Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nói: Nhắc đến Chiến dịch Hòa Bình sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến một sáng kiến đã mang lại sự cải thiện rất quan trọng trong đời sống của chiến sỹ ngoài mặt trận. Khói lửa từ bếp của anh nuôi đã nhiều lần làm lộ vị trí trú quân dẫn đến những tổn thất xương máu. Công việc thổi nấu đều phải tiến hành vào ban đêm để đề phòng máy bay địch. Bộ đội trong mùa đông vẫn phải ăn cơm nguội, uống nước lạnh. Trong Chiến dịch Hòa Bình, một chiến sỹ nuôi quân ở trạm quân y của Đại đoàn 308 đã có sáng kiến đào những đường rãnh thoát khói bên sườn núi, nối liền với lò bếp bên trên rãnh đặt những cành cây và phủ một lớp đất mỏng được tưới nước để giữ độ ẩm. Khói từ trong lò bếp bốc lên qua các đường rãnh chỉ còn là dải hơi nước tan nhanh khi rời khỏi mặt đất. Từ đó, anh nuôi có thể thổi nấu ban ngày ngay cả khi máy bay trinh sát địch bay trên đầu. Bếp Hoàng Cầm, mang tên người sáng tạo ra nó đã phát huy hiệu quả trong tất cả các chiến dịch sau, kể cả trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Hoàn cảnh ra đời Bếp Hoàng Cầm Khi đơn vị tham gia chiến dịch Hoàng Hoa Thám và chiến dịch Hòa Bình năm 1952, được tận mắt chứng kiến cảnh đồng đội bị thương vong nhiều, sức khỏe giảm sút do máy bay địch oanh kích và điều kiện ăn uống không đảm bảo. Hoàng Cầm nhận ra chiến tranh ngày càng khốc liệt. Bộ đội ta chiến đấu, hy sinh không chỉ ở mặt trận giáp mặt quân thù mà hy sinh, thương vong ngay cả khi về hậu cứ nghỉ ngơi, sinh hoạt. Nguyên nhân của việc mất mát ấy có một phần do việc nấu ăn vì ban đêm thấy lửa ban ngày thấy khói. Rất nhiều thương vong của bộ đội xuất phát từ việc "khói bốc lên giữa rừng", máy bay địch phát hiện đã trút bom đạn xuống. Tổ anh nuôi của Hoàng Cầm và nhiều đơn vị khác phòng tránh bằng cách chuyển sang nấu ăn ban đêm, khi máy bay địch tới thì dập lửa, dội nước, nhưng nhiều khi vẫn không tránh kịp tai họa. Đang đun, dập lửa, cơm thường bị khê, sống. Nấu ăn ban đêm, ban ngày cơm nguội lạnh, bộ đội ăn không đảm bảo sức khoẻ. Hoàng Cầm đã trăn trở ngày đêm suy nghĩ, mình phải làm một cái gì đó giúp cho đồng đội giảm bớt thương vong. Một buổi sáng dạo bên bờ suối, nhìn làn khói lượn lờ quanh mái bếp, Hoàng Cầm chợt nảy ra sáng kiến làm một kiểu bếp có thể nấu nướng mọi thứ ban ngày mà không sợ máy bay địch phát hiện. Sau nhiều ngày miệt mài nghiên cứu, vẽ sơ đồ một số kiểu bếp, và nhiều lần làm thử nhiệm. Hoàng Cầm đào hàng chục cái bếp khác nhau, với những kiểu bếp khoét sâu vào trong lòng đất có nhiều nhánh dẫn khói giống như hang chuột. Làm xong anh đặt nồi lên từng cái bếp, chất củi đun thử. Kết quả tạm được, nhưng lửa vẫn lộ, khói vẫn phảng phất bay lên. Không nản chí Hoàng cầm lại hì hục đào hàng chục cái bếp khác nữa. Lần này Hoàng Cầm đào các đường dẫn khói chẽ ra nhiều nhánh và dài gấp đôi. Trên rãnh dẫn khói rải cành cây rồi đổ đất san phẳng. Phía trước cửa bếp đào một hố sâu, trên lợp nilon hoặc lá vừa để đồ, vừa che ánh lửa và có hầm chứa khói, hút lửa mạnh hơn. Cuối cùng, Hoàng Cầm đã