Xin chào các bạn hôm nay mình muốn chia sẻ một chút hiểu biết của bản thân về việc dùng từ chính xác trong văn viết. Hôm trước mình có edit một bộ truyện và đã làm cho mình bị nhầm lẫn không biết viết thế nào cho đúng. Và mình phải tìm từ điển rồi tra google mới biết chính xác. Việt Nam mình có câu: "Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam.", bởi vì vốn tiếng Việt nước ta rất phong phú nên nhầm lẫn là chuyện bình thường. Dưới đây mình xin chia sẻ mười cặp từ hay nhầm lẫn trong văn viết, để mọi người được nhận thức chính xác hơn nhé! 1 Chia sẻ hay chia xẻ. Nói đến cặp từ này, không ít bạn quả quyết rằng "chia sẻ" là đúng bởi vì ít ai dùng "chia xẻ". Nhưng rất tiếc, hai từ này đều được sử dụng, mặc dù nghĩ của nó có hơi khác nhau. Từ "chia sẻ", "chia" có nghĩa là làm ra thành từng phần, từ một chỉnh thể, "sẻ" là chia bớt ra, lấy bớt ra. Do đó, "chia sẻ" có nghĩa là cùng chia với nhau để hưởng chung hoặc chịu đựng. Ví dụ: Chia ngọt sẻ bùi hay chia sẻ buồn vui. Từ "chia xẻ", "chia" này cũng có nghĩa tương tự như ở trên là chia ra từng phần, còn "xẻ" này có nghĩa là bổ ra hoặc chia ra để không dính lại với nhau nữa. Ví dụ như xẻ thịt, xẻ gỗ, vv.. Cho nên hai từ này đều là động từ, có nghĩa gần giống nhau, nhưng cách dùng lại khác nhau. Bạn nên dùng đúng trường hợp, tránh nhầm lần nhé! 2 Giả thuyết hay giả thiết Phải nói hai từ này cực kì dễ nhầm lẫn luôn nhé. Có người khăng khăng nói rằng chỉ có "giả thuyết", có người quả quyết chỉ có "giả thuyết", nhưng sự thật là cả hai đều đúng nhưng lại dùng trong trường hợp khác nhau. Cụ thể, "giả thuyết" được sử dụng trong trường hợp nêu luận điểm mới trong khoa học để giải thích một hiện tượng tự nhiên nào đó, nhưng chưa được kiểm nghiệm, kiểm chứng. Trong khi đó, "giả thiết" cái từ mà thầy cô ngày xưa dạy toán hay nói đó. Nó được dùng để chỉ điều cho trước trong một định lý hay bài toán để căn cứ vào đó mà cho ra kết luận của định lý hay giải bài toán. Bởi vậy, hai từ này đều đúng, chỉ là dùng trong trường hợp khác nhau mà thôi. 3 Chẩn đoán hay chuẩn đoán Đây chính là cái từ mà mình đã phân vân rất nhiều. Mình thì nghĩ là "chẩn đoán" là đúng, nhưng bạn edit chung với mình là nói "chuẩn đoán". Mình phải lật từ điển vì nó đây. Bạn cho rằng nó có giống nhau không? Sự thật trong hai từ chỉ có một từ đúng mà thôi. "Chẩn đoán" ' chẩn' có nghĩa là xác định bệnh, phân biệt dựa trên triệu chứng, dấu hiệu có sẵn, ' đoán' có nghĩa là dựa vào cái có sẵn, đã thấy, đã biết để suy ra điều chưa rõ hoặc chưa xảy ra. Như vậy, "chẩn đoán" có nghĩa là xác định bệnh, dựa theo triệu chứng, kết quả xét nghiệm (theo từ điển Tiếng Việt). Trong khi đó, "chuẩn" trong từ "chuẩn đoán" lại không hề có nghĩa như vậy. Từ ' chuẩn' chỉ có nghĩa là cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, hướng theo đó mà làm hay gọi là "tiêu chuẩn" ấy. Vì vậy, "chẩn đoán" mới là chính xác. 4 Tham quan hay thăm quan Nhiều người cho rằng "thăm quan" hay "tham quan" đều có nghĩa giống nhau nên có thể sử dụng xen lẫn được. Nhưng sự thật chỉ có một từ đúng - đó là từ "tham quan". Thử phân tách nghĩa các từ ra nhé. Từ "thăm quan", "thăm" có nghĩa là đến nơi nào đó bày tỏ sự quan tâm, hỏi han (người bệnh) hay xem xét tình hình (thăm trường lớp), "quan" - quan sát. Trong khi từ "tham quan" (động từ) - theo gốc Hán thì "tham" có nghĩa là thêm vào; "quan" là quan sát, nhìn nhận. Do đó, "tham quan" nghĩa là đi tận nơi để quan sát, mở rộng hiểu biết và học hỏi kinh nghiệm. Tuy nhiên, từ này đồng âm khác nghĩa với từ "tham quan" (danh từ) chỉ viên quan có tính tham lam. Bởi vậy, từ "tham quan" mới là từ chính xác. 5. Nhậm chức hay nhận chức Theo nghĩa Hán Việt, "nhậm" trong từ "nhậm chức" là gánh vác công vụ, nhiệm vụ; "chức" là chức trách, việc quan, bổn phận. "Nhậm chức" là giữ chức vụ, gánh vác, đảm đương chức vụ do cấp trên giao cho, hiểu đơn giản, cấp trên bổ nhiệm, cấp dưới nhậm chức. Trong khi đó, từ "nhận chức" trong nghĩa Hán Nôm thì "nhận" là tiếp đón, chịu lấy, lĩnh lấy; nên "nhận chức" là nhận chức vụ, nhưng không diễn tả được trách nhiệm với chức vụ đó. Theo nghĩa Hán, "nhận" là nhìn, biết, chịu, bằng lòng nên "nhận chức" không có nghĩa. Do đó, dù theo từ điển Hán Nôm, hay Hán Việt thì từ "nhận chức" đều không có nghĩa diễn tả được trách nhiệm đối với chức vụ. Do đó, từ đúng phải là "nhậm chức". 