Trăng lạnh sương tan, lướt nhẹ qua năm tháng ngược dòng lịch sử về quá khứ lại chứng kiến mồn một cảnh tượng nước mất nhà tan, bao cuộc đấu tranh đẫm máu tan thương từng cảnh một hiện ra trước mắt, từng nghe cổ nhân nhấc "lịch sử lấy quá khứ làm bài học cho hiện tại, lấy nhân nghĩa của người đi trước làm thầy của bản thân", từng nhớ một đoạn lịch sử hào hùng mà thương tâm, Thái Tổ Lê Lợi dùng một kiếm quét sạch quân thù, Nguyễn Trãi khắc Bình Ngô Đại Cáo ca ngợi công lao chiến thắng quân thù, chiếu cáo thiên hạ, nhớ năm đó, Bình Ngô Đại Cáo như một áng văn thiêng cổ ghi lại chiến thắng oanh liệt của dân tộc, bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh, điều đáng khâm phục nhất ở áng văn thiên cổ kia không chỉ là tư tưởng nhân nghĩa mà còn là chân lý về chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt, ý nghĩa ấy được Nguyễn Trãi khắc họa nổi bật nhất ở đoạn một của bài đại cáo. Chỉ đoạn đầu tiên mà lại khiến cho người nghe sởn gai óc về những hiện thực và ý nghĩ cao thâm mà Nguyễn Trãi đã gởi gấm vào từng con chữ. Thân bài: Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Chép đoạn một ra. Nguyễn Trãi vị anh hùng không ai không biết, Ông không chỉ là nhà quân sự tài ba mà còn là tác giả lớn của nền văn hoc Việt Nam. Năm ấy, nghĩa quân Lam Sơn đánh cho giặc Minh tan tác, theo lời Thái Tổ, Nguyễn Trãi soạn bài Bình Ngô Đại cáo, như bản hùng ca về tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của Đại Việt sau bản Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt, đây là bài cáo được viết theo lối văn biền ngẫu vần đối với nhau, mỗi câu dài ngắn khác nhau thể hiện chất hào khí. Bài cáo sinh ra ở bối cảnh không tầm thường nên giá trị cũng trở nên to lớn, chỉ ở đoạn đầu của bài cáo đã hiện lên lòng nhân nghĩa yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi. Đối với ông "nhân và nghĩa" là cái cốt lõi nhất để giữa vững giang sơn xây dựng giang hà, mở đầu cho bài cáo là "từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt rư yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo", chỉ với hai từ "từng nghe" đây ám chỉ cho một đạo lý của đạo nho đã có sẳn từ trước, các sĩ tử như ông cũng đã từng học, từng nghe thấy và ghi nhớ trong lòng từ câu chữ, đạo nho rất đề cao nhân và nghĩa, vì trong đạo lý làm người của các bậc thánh nhân thì nhân "được xếp đầu," nghĩa "được nằm thứ ba, đủ thấy hai chữ này có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với các bậc sĩ tử về cách đối nhân xử thế. Ông lấy cái nhân nghĩa này đặt tại lòng dân, cốt ở lòng thiên hạ, lại từng nghe các cổ nhân dạy" Phúc chu thủy tín dân do thủy "xem dân là nước, vua là thuyền, thuận lòng dân thì được thiên hạ, mất lòng dân thì mất thiên hạ, nước có thể nâng thuyền xuôi theo chiều gió đẩy thuyền đi xa, nước cũng có thể nhấn chìm con thuyền một cách tan tác, ông xem việc lấy nhân nghĩa để thu phục lòng bá tánh, vì vậy hết lòng lo cho thường dân áo vải ai cũng có cơm ăn áo mặc, chăm lo cho dân chúng Đại Việt một cuộc sống ấm no hạnh phúc, không phải chịu khổ vì cảnh loạn ly thời chiến, có yên dân thì đất nước mới thật sự bình yên. Việc nhân nghĩa với ông cũng chính là" trừ bạo "trừ bạo ở đây chính là quét sạch bọn giặc cỏ bạo tàn cho chủ quyền quốc gia được toàn diện, diệt sạch bọn gian tà bán nước cầu vinh cho nước nhà yên ấm dân không khổ sở, nhân nghĩa còn thể hiện ở việc thu phục nhân tâm, tha cho giặc thù một con đường sống, nhớ trận Đông Quan năm ấy, giam hãm tướng giặc Vương Thông trong thành, mở lòng nhân nghĩa tha cho hắn con đường sống, cấp cho thuyền ngựa đuổi chúng về nước. Lấy việc nhân nghĩa để an lòng dân, làm cho quân giặc nể phục về tấm lòng nhân nghĩa của quân dân Đại Việt. Ông lại khẳng định trong bài đại cáo về nền độc lập chủ quyền của dân tộc