Mỵ Châu Tự Truyện Tác giả: Rơm Thể loại: Huyền ảo, hư cấu, tình cảm, truyện ngắn. Giới thiệu truyện: Ta nhìn hắn. "Máu của ta, máu của người thân của ta, của con dân Âu Lạc đã đổ xuống không phải vì cha con chàng muốn Cổ Loa sao? Chiếm được thứ mình muốn rồi sao chàng lại chọn cái chết?" Hắn cười đau thương. "Ta đã từng nghĩ ta muốn thành trì này, muốn đất nước này, muốn leo lên đỉnh cao quyền lực nhưng khi có được trong tay rồi ta vẫn thấy lòng mình trống rỗng, cuối cùng ta phát hiện ra những thứ đó chỉ là vô nghĩa, ta chỉ muốn có nàng mà thôi. Mỵ Châu, ta yêu nàng." * * * Xin chào, mình là Rơm, Đây là phần đầu tiên trong một dự án dài mình định viết về các nàng công chúa trong truyền thuyết của người Việt. Mình sẽ không viết một hơi mà khi nào có cảm hứng sẽ viết một truyện, nên sẽ đăng thành truyện ngắn. Mở đầu sẽ viết về Mỵ Châu, nàng công chúa bị cho là "Trái tim nhầm chỗ đặt trên đầu". Đây là đôi dòng chia sẻ của mình mà bạn nên xem trước khi bắt đầu đọc câu chuyện về Mỵ Châu. Trước hết, đây là một câu chuyện HƯ CẤU lấy cảm hứng từ truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy. Có rất nhiều yếu tố chi tiết sẽ không bám sát Truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy mà bạn biết, xin đừng quá so đo. Câu chuyện lấy bối cảnh nước ta thời kỳ Âu Lạc (khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên) nên mình có tìm hiểu một số tài liệu khảo cứu và quyết định sẽ giữ nguyên cách xưng hô của thời kỳ đó như sau: Con gái của vua: Mỵ nương Con trai của vua: Quan lang Tôi tớ gái: Xảo xứng Tôi tớ trai: Triệu xứng Ngoài ra còn có các danh xưng như: Lạc hầu, lạc tướng, bồ chính.. đều là những người làm việc cho vua. Gửi yêu thương tới tất cả những ai đã và đang theo dõi những câu chuyện mình viết. * * * Ta sinh ra vào mùa hạ, nghe nói đó là một đêm trăng tròn, khi mẹ ta đang ở hành cung tại quê nhà thì chuyển dạ, nhờ mẹ ta rất khỏe mạnh nên chỉ ít lâu sau khi bà chuyển dạ ta đã hân hoan chào đời. Nghe nói tiếng khóc chào đời của ta to đến nỗi dọa cả bầy chim đang ngủ trên mái nhà bay loạn xạ. Dù nhiều người nói đứa trẻ sinh vào đúng dịp trăng tròn sẽ ngang bướng, khó nuôi nhưng mẹ ta không để ý, bà nói ta là một mỵ nương, khó nuôi hơn những đứa trẻ khác thì cha mẹ ta vẫn nuôi được. Đúng vậy, cha ta chính là một vị vua, còn là một vị vua rất vĩ đại, một vị anh hùng. Ông dẫn dắt các bộ tộc Việt đánh đuổi quần Tần, sau đó bằng sự thông minh và cơ trí của mình cha ta đã hợp nhất bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt thành nước Âu Lạc, ông là An Dương Vương. Mọi người đều nói cha ta chính là vị vua được thần linh lựa chọn, ông được thần Kim Quy ban cho một một chiếc móng làm thành một chiếc nỏ thần, chiếc nỏ có thể giết cả trăm quân địch chỉ trong một lần bắn. Ta không rõ chiếc nỏ đó có lợi hại như vậy hay không, nhưng ta đã nhìn thấy chiếc nỏ đó treo trong phòng của cha, to lớn và sáng bóng, rất đẹp. Ta từng xin cha mình chiếc nỏ đó thì ông nói chiếc nỏ này chỉ có thể trao cho quân lang mà thôi. Nhưng mãi vẫn không có cung phi nào sinh được cho cha ta một quân lang, nên chiếc nỏ vẫn cứ treo mãi ở đó. Nhà ta ở Cổ Loa, một tòa thành rất rất to, những xảo xứng lớn tuổi nói với ta rằng, đây chính là tòa thành vĩ đại nhất của đất nước ta từ trước đến nay, có tới ba vòng thành khép kín, lại có hào nước sâu bao quanh. Ta chưa đi hết một vòng thành bao giờ nên không biết nó rộng bao nhiêu nhưng ta biết nó rất cao, có lẽ cao hơn cả bụi tre ở Thao Bồi. Mỗi lần ta lén các xảo xứng chạy ra tường thành chơi, ngẩng mặt nhìn lên mỏi cổ mới thấy được đỉnh của nó. Dù nhà ta ở trong nội thành Cổ Loa tuy nhiên phần lớn thời gian ta vẫn thường sống với mẹ ở hành cung Thao Bồi. Cha ta là một vị vua, điều có có nghĩa là ông ấy không chỉ có một người vợ là mẹ ta mà còn khá nhiều người vợ khác nữa. Cha ta rất sủng ái mẹ ta nên bà được phong làm Nguyên Phi, là Đệ nhị Nguyên phi nhưng mẹ ta không thích danh xưng này, mỗi khi ở Thao Bồi bà vẫn thích được gọi là Thục Nương hơn. Ai cũng nói ta là một mỵ nương may mắn nhất trong số các mỵ nương của cha ta, vì ta được thừa hưởng toàn bộ nét yêu kiều của mẹ và cả một đôi mắt sáng sắc bén của cha, một đứa bé xinh đẹp như hoa như