Bài 1: Buổi chiều lữ thứ Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hô Tiếng ốc xa đưa lẩn trống dồn Gác mái, ngư ông về viễn phố Gõ sừng, mục tử lại cô thôn Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi Dặm liễu sương sa khách bước dồn Kẻ chốn trang đài, người lữ thứ Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn? Nguồn: Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953. Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004. Bản dịch khác: Chiều hôm nhớ nhà Vàng tỏa non tây, bóng ác tà, Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa. Ngàn mai lác đác, chim về tổ, Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà. Còi mục thét trăng miền khoáng dã, Chài ngư tung gió bãi bình sa. Lòng quê một bước nhường ngao ngán, Mấy kẻ tình chung có thấu là? Nguồn: Việt Nam thi văn hợp tuyển, Dương Quảng Hàm, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Hà Nội, 1951. Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953. Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004. Cảnh chiều hôm Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn Tiếng ốc xa đưa lẫn trống dồn Gác mái, ngư ông về viễn phố Gõ sừng, mục tử lại cô thôn Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi Dặm liễu sương sa, khách buớc dồn Kẻ chốn chương đài nguời lữ thứ Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn? Nguồn: Đang cập nhật Chiều xa nhà Trời chiều lãng đãng ánh hoàng hôn Ốc hụ xa vang với trống đồn Đánh cá mái đưa về phố thị Chăn trâu sừng gõ lại cô thôn. Rừng mai gió bạt chim bay mỏi Rặng liễu sương buông khách bước dồn. Kẻ ở cung đài ta lữ khách Ai người tâm sự nỗi hàn ôn? Nguồn: Tình tự thi tập 2 Bài 2: Qua đèo ngang Bước tới đèo Ngang bóng xế tà, Cỏ cây chen đá, lá chen hoa. Lom khom dưới núi tiều vài chú, Lác đác bên sông rợ mấy nhà. Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc, Thương nhà, mỏi miệng cái da da. Dừng chân đứng lại: Trời, non, nước, Một mảnh tình riêng, ta với ta. Nguồn: Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953. Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004. Thử bàn về vấn đề phiên Nôm, Nguyễn Ngọc San, Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm, 11-2004. Bài 3: Thăng Long thành hoài cổ Tạo hóa gây chi cuộc hý trường, Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương. Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, Nền cũ lâu đài bóng tịch dương. Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, Nước còn chau mặt với tang thương. Nghìn năm gương cũ soi kim cổ, Cảnh đấy người đây luống đoạn trường. Nguồn: Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953. Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004. Bài 4: Chùa Trấn Bắc Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu Khách đi qua đó chạnh niềm đau Mấy tòa sen rót mùi hương ngự Năm thức mây phong nếp áo chầu Sóng lớp phế hưng coi đã rộn Chuông hồi kim cổ lắng càng mau Người xưa, cảnh cũ, nào đâu tá? Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu! Nguồn: Việt Nam thi văn hợp tuyển, Dương Quảng Hàm, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Hà Nội, 1951. Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953. Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004 Bản dịch khác: Chơi chùa Trấn Quốc Qua chơi Trấn Quốc cảnh buồn rầu Ngao ngán tình xưa dạ chạnh đau Mấy tòa sen rót mùi hương ngự Năm thức mây phong nếp áo chầu Sóng lớp phế hưng coi đã rộn Chuông hồi kim cổ lắng càng mau Người xưa, cảnh cũ, nào đâu tá? Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu! Nguồn: Đang cập nhật Ngoài cửa hành cung cỏ dãi dầu Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau Mấy tòa sen rót mùi hương ngự Năm thức mây phong nếp áo chầu Sóng lớp phế hưng coi đã rộn Chuông hồi kim cổ lắng càng mau Người xưa, cảnh cũ, nào đâu tá? Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu! Nguồn: Đang cập nhật Bài 5: Tức cảnh chiều thu Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa, Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ. Xanh om cổ thụ tròn xoe tán, Trắng xóa trường giang phẳng lặng tờ. Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu, Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ. Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ, Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ. Nguồn: Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX, Nguyễn Tường Phượng, Phan Văn Sách, Bùi Hữu Sung, Trường Nguyễn Khuyến xuất bản, Hà Nội, 1953. Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004. Bài 6: Cảnh Hương Sơn Đệ nhất nam thiên ấy cảnh này, Thuyền nan đón khách máy chèo lay. Hai bên quả núi lồng hương suối, Bốn mặt hoa ngàn rủ bóng cây. Cửa Phật lơ thơ tầng đá dãy, Chùa tiên bát ngát khói hương bay. "Nam vô" tiếng dậy thưa trần tục, Non nước Bồng Lai mới thấy đây! Bản dịch khác: Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa, Bút thần khôn vẽ cảnh tiếu sơ, Xanh om cổ thụ tròn xoe tán, Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ. Bầu dốc giang sơn say chấp rượu, Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ, Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ. Bài 7: Chùa Trấn Võ Êm ái chiều xuân tới Trấn đài Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai Ba hồi chiêu mộ, chuông gầm sóng Một vũng tang thuơng, nước lộn trời Bể ái ngàn trùng khôn tát cạn Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi Nào nào cực lạc là đâu tá Cực lạc là đây, chín rõ mười Nguồn: Đang cập nhật Bài 8: Song nữ tế tế thái thuỷ văn Trước sàng linh khóc mà than rằng: Kỳ trăm năm chưa mãn, mẹ vội lên cõi Phật chẳng nhìn con, Ơn chín chữ khôn đền, con tìm khắp dưới trời không thấy mẹ. Mẹ lìa! Mẹ ơi! * * * con, tình thảm thiết, sao đành, Con nhớ mẹ, nỗi sau xưa, xiết kể. Duyên tác hợp, lạm nghe mười chín tuổi, rổ tần phồn từng theo dấu mẹ đi. Mối sinh thành đã hầu bảy tám lần, sân chi diệp lại ví dòng Tạ thị. Thúi từ nhân đà nức tiếng nghi gia, Đường thanh lịch cũng đủ mùi thù thế. Ngoài ba kỷ chưa vẹn nguyền giai lão, buồng hung từng gió tủi mưa sầu, Năm mươi năm chưa trọn kiếp phù sinh, chồi liễu bỗng sương giăng nắng xế. Ôi! Lá rụng ngàn xuân, Mây lồng đỉnh dãy. Trên tiên cảnh chợt mách tin, thanh điểu rước cùng đi cho vẹn nghĩa tao khang, Dưới trần hoàn dầu cưu dạ từ ô tìm đâu thấy để đền ơn non bể. Núm đồng nghiêng, dễ cấm tiếng chuông rè, Chùm quả nặng, khôn nâng cành lá ủ. Song cũng biết một trai là có, nhưng đà mây bay hạc lánh, thừa điêu phải cậy tôn hàng, Đã hay mười gái cũng là không, khôn biết quả mãn thuyền đầy, tương sự chỉ nhờ tay nữ tế. Rày: Nhân tiết hạ thiên, Lâm tuần đoan ngọ. Gọi là bát nước điển hương, lòng thành kính dãi bày Ngu tế. Nguồn: Vũ Thanh Hằng, "Một bài văn tế bằng chữ Nôm," Tạp chí Hán Nôm, số 1/1990