ta, khẳng định nền văn hiến phong tục lâu đời của Đại Việt, " Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục bắc nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng hùng một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có " Cũng như bản tuyên ngôn độc lập lần một của Lý Thường Kiệt, Đại Việt sớm đã có một nền văn hiến không hề kém cạnh quốc gia Phương Bắc về thời gian cũng như không gian trưởng thành, sông núi nước nam, rừng vàng biển bạc nước nam, đất trời nước nam sớm đã là của người nam, đất trời từ lâu đã sớm phân định, không thể cải sửa, phong tục ngàn đời của hai quốc gia sớm đã khác nhau, tuy nói Đại Việt ngàn năm bắc thuộc nhưng cũng chỉ là tiếp thu tinh hoa văn hóa của phương Bắc mà làm giàu thêm nguồn văn hóa cho dân tộc, không hề bị đồng hóa. Vì vậy, cả bốn triều đại" Triệu, Đinh, Lý, Trần "của ta không hề kém cạnh sự phồn hoa huyên náo của bốn triều đại phương bắc" Hán, Đường, Tống, Nguyên ", xưa nay chỗ ai nấy ngự, vua ai nấy thờ, tuy mạnh yếu tùy lúc khác nhau, nhưng nhân tài thì đời nào cũng có, người tài của Đại Việt luôn tài đức vẹn toàn so với phương bắc chỉ hơn chứ không kém. Non sông gấm vóc, đất nước thanh bình thịnh thế, vì muốn giữ được một dãy sơn hà do tổ tiên nhọc lòng gây dựng, mảnh đất Nam Việt này không biết đã nhuốm bao nhiêu mùi mưa máu gió tanh, chôn xác nghìn vạn tên giặc cỏ, dùng máu tươi, xương trắng của con dân Đại Việt thấm vào lòng đất sâu thẳm, để giữ lại được một mảnh đất thiêng của dân tộc. Khi đất nước hưng vong, chỉ còn một chút hơi tàn cũng quyết đánh một trận sống mái với bọn cường giặc. " Cho nên: Lưu Cung tham công nên thất bại Triệu Tiết thích lớn phải lưu vong Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét Chứng cứ còn ghi " Đây là những trận đánh lưu danh sử sách của ông cha ta từ cửa Hàm Tử cho đến sông Bạch Đằng, đánh và giết đi bao tướng giặc phương bắc nào là Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã Nhi, kẻ thì bỏ chạy, kẻ thì vùi thây nơi đất khách, từng việc từng việc một điều được sử sách ghi lại không thể chối cải. Bọn ngoại xâm hết lần này đến lần nọ" tham công, thích lớn"tham luyến núi sông bờ cõi của Đại Việt ta, hậu quả chúng phải lãnh là trả giá bằng sinh mạng của mình cho sự tham công luyến cán của chúng. Qua đây, ta còn nhận thấy từng chiến công vang dội của nhân dân Đại việt, bất kể bọn chúng có đông và hùng mạnh thế nào, nhưng với sự tài trí linh hoạt của các danh tướng Đại Việt thì chúng cũng chỉ là kẻ bại trận. Đây là một bài cáo được viết theo lối văn biền ngẫu, toát lên giọng điệu hùng tráng, oai nghiêm khi nhấc đến độc lập chủ quyền, lời văn đanh thép tráng lệ, Nguyễn Trãi sử dụng nghệ thuật liệt kê từng hình ảnh sự việc, dẫn chứng hùng hồ khiến cho giá trị và nội dung của đoạn đầu bài cáo trở nên to lớn về tầm vóc, chứng cớ cụ thể thuyết phục xứng đáng là một thiêng cổ hùng văn, tư tưởng nhân nghĩa quật cường, khát vọng độc lập, chiến công hiển hách của nhân dân Đại Việt được khắc họa một cách tráng lệ mang âm điệu của một bản hùng ca. Chỉ vài lời văn ở đoạn một bài đại cáo, lại đưa cho thế nhân thấy cảnh tượng huy hoàng hào hùng của dân tộc, qua đây ta lại cảm nhận được tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi, luôn tự hào về dãy non sông gấm vóc Đại Việt, lại cảm nhận sâu sắc lối hành văn tựa như nước chảy nghìn dòng, mây dài gió lộng của ông. Lấy nhân nghĩa làm gốc của sự thái bình thịnh thế, trừ bạo thế an dân, khẳng định chủ quyền dân tộc, yêu lấy từ tấc đất non sông Đại Việt, đoạn đầu của bài cáo là một trong những bụi vàng làm nên một áng thiêng cổ hùng văn lưu danh sử sách, dù ánh trăng xưa và nay luôn vành vạnh soi sáng, lướt qua ngàn năm, đến nay Bình Ngô Đại Cáo vẫn hiện hữu một tấm lòng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.