ngọc. Vậy nên khi nhìn thấy mặt ta lần đầu tiên, cha ta đã rất mừng rỡ, gọi ta là Châu, xinh đẹp quý giá như ngọc ngà châu báu, từ đó mọi người đều gọi ta là Mỵ Châu. Sau khi mẹ ta sinh ra ta thì không có mỵ nương nào được sinh ra nữa nên ta trở thành con gái út, vì lẽ đó nên dù có rất nhiều con gái nhưng cha ta rất cưng chiều ta. Ông không chỉ cho ta học chữ nghĩa văn thơ, còn cho ta học múa đao kiếm, bắn cung, cưỡi ngựa, ông nói muốn ta trở thành một mỵ nương văn võ song toàn, trở thành niềm tự hào của ông, của Âu Lạc. Mẹ ta mỗi lần nghe ông nói như vậy chỉ thở dài, bà lặng lẽ vuốt tóc ta thì thầm, một mỵ nương xinh đẹp giỏi giang nhất Âu Lạc đi nữa thì có ích gì, ruột cuộc ta cũng không thể làm chủ cuộc đời hay vận mệnh của mình. Lúc còn nhỏ, ta không hiểu lời mẹ ta lắm, ta thấy mình như trăng trên bầu trời, trăm kiêu vạn sủng. Đồ ta dùng là đồ tốt nhất, thức ăn mỗi ngày cũng là những món ngon nhất, xung quanh có rất nhiều xảo xứng và triệu xứng chỉ chờ để phục vụ chỉ mình ta. Dù ta thường xuyên ở Thao Bồi với mẹ nhưng cha ta vẫn dành cho ta một tòa cung điện rất lớn ở Cổ Loa, sơn son thiếp vàng, xa hoa lộng lẫy. Sau này khi đã trở thành thiếu nữ, nhìn thấy các mỵ nương chị gái của ta lần lượt được ban hôn, ta dần hiểu được lời của mẹ. Là một mỵ nương, chúng ta có thể chọn lựa nhiều thứ, chỉ duy nhất không được chọn người mình sẽ lấy làm chồng. Chúng ta chính là phần thưởng cao quý nhất được cha ta ban cho các quan viên lập công lớn, hoặc trở thành một phần trong số các vật phẩm được gửi đi để cân bằng các mối quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng. Chị cả và chị ba của ta đều được gả cho các lạc tướng lập nhiều chiến công của cha ta, trước khi cưới họ còn không biết mặt nhau. Các mỵ nương khác, có người được gả cho lạc hầu, có người gả cho bố chính ở rất xa hoặc gả con trai của họ, sau khi gả đi thì nhiều năm sau cũng không còn trở về. Cho đến năm ta đến tuổi cập kê thì trong cung chỉ còn lại một mình ta là mỵ nương chưa được ban hôn. Mùa hạ năm nay thật nóng, ta nằm trên sạp đặt gần cửa sổ nhìn ra gốc hải đường, dù trên người chỉ mặc yếm và váy quấn bằng vải lanh nhưng khắp người vẫn rịn ra từng lớp mồ hôi mỏng. Người xảo xứng già cầm quạt lông chim đứng quạt cho ta từng hồi, miệng không ngừng khuyên can: "Xin mỵ nương đừng ham ngâm mình trong nước giếng lạnh nữa, sẽ ngã bệnh mất." Ta uể oải, quay lưng về phía bà. "Nhưng sáng nay ta chỉ mới ngâm có một lần thôi, chiều và tối nay ta muốn ngâm thêm hai lần nữa, nếu không ta sẽ ăn không ngon ngủ không yên." "Nô ty sẽ dùng khăn nhúng nước mát lau mình cho mỵ nương, như vậy người sẽ được mát mẻ mà không cần ngâm nước. Nguyên phi đã dặn không được để người ham mát mẻ mà sinh bệnh." Ta mệt mỏi không buồn trả lời, mẹ ta từ trước hạ đã đi hành cung Thao Bồi, bà có rất nhiều việc muốn làm ở quê mình. Khi thì phát chẩn cho người nghèo, khi thì xây cầu sửa đường, khi lại tu bồ đền đài.. Nghĩ đến hành cung Thao Bồi gần sông, xung quanh lại trồng rất nhiều cây ăn trái tất nhiên sẽ mát mẻ hơn Loa thành đông người nóng bức, lòng ta thấy rục rịch không yên ngồi dậy hỏi một xảo xứng khác đang đứng ngoài cửa. "Chân, hôm nay cha ta có ở trong thành không?" Chân mười bốn tuổi, nhanh nhẹn và khỏe mạnh, thường giúp ta chạy việc qua lại giữa các cung. Nghe ta hỏi liên cung kính nghiêng người trả lời: "Bẩm mỵ nương, bệ hạ đang ở chính điện ạ." Ta đứng dậy sai xảo xứng già thôi quạt đi lấy cho ta áo khoác, lại thay váy quấn thêu mặt trăng, đội lên đầu mũ lông, đeo vòng mã não, khuyên tai ngọc. Ta biết cha luôn thích ta ăn vận trang nghiêm, chững chạc nhìn ra dáng một mỵ nương cao quý. Hôm nay ta muốn xin người được đi hành cung Thao Bồi với mẹ, nếu để cha thấy ta như vậy chắc sẽ hài lòng mà đồng ý. Lúc ta đến cha đang chuyên chú xem tấu chương, dạo gần đây Triệu Đà ở phương Bắc nhiều lần quấy nhiễu Âu Lạc, cha thường xuyên phải đi đôn đốc kiểm tra tình hình chiến sự, khi ở trong cung cũng bận rộn xem tấu chương của các bố chính gửi về. Ta thả chậm bước chân cố gắng để dáng đi của mình được đoan trang nhất. Nghe thấy ta xin được gặp, ông mỉm cười đặt tấu chương xuống vẫy tay gọi ta lại gần. Ta lại bày ra tư thế tiêu chuẩn nhất rót cho ông