tạo ra một kiểu bếp như ý, bếp lò khoét vào sườn đồi hoặc đào sâu xuống với những đường rãnh giống như râu mực từ bếp lò bò đi khá xa, trên rãnh được lát bằng cành cây và phủ đất ẩm tạo thành những ống thoát khói. Từ trong lò tuôn ra, khói tỏa vào khắp các rãnh, bốc lên gặp lượt đất ẩm, bị lọc và cản lại, lan ra là là trên mặt đất, thoảng nhẹ nhàng như làn sương buổi sớm. Kiểu bếp này ngay sau đó đã được phổ biến rộng rãi đến các đơn vị và được anh em nuôi quân hoan nghênh. Bếp do Hoàng Cầm sáng tạo rất phù hợp với bộ đội thời chiến, kín lửa, khói không bốc cao, anh nuôi nấu ăn cả ngày, cả tối, không sợ máy bay địch phát hiện. Bộ đội có cơm nóng, canh ngọt. Mỗi khi ém sát địch, anh nuôi vẫn nổi lửa đêm ngày. Tháng 10 năm 1952, đơn vị đã quyết định lấy tên người chiến sỹ sáng tạo ra để đặt tên bếp: Bếp Hoàng Cầm. Hiệu quả thực tế Với những ưu thế đặc biệt nên ngay sau khi ra đời trong Chiến dịch Hòa Bình, bếp Hoàng Cầm đã trở nên phổ biến trong các đơn vị. Đặc biệt là trong Chiến dịch Điện Biên Phủ và những năm kháng chiến chống Mỹ sau này. Điều này đã được CCB Đỗ Hạp, 91 tuổi hiện đang sống tại Khu đô thị Văn Quán - Hà Đông (Hà Nội) là Trưởng Ban liên lạc CCB Trung đoàn 88 (Trung đoàn Tu Vũ) trực tiếp tham gia Chiến dịch Hòa Bình mà chúng tôi có may mắn được gặp đã chia sẻ: "Nếu không có bếp Hoàng Cầm thì có lẽ việc tổ chức cấp dưỡng đảm bảo sức khỏe cho bộ đội chiến đấu còn gặp rất nhiều khó khăn. Với sáng kiến này, khi đó, bộ đội chúng tôi đã được ăn cơm nóng, có nước nóng để uống trong mùa đông. Các viện quân y dã chiến có nước nóng để sát trùng dụng cụ y khoa.." Có thể nói, sáng kiến này có giá trị lớn trong thực tiễn hoạt động hành quân, chiến đấu và góp phần quan trọng giữ gìn sức khỏe cho bộ đội, bảo đảm quân số chiến đấu cao trong những chiến dịch dài ngày như Chiến dịch Hòa Bình và sau này là Chiến dịch Điện Biên Phủ và cả thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chiến dịch Điện Biên Phủ có quy mô lớn nhất trong 9 năm kháng chiến chống Pháp của quân và nhân dân ta. Chiến dịch được tổ chức trong điều kiện địa hình hết sức phức tạp, công tác bảo đảm gặp nhiều khó khăn; hỏa lực, không quân địch mạnh hơn ta gấp nhiều lần lại liên tục uy hiếp suốt ngày đêm. Do vậy việc sử dụng bếp Hoàng Cầm trong chiến đấu đã phát huy hiệu quả rất cao, đảm bảo yếu tố bí mật, bất ngờ, tránh được sự phát hiện của máy bay địch, hạn chế thương vong cho bộ đội. Có bếp Hoàng Cầm là có cơm dẻo, canh nóng được phục vụ ngay trên chiến hào cho bộ đội. Thậm chí, có những đơn vị với hàng trăm người đóng quân chỉ cách hầm chỉ huy tập đoàn cứ điểm của địch không xa, trong thời gian dài nhưng địch hoàn toàn không biết dù mỗi ngày có hàng chục lượt máy bay trinh sát của địch bay lượn. Có được điều đó là do bếp Hoàng Cầm đã giấu đi ngọn khói vào trong lòng đất. Bắt đầu từ Chiến dịch Hòa Bình (1951 - 1952), bếp Hoàng Cầm đã trở thành huyền thoại trong chiến đấu của quân, dân ta trong Chiến dịch Điện Biên Phủ và sau này là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trải dài trong suốt 21 năm.