu đã song hành cùng các chặng đường của đất nước, bếp lửa của bà đã nuôi cháu trưởng thành để bây giờ cháu đã bước vào thế giới rộng lớn. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình triển khai theo thời gian tuyến tính. Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa hiện lên khi xa khi gần trong tâm tưởng cháu, để cháu nhớ lại các chặng đường tuổi thơ. Năm 1945 là năm nạn đói do phát xít Nhật gây ra đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người Việt Nam. "Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi/ Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy". Bếp lửa của bà đã giúp cháu vượt qua được nạn đói kinh hoàng ấy. Những lời tự sự giản dị nén bên dưới chúng một nỗi hoài niệm bâng khuâng. Có phải là cái đói đã khiến cháu mới bốn tuổi thường phải xán lại bên bếp lửa của bà chờ cái ăn nên "Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói", để khói hun "nhèm mắt"? Đến nỗi "Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu/ Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!". Tiếp theo là thời kì bà cháu cùng cả nước đi qua cuộc kháng chiến trường kì. "Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa". Bố mẹ tham gia kháng chiến công tác bận không về. Bây giờ cháu đã lớn khôn, đã dần hiểu cuộc sống. Bên bếp lửa, bà bắt đầu kể chuyện đời mình, bắt đầu dạy cháu những bài học đầu tiên về chữ nghĩa, về đạo lí làm người. Và cháu đã biết nhóm lửa, đã biết "nghĩ thương bà khó nhọc". "Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà/ Kêu chí hoài trên những cánh đồng xa?". Bếp lửa của bà đã nuôi dưỡng cháu cả những món ăn tinh thần cần thiết để cháu trưởng thành, vững bước vào đời. Bố vẫn bận đi kháng chiến. Bà đã từng nuôi bố nay lại nuôi cháu. "Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi", đó là dấu ấn của những trận giặc Pháp càn quét qua làng. Nhà của hai bà cháu được hàng xóm giúp dựng lại chỉ là túp lều tranh. Nhưng bên bếp lửa, bà lại dạy cháu tiếp một bài học làm người: "Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!". Bà không muốn các con đi kháng chiến phải lo lắng cho tuổi già của mình. Bà truyền cho cháu niềm tin vào tương lai tươi sáng, dẫu chưa qua được cái đói, cái nghèo. Ngọn lửa nhiệt tình, ngọn lửa của niềm tin luôn ấp iu, nồng đượm đã truyền sức sống cho cháu. Bếp lửa chỉ là hình ảnh cụ thể, song ngọn lửa lại là hình ảnh tượng trưng, ngọn lửa ấm áp, rực cháy của niềm tin, của sự hi sinh, chia sẻ lớn lao. Phần kết bài thơ là phần luận. Nhìn lại mấy chục năm đời bà lận đận, ớm tối, ngọn lửa là tâm điểm của cả gia đình, nhưng bà luôn nhóm bếp lửa sớm tối, ngọn lửa là tâm điểm của cả gia đình, từ đây gây dựng tình yêu thương, sự chia sẻ. Nhìn lại từ điểm nhìn của đứa cháu giờ đây đã khôn lớn, trưởng thành, đã đi xa, cháu đã nhận thấy bếp lửa đơn Sơ mà xiết bao kì lạ, thiêng liêng! Thế hệ trẻ tuổi dẫu đi xa khắp bốn phương trời, song hãy biết trân trọng tình yêu thương của người thân, của gia đình, của ông bà, cha mẹ, hãy biết tìm sức mạnh từ bếp lửa đơn sơ đã nuôi ta khôn lớn vào đời. 2. Đặc sắc về nghệ thuật Bài thơ thuộc loại tự sự trữ tình, tức là loại thơ kết hợp kể, tả và bình luận trữ tình. Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói.. Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu đó là nội dung kể, tả cảm giác về đói, về khói làm cay mắt. Nghĩ lại giờ sống mũi hãy còn cay lại là trữ tình, bộc lộ cảm xúc. Nhớ lại những khi đói mòn đói mỏi, chầu chực bên bếp khói cay nhoè nước mắt thì bây giờ, dẫu không có khói mà mắt vẫn cay – những giọt nước mắt xót xa, buồn vui trộn lẫn. Đói, chờ đợi bên bếp lửa đến cay mắt là một sự việc của tuổi thơ gây ấn tượng mạnh suốt đời sẽ không quên. Tất nhiên, trong khuôn khổ một bài thơ, không thể kể và tả tất cả những gì đã diễn ra trong ngần ấy năm tháng. Tác giả phải biết chọn lựa những hình ảnh nào ấn tượng sâu đậm nhất. Đó là tiếng chim tu hú kêu khắc khoải gọi bầy (thơ Tố Hữu: Khi con tu hú gọi bầy), gợi ấn tượng cô đơn. Sao tu hú không đến ở cùng bà, vì bà có tâm hồn nhân ái, bao dung, rộng mở. Đó là cảnh trên nền ngôi nhà bị giặc đốt cháy được hàng xóm đỡ đần dựng lại túp lều tranh, mà bà luôn dặn cháu không được để cho bố biết tin. Mỗi sự việc được chọn để kể lại đã nói lên một khía cạnh của tấm lòng bà, người bà nhân ái, bao dung, tần tảo, giàu tình thương yêu và đức hi sinh, vị tha. Tình cảm bà cháu không tách rời tình cảm gia đình, quê hương, đất nước. Từng chặng đường đời cháu lớn lên bên bếp lửa của bà đều gắn liền với những thăng trầm, vui buồn của đất nước, của làng xóm. Bà là hiện thân của gia đình, của đất nước. Dù đã đi ra nước ngoài học, mỗi khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về quê hương, đất nước, cháu lại nhớ đến bà, đến bếp lửa. Cháu chẳng lúc nào quên nhắc nhở (chính mình) : - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
BÀI 4: Bấm để xem Trong cuộc đời mỗi người, kỉ niệm tuổi thơ bao giờ cũng đẹp đẽ, thân thương và chứa chan tình nghĩa. Bởi vì những kỉ niệm ấy thường gắn bó với những người ruột thịt, gần gũi: Mẹ ta, cha ta, anh chị em, ông bà, bè bạn, Với Bằng Việt, kỉ niệm về bà và tình bà cháu chắc là sâu nặng lắm, thân thiết lắm mới khơi nguồn cho dòng cảm xúc, dạt dào, để sáng tạo một tác phẩm đặc sắc: Bài thơ Bếp lửa. Có thể đấy là những kỉ niệm riêng của nhà thơ, song đọc bài thơ, chúng ta vẫn được sưởi chung với ông hơi lửa của tình người giàu ân. Nghĩa, một bếp lửa kì diệu, thiêng liêng Theo diễn biến tâm tư của nhân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thấm thía từng mức độ sáng tối của bếp lửa, từng cung bậc của lòng người. Ngỡ như ta cũng đang nhóm một bếp lửa vậy - lửa của kỉ niệm tuổi thơ, lửa của cuộc sống lúc đã trưởng thành, bếp lửa của bà ngày xưa, lửa trăm nhà ngày nay. Tám câu thơ đầu là ngọn lửa mới nhen, lúc đứa cháu bốn tuổi: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Đọng lại trong mấy dòng thơ ấy là chữ "thương" và hình ảnh bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh "biết mấy nắng mưa". Vậy là kỉ niệm đã sống dậy từ tình cảm cháu nhớ thương bà và cuộc sống của hai bà cháu đầy khó khăn, gian khổ: Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy Gia cảnh như thế, nên tuổi thơ của cháu cũng như tuổi già của bà làm sao tránh được những cơ cực, xót đau. Bao nhiêu kỉ niệm xa xưa được nhớ lại, trong đó có một ấn tượng đạm nhất, nổi lên, lay động tâm hồn. Đó là ấn tượng về khói bếp – khói từ một bếp lửa của nhà nghèo. Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói [..] Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! "Mùi khói" rồi lại "khói hun".. Nhà thơ đã chọn được một chi tiết thật sát hợp, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện thấm thía những tình cảm khi tỏ, khi mờ, lúc da diết bâng khuâng, lúc xót xa thương mến. Câu (thơ "Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay" nhấn lại dòng kỉ niệm, xoáy sâu trong tiềm thức, lay mạnh cả thể xác con người. Đọc thơ, người đọc cũng cảm thấy + cay cay nơi đầu mũi: Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ ở những - chi tiết, ngôn từ chân thực và giản dị như thế. Cái "Bếp lửa" kỉ niệm của ông chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói.. mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đẫm biết bao nghĩa tình sâu nặng. Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.. Từ trong sương khói mịt mờ của tuổi nhi đồng, thổi hồng lên kỉ niệm của tuổi thiếu niên khi quê hương, đất nước có chiến tranh. Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ thủ thỉ như giọng kể trong một truyện cổ tích, có thời gian, không gian, có sự việc và các nhân vật cụ thể. "Tám năm ròng", con số không lớn, nhưng ngày tháng cứ kéo dài ròng rã, nặng nề. Bởi vì "những ngày ở Huế ấy, cuộc sống gia đình thật hoang vắng, quạnh hiu. Bố mẹ bận công tác xa, không về. Chỉ còn hai bà cháu cặm cụi bên nhau," nhóm lửa "mỗi sớm, mỗi chiều trong tiếng tu hú kêu. Nếu trong kỉ niệm hồi bốn tuổi - ở phần trên – ấn tượng đậm nét nhất của đứa cháu là" mùi khói "thì đến đây, ấn tượng đấy là" tiếng tu hú kêu ". Trong mười một câu thơ mà âm vang tới năm lần tiếng tu hú. Lúc mơ hồ văng vẳng từ những cánh đồng xa" lúc gần gũi nghe "sao mà tha thiết", tiếng tu hú như than thở sẻ chia. Có lúc nó giống giả, dồn dập, "kêu.. hoài". Tu hú là loài chim không tự làm tổ được. Nó thường sống lẻ loi, nay đây mai đó, cất tiếng kêu khắc khoải. Trong cảnh sống đơn côi chỉ có hai bà cháu giữa đói nghèo và chiến tranh, tiếng tu hú phải chăng là tiếng đồng vọng của trời đất, để động viên an ủi kiếp người đau khổ? Đưa tiếng tu hú – một âm thanh rất đông nội ấy - vào thơ, thi sĩ Bằng Việt quả là một tâm hồn thơ gắn bó sâu nặng với quê hương, Tổ quốc Việt Nam. Trong các cung bậc khác nhau của tiếng tu hú, tâm trạng người cháu mỗi lúc một thiết tha, mạnh mẽ, hình ảnh người bà hiện rõ dần dần. Bên bếp lửa hồng bà kể chuyện, Chuyện đời thực ngày nay, chuyện cổ tích ngày xưa.. Rồi: ".. bà bảo cháu nghe – Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học". Từng việc, từng việc, nhỏ nhẹ, âm thầm, hai bà cháu từng ngày, từng tháng và "tám năm ròng" cùng nhau "nhóm bếp lửa" để nấu nướng thức ăn, để sưởi ấm chỗ ở, để soi sáng trí tuệ và tâm hồn. Hình ảnh "bếp lửa" và việc "nhóm lửa" cùng hình ảnh bà âm thầm, tần tảo bên ánh lửa, trong tiếng tu hú kêu xa cứ trở đi, trở lại, vấn vít, xoắn quyện vào nhau, dệt nên một bức tranh lung linh xao xuyến. Đứa cháu lớn dần. Cuộc sống khó khăn hơn. Song nghị lực của bà vẫn bền vững, tấm lòng của bà vẫn mênh mông. Kỉ niệm mà người cháu nhớ lại cứ trang trải, như ánh sáng của bếp lửa trong nhà hắt ra tỏa sáng cả xóm làng, đất nước. Thơ kể tiếp những sự việc cụ thể: Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh: "Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ, Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!" Với những dòng thơ chân thực như chính cuộc sống đang hiện lên ấy, cứ để nguyên khối, chẳng cần phân tích, lí lẽ nhiều lời, chúng ta vẫn thấm thía vẻ đẹp tinh thần của cả một thế hệ người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vừa qua. Đó là tình đoàn kết xóm làng, là ý chí, nghị lực