một chén trà, chờ ông đón lấy thì bắt đầu khe khẽ hỏi thăm sức khỏe của ông. Chờ tới khi cha ta thoải mái tựa mình vào ghế, chân mày cũng giãn ra lúc này ta mới đi vào mục đích chính: "Mẹ con đi hành cung đã lâu, tối qua con nằm trằn trọc mãi không thể an giấc đột nhiên thấy nhớ người quá, lại nghĩ cũng lâu con chưa về Linh từ chính miếu để tế bái nên hôm nay mạo muội xin cha cho phép con được về Thao Bồi. Trước là thăm mẹ, sau là tế bái xin cho đất nước trường tồn bình an." Cha từ ái nhìn ta, ông nói thời tiết nắng nóng ta đi đường đừng quá vội vàng mà chú ý nghỉ ngơi, lại thay cha truyền lời cho mẹ nói qua mùa thu ông muốn bà về lại Loa thành. Ta còn chưa kịp tạ ơn thì thị vệ đã báo có lạc hầu chờ gặp, cha vội vàng xua ta đi, ta trước khi về còn nghiêm khắc nhắc nhở thị vệ nhớ thường xuyên châm trà nước cho ông, đừng để ông ham mê công việc mà quên cả uống nước. Lắc lư nhiều ngày trên đường nóng bức cuối cùng ta đã chạm được chân đến Thao Bồi, mẹ nhìn thấy ta cũng không ngạc nhiên, bà cầm lấy chiếc quạt mo cau quạt cho ta. "Mẹ biết sớm muộn gì con cũng sẽ chạy tới đây, nghe nói năm nay Loa thành rất nóng." Ta nháy mắt với bà: "Lẽ nào con chỉ vì tránh nóng? Con vì nhớ mẹ lại muốn đến Linh từ chính miếu để tế bái nên mới vượt đường xa tới đây." Mẹ ta liếc mắt, bà không nói ta cũng rõ, ý bà là ta cứ tiếp tục kiếm cớ đi, chỉ có cha ta tin chứ bà còn lâu mới tin. Ta cười sung sướng sà vào lòng bà, ngửi mùi hoa cau thoang thoảng trên người bà, đúng là tránh nóng nhưng cũng đúng là ta rất nhớ bà nữa. Ta úp mặt vào bụng bà ầm ừ trong miệng, nói muốn ăn chè hoa cau. Bà vuốt tóc ta nói được, hoa cau trong hành cung đang độ nở, mẹ sẽ nấu cho mỵ nương của mẹ ăn. Ta hài lòng nhắm mắt lại ngủ một giấc. Ta chơi vui quên cả trời đất ở hành cung suốt cả mùa hạ, mỗi ngày đều dắt theo một đám xảo xứng nhỏ tuổi chạy khắp nơi hái hoa bắt bướm, trèo cây bắt cá, làn da cũng bị phơi cho thành màu mật ong. Vị xảo xứng già bên cạnh mẹ ta mỗi ngày đều nhìn ta thở dài, khuyên can mẹ ta, nói mỵ nương đã cập kê rồi không thể nghịch như vậy nữa, mỗi ngày phải bảo dưỡng chăm sóc cho xinh đẹp như vậy mới sớm có được nhân duyên tốt đẹp. Mẹ ta chỉ cười, nói ta dùng trắng như hoa bưởi hay đen như than thì nhân duyên cũng không vì vậy mà có thể như ý, chi bằng để ta chơi thêm mấy ngày sau này đỡ phải tiếc nuối. Dù vậy mùa hạ rồi cũng phải qua đi, khi nắng bắt đầu nhạt màu hơn ý chỉ của cha ta cũng tới thúc dục hai mẹ con sớm quay về Cổ Loa. Ta đem mấy con dế thả ra, lại dặn đám xảo xứng nhớ chăm sóc đàn cá dưới áo cho béo mập, chờ ra giêng ta sẽ lại về chơi. Nếu lúc đó ta biết mình không có cơ hội quay lại Thao Bồi thêm một lần nào nữa ta nhất định sẽ mang hết đàn cá trong ao đem nướng ăn bằng hết. * * * Loa thành đầy dấu vết của một trận chiến vừa qua, tường thành ám khói loang lỗ nhưng mọi người đều hân hoan. Một triệu xứng nói với ta vào cuối hạ Triệu Đà đã đánh tới Loa thành nhưng cuối cùng vẫn không thể hạ được tường thành kiên cố, lại bị mưa tên của quân Âu Lạc bắn cho không kịp trở tay phải tháo chạy. Ta và mẹ đều thở phào nhẹ nhõm, không ai thích chiến tranh cả nhưng dường như nó đã trở thành một phần trong cuộc sống của chúng ta, từ nhỏ ta đã thấy cha ta thường xuyên cầm binh đi đánh giặc, những cuộc chiến lớn nhỏ cứ tiếp nối dường như không có điểm cuối. Ta trở về cung của mình, lại tiếp tục những tháng ngày làm một mỵ nương đoan chính, ngày ngày theo chị cả học cách quản lý nô ty. Cuộc sống quả thật quá buồn chán, vậy nên trong đầu ta mỗi ngày đều nghĩ liệu có thể xin cha cho đi Thao Bồi thêm một lần nữa trước khi hết năm không. Nhưng ta không thể đi nữa rồi, vì ta phải lấy chồng. Một ngày, ta từ chỗ chị cả về chưa kịp tháo trang sức nặng trĩu trên người thì cha tuyên gọi ta tới. Ta đành để xảo xứng đội lại mũ lông lên cho mình rồi đi tới chính điện. Tới nơi đã thấy mẹ ta ở đó rồi, bà ngồi trên ghế cạnh cha ta, đôi mắt ửng đỏ, bàn tay nắm chặt. Ta hơi bối rối, không lẽ cha làm mẹ tức giận, nếu vậy sao cha không dỗ mẹ lại gọi ta đến làm gì? Ta còn chưa biết làm sao thì cha ta đã chỉ tay về phía sau lưng ta, nói ta sẽ lấy người đó làm chồng. Ta quay lại thấy một người đang tiến vào chính điện, ngược sáng làm cho