6. Độc giả hay đọc giả Cần chỉ rõ rằng, "độc giả" là từ Hán Việt gồm hai chữ gốc Hán: "Độc" mang ý nghĩa "đọc" hay "học" và "giả" mang ý nghĩa "người". Khi hai chữ đó được kết hợp với nhau, từ "độc giả" có nghĩa là "người đọc". Trong từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê xuất bản năm 2000, trang 336 cũng có định nghĩa từ "độc giả" – đó là người đọc sách báo, trong quan hệ với tác giả, nhà xuất bản, cơ quan báo chí, thư viện. Trong khi đó, từ "đọc giả" được một số người sử dụng với nghĩa "người đọc" hay "bạn đọc" – bao gồm "đọc" là một từ thuần Việt và "giả" là một chữ Hán Việt. Khi ghép hai từ này vào, ta sẽ nhận thấy một sự kết hợp không hợp lý. Bởi vậy có thể khẳng định rằng, "độc giả" mới là từ đúng. 7. Chín mùi hay chín muồi Theo định nghĩa của Hoàng Phê – trong Từ điển Tiếng Việt 2000 (trang 161) có đề cập "chín muồi" là (quả cây) rất chín, đạt đến độ ngon nhất. Đạt đến độ phát triển đầy đủ nhất, để có thể chuyển giai đoạn hoặc trạng thái. (VD: Điều kiện để chín muồi). Nhưng lại có rất ít từ điển đề cập đến từ "chín mùi" . Ngay cả từ điển của Nguyễn Kim Thản (2005) cũng chỉ nêu "chín muồi" là.. chín mùi như một cách nói tắt. Bởi vậy, có thể khẳng định, từ đúng ở đây phải là "chín muồi". 8. Tựu chung hay tựu trung Trường hợp đúng ở đây phải là "tựu trung". Tuy nhiên, không ít người dùng "tựu chung" hàng ngày bởi họ cho rằng, nghĩa của "chung" trong "tựu chung" giống trong từ "chung quy". Thật ra, từ "tựu trung" - "tựu" có nghĩa là tới (tề tựu) ; trung: Là ở giữa, trong, bên trong. "Tựu trung" có nghĩa là tóm lại, biểu thị điều sắp nêu ra là cái chung, cái chính trong những điều vừa nói đến. Ví dụ: Mỗi người nói một kiểu nhưng tựu trung đều tán thành cả. 9. Vô hình chung hay vô hình trung Không ít người thường dùng từ "vô hình chung" thay cho từ "vô hình trung" bởi nghĩ từ "chung" có nghĩa là chung quy. Tuy nhiên, cách hiểu này không đúng. Theo nghĩa Hán Việt, "vô hình trung" có nghĩa là "trong cái vô hình". Còn trong Từ điển Tiếng Việt có định nghĩa: "Vô hình trung" : Tuy không có chủ định, không cố ý nhưng tự nhiên lại là (tạo ra, gây ra việc nói đến). Ví dụ: "Anh không nói gì, vô hình trung đã làm hại nó". Trong khi đó, không có từ điển nào đề cập đến định nghĩa của từ "vô hình chung" cả. Vì thế, "vô hình trung" là từ đúng; còn "vô hình chung" là sai. 10. Sát nhập hay sáp nhập Nếu ai đó hỏi bạn từ "sát nhập" hay "sáp nhập" mới đúng. Bạn sẽ trả lời sao? Sự thật là gốc của 2 từ "sát nhập" và "sáp nhập" này bắt nguồn từ "sáp nhập" – một từ ngoại lai. Trong đó, "Sáp" có nghĩa là cắm vào, cài vào; còn "Nhập" nghĩa là vào, tham gia vào, đưa vào. Do vậy, "sáp nhập" là nhập chung lại, gộp chung lại làm một. (Ví dụ: Sáp nhập ba xã làm một/ Công ty A sáp nhập vào công ty B). Với từ "sát nhập", từ "sát" là từ biến âm, biến thể dân gian của từ "sáp" mà ra. Từ "sát" trong tiếng Việt có nghĩa phái sinh từ từ "sáp". Ngoài nghĩa gốc là cắm vào, cài vào thì còn có nghĩa là liền ngay bên cạnh, xích gần lại đến mức không còn khoảng cách. Đứng trên quan điểm đồng đại, nhiều người sử dụng hai từ "sáp nhập" và "sát nhập" y như nhau. Một vài cuốn từ điển tiếng Việt đề cập đồng thời hai từ "sáp nhập" và "sát nhập" với nghĩa tương tự nhau. Tuy nhiên, theo ý kiến của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Quận – Trưởng Bộ môn Hán Nôm Khoa Văn học và khoa Ngôn ngữ - trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn thì không nên sử dụng hai từ này giống nhau bởi nó không thật hợp lý. Từ "sát" – tức là cạnh đến mức không còn khoảng cách, còn "sáp" nghĩa là cắm vào, cài vào; nếu sử dụng chung, nghĩa gốc của từ "sáp" không còn, từ đó, nghĩa của từ đã bị thay đổi.