những người mẹ, người bà ở hậu phương hướng ra tiền tuyến và đẹp hơn hết là vẻ lunglinh, bất diệt của tình bà cháu hòa trong tình yêu quê hương, Tổ quốc. Do đó, không phải ngẫu nhiên, từ hình ảnh "bếp lửa", đến đây lời thơ bừng sáng thành "ngọn lửa" : Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.. "Bếp lửa" ở những câu thơ trên chủ yếu biểu hiện cuộc sống âm thầm, lặng lẽ trong căn nhà nhỏ hẹp của hai bà cháui "Ngọn lửa", từ dòng thơ này mang ý nghĩa khái quát, rộng lớn hơn. Đó là sức sống, là tình thương, là niềm tin của bà trong cuộc sống hai bà cháu, cuộc sống cả gia đình và rộng ra là đối với toàn dân tộc, với công cuộc chiến đấu lúc bấy giờ. Hình ảnh "ngọn lửa" tỏa sáng câu thơ, lung linh chân dung của bà, làm ấm lòng trái tim mỗi bạn đọc chúng ta. "Ngọn lửa" biểu tượng của sự sống muôn đời bất diệt, không chỉ là của riêng bà trong kỉ niệm của cháu ở bài thơ này, mà còn là biểu tượng chung cho toàn dân tộc, đất nước ta trước kia, thắp sáng đến tận ngày nay. Ở đoạn thơ cuối, kỉ niệm tuổi thơ lắng dần. Thơ chuyển từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ đối với bà sang những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, về ân sâu nghĩa nặng của người thanh niên trưởng thành ngày nay đối với bà của mình và thế hệ ông bà, cha mẹ nói chung: Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Máy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa! Từ đầu bài thơ, hình ảnh "bà" và "bếp lửa" luôn song hành đến đoạn cuối này đã hòa làm một. Điệp từ "nhóm" được nhắc lại bốn lần mang bốn nghĩa khác nhau, bồi đắp cao dần, tỏa sáng dần dần: Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa! Tác giả - người cháu trong bài thơ như đã nhận ra một điều sâu xa rằng: Bếp lửa được bà nhen lên không chỉ bằng nhiên liệu từ bên ngoài mà còn chính lòng thương và niềm tin.. Vì thế, khi bà "nhóm bếp lửa" cũng là lúc nhóm niềm yêu thương, bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng ấm, "Nhóm nồi xôi gạo mới sẽ chung vui", bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm, quê hương. Và cuối cùng, người bà kì diệu ấy "nhóm dậy", "khơi dậy", giáo dục, thức tỉnh tâm hồn và sức sống thanh xuân thơ ấu để đứa cháu khôn lớn nên người.. để đứa cháu được đi xa, được thấy "ngọn khói trăm tàu", để có "lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả". Như thế, hình ảnh bà không những biểu tượng cho người nhóm lửa "," giữ lửa "mà còn biểu tượng cho những người, lớp cha ông, truyền lửa - ngọn lửa của sự sống, lòng yêu đời, niềm tin.. cho các thế hệ nối tiếp. Ngôn ngữ dào dạt như sóng dồi, lan tỏa như lửa ấm. Hay đây chính là cảm xúc, dâng trào, đang tỏa ấm của nhân vật người cháu, của nhà thơ? Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. Đó là đạo lí cội nguồn của dân tộc Việt Nam chúng ta trong quan hệ gia đình, con đối với cha mẹ, cháu đối với ông bà, tiên tổ:" Ăn quả nhớ người trồng cây "," Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm.." Tóm lại, qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ Bếp lửa gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với kể chuyện, miêu tả và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà để làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà, về tình bà cháu. Ôi kì lạ và thiêng liêng – Bếp lửa! Hình ảnh và âm điệu của câu thơ đặc sắc ấy sáng mãi, ngân nga mãi trong lòng bạn đọc chúng ta.