dáng hình người đó không rõ ràng lắm, khiến ta phải nheo nheo mắt cho đến khi hắn bước qua bậc cửa. Có lẽ hắn chỉ xấp xỉ tuổi của ta, gương mặt khôi ngô nhưng non nớt, thân hình cao gầy, đôi mắt một mí khiến cho cặp chân mày rậm bớt đi sự mạnh mẽ. Hắn mặc áo cánh ngắn, thắt lưng to bản thêu chim hạc, tai trái đeo khuyên tai hình thú. Dù hắn đang mặc trang phục của đàn ông Âu Lạc nhưng ta biết hắn không phải người Âu Lạc, hắn rất gượng gạo, có lẽ chưa quen để lộ cánh tay hoặc vùng ngực trước mặt người khác nên không được tự nhiên khi ta nhìn hắn. Dù ngoài mặt vẫn giữ vẻ điềm tĩnh, đoan trang nhưng trong bụng ta lại cười lăn lộn. Cha ta kiếm cho ta người chồng trông chẳng ra làm sao cả. Ta dù gì cũng có thể bắn tên cưỡi ngựa, cầm thương đánh nhau với một đám thị vệ nửa canh giờ không biết mệt, còn hắn ta nhìn rõ thẹn thùng, chỉ hở chút da thịt đã bất an như vậy, lại còn trắng nuốt, khiến cho ta đứng cạnh hắn vốn đã đen lại càng đen hơn. Nhưng ta cũng chỉ dám nghĩ trong lòng thôi, dù hắn có yếu đuối hơn nữa cha ta đã nói phải lấy hắn thì ta sẽ phải lấy hắn. Đây là số mệnh của một mỵ nương, từ lâu lòng ta cũng không còn trông chờ gì cả, ít nhất ta phải thấy may mắn vì hắn còn rất trẻ. Chị năm của ta phải gả cho một bố chính làm vợ kế, ông ta còn nhiều tuổi hơn cả mẹ ta. Cha ta nói hắn tên là Trọng Thủy, con trai của Triệu Đà, hắn được cha hắn gửi đến đây để kết thân với mỵ nương của Âu Lạc như một dấu hiệu giảng hòa, từ nay hai nước sẽ chấm dứt cuộc chiến đã kéo dài nhiều năm. Hôn lễ sẽ được cử hành tại Loa thành, sau khi cưới hắn sẽ cùng sống trong cung với ta. Ta nhẹ nhõm trong lòng, may quá ngoài việc có thêm một người chồng thì mọi thứ vẫn như cũ. Rời khỏi chính điện, mẹ theo ta về cung của mình, bà xua hết xảo xứng ra ngoài sau đó ôm ta và khóc. Ta chỉ lẳng lặng vỗ nhẹ vào vai bà như an ủi, ta biết lòng bà khó chịu. Bà nói ai biết hòa bình tạm bợ này sẽ kéo dài bao lâu, Triệu Đà vốn là một kẻ hiếu chiến, nếu ngày nào đó chiến sự lại xảy ra thì ta phải làm sao đây? Ta cười, vậy thì ta và hắn ai lại về nhà người đó, không sao cả. Mẹ nói ta ngu ngốc, ta lấy hắn rồi sống chung với hắn thì sẽ có tình cảm, mà tình cảm đâu thể nói bỏ đi là bỏ đi, khi đó trái tim ta sẽ đau đớn. Ta lại cười, vậy ta không yêu hắn là được. Mẹ ta khóc một buổi chiều, ta cũng kiên trì ngồi dỗ bà một buổi chiều. Sáng hôm sau bà đi linh miếu sau đó xin ở lại đó tế bái cho đến ngày ta lấy chồng. Ta biết bà đang dùng hành động để phản kháng lại quyết định của cha. Nhưng ích gì đâu. Cha ta cũng không chỉ có mình bà là vợ, ông có thể áy náy với bà nhưng sẽ không vì bà lạnh nhạt mà thay đổi quyết định của mình. Hôn lễ được tổ chức vội vã vì sứ đoàn phải về phương Bắc trước khi mùa đông lạnh lẽo kéo đến làm cho việc đi lại khó khăn hơn. Ta cũng không kén chọn đòi hỏi gì cả, ngày đó các xảo xứng đưa gì ta liền mặc cái đó, bình tĩnh cùng hắn bái tế thần sông thần núi, lại bái tế tổ tiên, rồi đưa hắn về cung của mình. Một ngày hết quỳ lại lạy, trên người lại mang vác vô số ngọc ngà vải vóc làm ta kiệt sức. Vào đến phòng ngủ ta không khách khí gọi một triệu xứng tới mang hắn đi một gian phòng khác tắm rửa vì chính ta cũng phải thay xiêm y và tắm rửa. Có lẽ ta ngâm mình hơi lâu nên lúc đi ra đã thấy hắn ngồi chờ trong phòng tóc cũng gần khô. Hắn vừa thấy ta thì nở nụ cười thân thiết: "Hôm nay chắc nàng rất mệt mỏi?" Ta thấy hắn miệng cười nhưng đôi mắt không cười, vẫy tay xua hết đám xảo xứng ra ngoài, lại gọi Chân đóng cửa lại, với tay rót cho mình một chén trà, ta vừa uống vừa nhìn hắn. Nụ cười trên mặt hắn không giữ nổi, từ từ biến mất. Ta đặt ly trà xuống, vậy mới đúng. "Chàng không phải ép mình cười với ta. Ta biết chàng không thích ta, ta cũng vậy, nhưng không còn cách nào khác chúng ta phải trở thành vợ chồng. Vậy nên, ra khỏi cung của ta chàng có thể ra vẻ thân thiết một chút, còn về đây rồi thì không cần nữa. Cả hai chúng ta đều rõ trong lòng rằng cha của chàng sẽ không nhẫn nhịn lâu, nếu đã biết hai ta không thể có kết cục tốt thì tội gì phải bắt đầu. Chàng nói có phải không?" Hắn trầm mặt cúi đầu không đáp, ta buồn ngủ tới hai mắt díp lại bèn chỉ cho hắn chiếc sạp gỗ cạnh cửa sổ, nói tối hắn có thể ngủ ở đó, ta đã kêu xảo xứng chuẩn bị đầy đủ chăn nệm. Nói rồi chui lên giường buông màn nhanh chóng đi vào giấc mộng. Ta không rõ tối đó hắn có ngủ hay cứ ngồi vậy, chỉ biết sáng ta thức dậy thì đã thấy chăn nệm trên sạp đã xếp gọn gàng mà phò mã mới ra lò lại không thấy đâu. Ta cũng chẳng vội vàng, thay xiêm y, búi lại tóc, rửa mặt xong mới gọi Chân vào hỏi thì biết sáng sớm hắn đã thức dậy và đi dạo quanh thành. Hắn là con trai của Triệu Đà, cha ta dù gả con gái cho hắn nhưng chắc chắn sẽ không để cho hắn muốn làm gì thì làm, ông sẽ cho người giám sát hắn. Vậy nên ta mặc kệ, gọi người dọn đồ ăn sáng rồi định lên sạp nằm nghỉ ngơi một chút, lại sực nhớ đã cho hắn chiếc sạp này nên kêu Chân gọi thợ mộc tới, ta muốn làm một chiếc sạp khác đặt ở cửa sổ đối diện, dù gì đi nữa ta cũng không muốn bỏ đi thói quen nằm lười trên sạp hóng gió của mình. Ta với hắn cứ vậy trở thành vợ chồng. Nhưng còn lạnh nhạt hơn cả người dưng. Một hôm cha ta hứng chí gọi tất cả con gái con rể cùng về ăn cơm, ta đành phải sai Chân đi tìm hắn về, lại sai xảo xứng chuẩn bị y phục cho hắn. Khi chúng ta đến mọi người đều đã tề tựu đông đủ, từ ngoài hành lang văng vẳng tiếng nói cười xôn xao, tiếc là khi chúng ta vừa xuất hiện dường như mọi người đều đồng loạt im bặt. Ta chẳng thấy khó xử gì cả, thoải mái dắt hắn đi đến chỗ của mình và ngồi xuống. Các anh rể đều là tướng quân, chuyện họ có thể vui vẻ đàm luận cùng cha ta dĩ nhiên phò mã của ta không thể nào nghe được. Bữa cơm cứ như vậy gượng gạo bắt đầu, rồi dần dà không hiểu bằng cách nào hắn cầm chén rượu quàng vai bá cố với các anh rể của ta, rồi lại thấy hắn nghiêm chỉnh cầm chén rượu kính cha ta, văn chương trôi chảy từ ngữ bay bổng, khiến cho cha ta cười lớn không ngừng. Ta không cản hắn cũng không hùa theo, một mình chuyên chú ăn cơm, ăn xong thì để lại một triệu xứng chờ hắn rồi đi về trước. Đêm đến ta đang say giấc thì bị âm thanh va đập làm cho tỉnh lại, vén rèm lên thì thấy hắn đang nửa người nằm trên sạp nửa người sắp đổ xuống nền nhà. Không muốn hắn nửa đêm đâm đầu xuống nền gạch rồi chết trong phòng mình ta đành đi xuống đỡ hắn lên. Người này bình thường trông hơi gầy yếu như uống say vào lại nặng như một tảng đá, ta phải cố hết sức mới nâng được hắn lên sạp. Lại rủ lòng từ bi kéo chăn đắp cho hắn, lúc ta thu tay lại định đứng dậy thì vô tình chạm vào má hắn. Nóng rực như hòn than. Lúc nãy ta chỉ chạm vào hắn qua lớp quần áo mùa đông dày nên không nhận ra hắn đang sốt. Chẳng có cách nào khác, đành đành thức xảo xứng trực đêm dậy, lấy khăn và nước mát hạ sốt cho hắn, lại sai Chân đi lấy một ít thảo mộc nấu thành một chén thuốc. Ta kiên nhẫn ngồi đút cho hắn từng thìa nhỏ, dù ta không thích hắn nhưng cũng không đến mức muốn hắn phải chết. Tất bật suốt một đêm, đến gần sáng thì hắn cũng hạ sốt, ta thở phào nhẹ nhõm, cho xảo xứng đi nghỉ còn mình thì kéo một chiếc ghế tựa ngồi cạnh giường hắn. Chịu thôi, ta không muốn trong lúc mơ màng hắn lại cắm đầu xuống đất rồi chết, uống công ta cả đêm tìm cách cứu hắn. Ta cứ ngồi vậy rồi ngủ quên khi nào không hay. Lúc ta tỉnh dậy mặt trời đã chiếu đến tận chỗ ta ngồi, còn hắn thì đang nằm trên sạp nhìn ta không chớp mắt. Ta nhìn hắn nghĩ bụng, nghe nói sốt cao quá có thể khiến đầu óc người ta trở nên đần độn, đừng nói phò mã của ta sau này trở thành một thằng ngốc đấy nhé. Để đảm bảo, ta thò tay chọt vào má hắn, làm cho đầu hắn nghiêng qua một bên. "Nhớ mình là ai, đây là đâu không?" Hắn hơi khó chịu tránh khỏi ngón tay của ta: "Nhớ" Ta thở phào, tốt rồi, lúc này mới đứng dậy gọi xảo xứng vào thay y phục, lại gọi Chân đi dặn nhà bếp nấu cho hắn một chén cháo, một chén thuốc bổ. Ngẫm nghĩ một lúc lại dặn thêm, ba ngày tới chỉ cho hắn ăn cháo và uống thuốc bổ cho tới khi khỏe lại hoàn toàn. Ta không biết chăm sóc người bệnh, bình thường khi ta bị bệnh mẹ ta thường yêu cầu như vậy, ta nghĩ làm theo bà sẽ không sai. Mấy ngày sau, hắn phục hồi và càng thân thiết hơn với các anh rể và cha ta, bữa say suýt làm hắn mất mạng đó quả là đáng giá, bằng cách nào đó những người đàn ông kia đã chịu dung nhập hắn, không còn coi hắn là con trai của kẻ thù. Hắn cũng thường trò chuyện với ta hơn, thi thoảng hỏi thăm một số tập tục ở Cổ Loa, hoặc vài món ăn kỳ lạ mà hắn thấy người dân bán ngoài đường. Nếu ta biết sẽ trả lời hắn, không biết sẽ kêu Chân trả lời, hoặc đi hỏi rồi trả lời cho hắn. Để cảm ơn ta, hắn ra ngoài sẽ mang về tặng cho ta một món đồ nho nhỏ, khi thì đồ chơi bằng bột nếp, khi là mấy cành hoa, đôi lúc có cả mấy con châu chấu do hắn tự kết bằng lá cau sống động như thật. Ta cũng không từ chối, có lẽ vì bởi vì những món quá hắn tặng khá thú vị, làm ta nhớ lại những tháng ngày tự do ở Thao Bồi. Thỉnh thoảng ta cũng sẽ châm chọc hắn. "Chàng tìm hiểu kỹ về Cổ Loa như vậy để làm gì? Sớm muộn chàng sẽ rời khỏi đây thôi." Hắn nhìn ta. "Nếu ta muốn ở lại thì sao?" Tim ta đột nhiên hẫng mất một nhịp, ta tự cười chính mình rồi trả lời hắn. "Chàng có thể làm điều mình muốn chứ? Nếu không thể vậy nên đừng vẽ cho ta tương lai hoang đường." Rồi không chờ hắn hồi đáp, ta bỏ ra ngoài. Mùa xuân đến, ta đưa hắn đi xem đấu vật, chạy khắp các lễ hội, lại lừa gạt hắn cùng cưỡi ngựa bắn cung, nhìn màu da hắn từ trắng nõn dần trở thành màu đồng ta càng vui vẻ hơn, khi hắn biết thì diễu cợt ta. "Vốn nghe danh mỵ nương út của nước Âu Lạc như hoa như ngọc, ngờ đâu chỉ có mùa đông là như ngọc còn lại đều như than." Ta chẳng thèm quan tâm, ta yêu cảm giác được thả mình dưới ánh nắng mặt trời ấm áp rực rỡ nên chỉ có mùa đông da dẻ ta mới trắng trẻo hơn một chút. Nếu bắt ta suốt ngày nhốt mình trong phòng để được xinh đẹp ta thà xấu còn hơn. Ta thấy ta và hắn càng ngày càng có một kiểu sống chung rất lạ lùng. Phần lớn các cuộc trò chuyện sẽ kết thúc bằng một màn cãi nhau. Đôi khi giận lên ta sẽ nói hắn không phải con ruột của Triệu Đà nên mới bị hắt hủi đày qua Âu Lạc ở rể, hắn cũng không vừa nói ta là mỵ nương không ai thương nên mới phải lấy người bị hắt hủi như hắn. Nhưng mỗi khi ra ngoài hắn vẫn không quên mang quà về cho ta, còn ta sẽ vẫn chăm sóc hắn mỗi khi hắn say rượu. Sau này tửu lượng của hắn tốt dần nhưng nửa đêm về vẫn gọi ta dậy, nếu ta nổi khùng lên hắn sẽ nói sợ mình ngủ mơ ngã xuống giường chết bất đắc kỳ tử, khi đó ta sẽ bị mang danh mỵ nương khắc chồng. Ta không chịu nổi hắn nhì nhèo lại phải kéo ghế ngồi canh chừng hắn. Dĩ nhiên, một lát sau ta ngủ mất, sáng thức dậy thì đã thấy mình nằm trên giường, chắc hắn tỉnh rượu rồi bế ta lên. Mùa đông năm nay thật lạnh, số lần hắn ra ngoài càng ngày càng nhiều hơn, trong lòng ta luôn thấy bất an, một lần ta cố tình không ngủ chờ hắn về. Ta nhìn hắn ướt đẫm sương đêm, ánh mắt né tránh. Ta hỏi hắn: "Khi nào chàng về phương Bắc?" Ta không rõ vì sao hắn lại đến Loa thành kết thân với ta, không biết cha hắn đang mưu đồ gì, nhưng ta biết chắc sớm muộn hắn sẽ quay về phương Bắc. Trong ánh nến chập chờn, hắn nhìn ta, rồi ôm chặt lấy ta, cánh tay hắn mạnh mẽ ghì ta đau đớn. Ta vươn tay cầm lấy tay hắn, hai bàn tay đan xen vào nhau, ta ngước mặt nhìn vào mắt hắn, vậy mà kịp bắt lấy một chút áy náy trong đó. Ta rùng mình, thoát khỏi vòng tay của hắn. "Chàng về phương Bắc đi." Ta không rõ hắn tới đây làm gì, nhưng liệu có phải chỉ cần hắn không tiếp tục làm điều đó nữa, mọi chuyện có thể sẽ kết thúc hay không? Sẽ không còn chiến tranh, không còn tranh đoạt nữa. Ta mang theo chút hy vọng mà đánh cược, cược rằng có lẽ hắn cũng yêu ta, yêu đến mức có thể vì ta mà buông bỏ một điều khác. Nhưng ta thua rồi. Hắn không trả lời ta, ngày hôm sau hắn dọn tới một gian phòng khác, lấy lý do là thường xuyên về trễ sợ ảnh hưởng tới giấc ngủ của mỵ nương. Ta tới tìm cha, nói với ông để cho hắn về phương Bắc đi, ông nhìn ta như nhìn một đứa trẻ ngỗ nghịch, nói hắn là phò mã của ta, sẽ là người Âu Lạc. Sau đó, dù cùng sống trong một cung nhưng ta không còn gặp hắn nữa, hoặc có lẽ cả hai cùng tránh mặt nhau. Cho tới một ngày trăng tròn, ta không ngủ được bèn sai Chân bày một chiếc ghế bên bờ giếng ngồi ngắm trăng, nhìn trăng trên trời rồi lại nhìn trăng nơi đáy giếng, lòng mông mung vô định. Nghe tiếng bước chân lao xao, biết hắn vừa về nhưng cũng không buồn quay lại, hắn vậy mà lại bước về phía ta ngập ngừng nói sẽ trở về phương Bắc, ta không quay đầu nhìn hắn, chỉ nói: "Kiếp này có lẽ không còn gặp lại, mong chàng bình an." Hắn đi rồi Chân mang cho ta một chiếc áo choàng kết bằng lông ngỗng, trắng nuốt mềm mại, nói hắn gửi cho ta. Ta không đụng tới sai Chân cất đi. Hắn đi không bao lâu thì Triệu Đà lại một lần nữa tấn công Âu Lạc, thế giặc như chẻ tre xông thẳng về Cổ Loa, ngay cả cung tiễn của cha ta cũng không cản được vì Triệu Đà cũng có nỏ thần của Kim Quy, hay nói đúng hơn, hắn đã đánh cắp được cách chế tạo vũ khí bí mật của cha ta. Ngày Triệu Đà đánh tới, Loa thành chìm trong khói lửa còn ta chẳng biết mình nên làm gì. Mẹ ta đã đi Thao Bồi từ trước thu, có lẽ bà sẽ được an toàn. Các anh rể ta những ai ở Loa thành đều đã tử trận, các chị có người lạc mất có người tuẫn tiết theo chồng. Cho đến khi cha ta quyết định bỏ thành, ông cưỡi ngựa giục ta, ta như con rối đứng lên đi theo ông. Chân từ trong phòng chạy ra khoác lên vai ta áo choàng lông ngỗng, nói đường xa lạnh giá mỵ nương bảo trọng. Ta sờ lớp lông ngỗng rồi leo lên sau lưng cha ta. Ngựa phi nước đại, gió rít bên tai, dù cha không nói nhưng ta biết bí mật vũ khí chính là bị hắn đánh cắp. Không biết chạy trong bao lâu, nhưng dường như ta và cha mãi không thể thoát được khỏi sự truy kích của quân Triệu Đà, tiếng hò hét, bóng lửa chập chờn mãi theo sau lưng. Tới khi con bảo mã của cha ta kiệt sức hai cha con đã đứng bên vách núi, dưới kia là biển. Nước biển ào ạt xô bờ, gió rít từng hồi. Cha ta tuyệt vọng hướng mặt về phía biển gọi thần Kim Quy, ông đã xây dựng Cổ Loa, đã luyện binh, đã tạo ra nỏ thần, tại sao cuối cùng Âu Lạc vẫn mất? Gió bỗng nhiên ngừng thổi, sóng biển chỉ còn lăn tăn, từ xa xa một con rùa vàng thật lớn trồi lên trên mặt nước, giọng nói như gần như xa từ trong thinh không vọng tới: "Giặc ở sau lưng nhà vua đó." Cha ta giật mình quay lại, ta cũng hốt hoảng nhìn xung quanh mình, lẽ nào ở đây còn có ai khác? Chẳng có ai cả, chỉ có con đường mòn nhỏ, rải rác từng chiếc lông ngỗng trắng nuối, chiếc áo choàng trên lưng ta cũng chỉ còn một nửa. Khi ta còn tự hỏi mình vì sao lại thế thì cha đã rút gươm đâm vào tim ta. Kim loại lạnh ngắt xuyên qua người ta, đau đớn bén nhọn nhanh chóng kết thúc khi ta ngã xuống từ lưng ngựa, trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, ta thấy cha tung mình nhảy xuống biển tự sát. Một lần nữa mở mắt ra, ta thấy mình nhẹ bẫng trôi nổi, vết đâm trên ngực cũng không còn đau đớn. Bên cạnh ta là một ông lão quắc thước sau lưng đeo một chiếc mai rùa màu vàng. Ta nhìn chiếc mai rùa kia không khỏi tò mò: "Kim Quy?" Ông lão hắng hắng giọng: "Là ta." Ta à lên một tiếng rồi ngồi im tự mình lý giải hoàn cảnh hiện tại của mình. Nhìn thân hình mình bay trôi nổi không chạm đất ta nghĩ giờ có lẽ ta chỉ là một hồn ma mà thôi, nhưng không phải sau khi chết con người đều đi đầu thai sao, ta còn ở lại nhân thế để làm gì? Còn ông lão rùa vàng này, hại ta chết rồi còn ngồi cạnh ta làm gì? "Ta không phải là giặc, chiếc áo lông ngỗng kia ta không biết bị bung từ bao giờ." "Ta biết. Chiếc áo đó vốn được may rất lỏng lẻo, là Trọng Thủy mua chuộc xảo xứng tìm cách cho mỵ nương mặc." Ta quắc mắt nhìn ông lão: "Nhưng ông nói với cha ta rằng ta là giặc. Báo hại ta bị cha ta đâm chết. Dù sớm muộn ta cũng phải chết nhưng bị đâm vào tim mà chết rất đau đớn." Ông lão thở dài chỉ về phía bóng lửa chập chờn đang ngày càng lại gần: "Ý ta là giặc đuổi sau lưng rồi, nhà vua có lẽ hiểu lầm ý ta." Ta rất muốn đánh cho ông lão này bờm đầu. Nhưng nghĩ tới cha mình lại thôi, nếu trước khi chết ông cần một lý do để lý giải cho sự thất bại của mình của Âu Lạc thì cứ để ta gánh tội nghiệt này đi. "Sao ta còn ở đây, không phải ta nên đi xuống âm ti địa phủ sao?" Ông lão áy náy: "Có lẽ mỵ nương chết oan ức nên linh hồn chưa thể siêu thoát. Chờ khúc mắc trong lòng mỵ nương được giải thì sẽ sớm siêu thoát thôi. Mỵ nương cần gì có thể gọi ta, xem như ta chuộc lỗi." Nói rồi ông lão biến mất. Ta chán nản ngồi bó gối mặc cho gió thổi xuyên qua linh hồn mình, dù sao giờ ta cũng chẳng có cảm giác gì nữa. Xa xa con bảo mã kiệt sức nằm sụp xuống bờ đất, hơi thở phập phồng, bên cạnh nó là xác của ta, máu ta thấm ướt cả áo choàng, thỉnh thoảng vài vài chiếc lông ngỗng đã nhiễm máu đỏ tươi bị gió cuốn lên bay về phía biển thật thê lương. Con người có ai chết đi mà không có vài điều tiếc nuối, tại sao chỉ có mình ta không thể siêu thoát? Chẳng bao lâu truy binh cũng đuổi tới, tiếng ngựa hí vang dội gõ móng xuống nền sỏi, từng ngọn đuốc chiếu đến càng làm cho tấm áo choàng đầy máu thêm rực rỡ và quỷ dị. Dĩ nhiên chẳng ai nhìn thấy linh hồn của ta ngồi bên cạnh cả, họ chỉ săm soi xác của ta sau đó rầm rì phỏng đoán cha ta có lẽ đã rơi xuống biển. Đột nhiên đoàn người im lặng, họ tách ra một lối nhỏ nhường chỗ cho một người đi vào. Là phò mã của ta, à không là người từng là phò mã của ta, vẫn gương mặt đó nhưng cảm giác thật xa lạ. Có lẽ vì hắn búi tóc cao hơn, hay gương mặt hắn lạnh lùng hơn, hoặc do hắn không còn mặc y phục của người Âu Lạc nữa. Hắn mặc chiến bào của người phương Bắc, giống như vừa đi ra từ một trận đánh, đôi chỗ dính máu đỏ thẫm. Hắn quỳ xuống bên cạnh xác của ta, run rẩy nâng ta lên ôm vào lòng và gào khóc. Ta nhìn từng giọt nước mắt của hắn rơi xuống gương mặt tái nhợt của mình cảm thấy lòng thật phiền muộn. Này, vì sao hắn lại tỏ vẻ đau khổ như vậy? Không phải khi hắn lén mang bí mật vũ khí của cha ta về phương Bắc hoặc khi hắn cũng cha mình tấn công vào Cổ Loa đã hiểu hắn đặt dấu chấm hết cho cuộc đời của ta rồi sao? Ta mệt mỏi bịt tai mình lại, ước gì có thể siêu thoát. Hắn mang xác ta về Cổ Loa, ta cứ vậy như bị một sức mạnh vô hình kéo đi theo, có lẽ Loa thành là nơi linh hồn ta có thể tìm được điều mình tiếc nuối. Sau đó ta chờ mãi chẳng thấy gì cả, đầu tiên là chờ bên mộ mình, rồi ngày tháng rôi qua vì buồn chán nên tìm về cung của mình, dù gì cũng là một cung điện hoang phế, không sợ gặp ai hay làm phiền ai. Ấy vậy mà một đêm trăng tròn, khi ta đang ghé vào bờ giếng nhìn bóng trăng hắn lại xuất hiện. Ta thấy hắn đứng ngây dại nhìn cung điện của ta, lại kéo một chiếc ghế gỗ ngồi xuống tựa mình vào bờ giếng, vai hắn kề sát vai ta. Ta tự hỏi, hắn không thấy vai mình ớn lạnh sao? Dù gì ta cũng là một hồn ma. Hắn ngồi một lát rồi gọi tên ta: "Mỵ Châu, Mỵ Châu.." Ta ngồi cạnh vì quá buồn chán đáp lại hắn: "Ừ, ừ.." Đột nhiên hắn không gọi tên ta nữa, hắn đưa tay bắt lấy bóng trăng mơ hồ nơi đáy giếng: "Ta nhớ nàng, ta muốn gặp nàng." Nói rồi hắn lao mình xuống giếng. Ta vươn tay ra kéo hắn lại, nhưng ta chỉ là một linh hồn, hắn xuyên qua bàn tay ta rơi xuống giếng. Tiếng va đập vang vọng trong đêm tối. Ta sững sờ nhìn xuống giếng. Sao hắn có thể chết dễ dàng như vậy? Không bao lâu, bên cạnh ta dần xuất hiện một bóng hình hư ảo, là hắn. Không lẽ hắn cũng có điều gì tiếc nuối nên không thể siêu thoát? Ta nhìn linh hồn hắn từ từ đậm nét hơn, rồi hắn mở choàng mắt ra. Ta biết hắn đã nhìn thấy ta, bàn tay hắn run run muốn chạm vào ta, nhưng sau đó xuyên qua ta, giống như chạm vào khoảng không. Dù vậy hắn vẫn mừng rỡ gọi tên ta: "Mỵ Châu, cuối cùng ta đã gặp được nàng." Ta nhìn hắn. "Máu của ta, máu của người thân của ta, của con dân Âu Lạc đã đổ xuống không phải vì cha con chàng muốn Cổ Loa sao? Chiếm được thứ mình muốn rồi sao chàng lại chọn cái chết?" Hắn cười đau thương. "Ta đã từng nghĩ ta muốn thành trì này, muốn đất nước này, muốn leo lên đỉnh cao quyền lực nhưng khi có được trong tay rồi ta vẫn thấy lòng mình trống rỗng, cuối cùng ta phát hiện ra những thứ đó chỉ là vô nghĩa, ta chỉ muốn có nàng mà thôi. Mỵ Châu, ta yêu nàng." Ta thấy linh hồn mình dường như được lấp đầy, được sưởi ấm, được trọn vẹn, và hình như cũng sắp tan biến vào hư không. Hóa ra, ta vương vấn thế gian này chỉ là để chờ một câu hắn yêu ta mà thôi sao? Dù biết không thể chạm vào ta nhưng hắn vẫn đưa tay khẽ kề bên má ta, như muốn vuốt ve, hắn thì thầm: "Chúng ta sẽ cùng xuống hoàng tuyền, kiếp sau nàng sẽ làm vợ của ta nữa, được không?" Ta thinh lặng nhìn hắn, ta và hắn từ ngày hắn chọn phương Bắc đã không thể có kết quả. Ta gọi: "Kim Quy." Một cơn gió thổi tới, ông lão đeo mai rùa xuất hiện. Ta chỉ vào hắn rồi nói. "Đời đời kiếp kiếp trong vòng luân hồi của mình, ta không muốn gặp lại người này nữa. Ông có thể giúp ta không?" Kim Quy gật đầu: "Có thể." Trước khi linh hồn mình tan biến, ta mỉm cười với hắn: "Trọng Thủy, vĩnh biệt." Ta biến mất giữa tiếng khóc thê lương của linh hồn hắn. Ta hy vọng hắn cũng sớm có ngày siêu thoát. Giải thoát cho chính mình, cũng là giải thoát cho tình cảm vốn đã không nên bắt đầu giữa ta và hắn. - Hết -