Bẩy giờ tối: Hai chúng tôi, cơm chiều xong, vừa định thắng bộ vào dạo chơi loanh quanh mấy phố thì trời bỗng đổ cơn mưa như trút. Phái bó cẳng ngồi nhà cặm cụi với mấy tờ báo, chúng tôi xem đã uể oải, mắt đã thấy mờ thì cửa vẫn khép chặt, bỗng có người đẩy đánh sầm một cái tung ra. Giật mình, chúng tôi ngơ ngác nhìn lên thì một ông lão ăn mày vừa lòa vừa cụt chân, người quắt như con mắm nướng, áo tơi nón lá, chống nạn lê vào. - Lạy ông, lạy bà.. bố thí cho con đồng cơm bát cháo trong lúc khốn cùng.. - Không sẵn, đi đi! Cửa nhà người ta khép thế mà cũng đẩy ra được.. Đã bực mình sẵn, lại thấy ông lão xông xáo quáu đáng thế, tôi không chút thương mà gắt rầm lên. Bạn tôi vội xua tay ngăn lại, đứng dậy, ra ân cần để vào tay ông lão một xu. Ông lão cúi rạp xuống đất tạ ơn rồi bước ra, để lại chổ đứng một vũng nước dây ở cái áo tơi trút xuống. Bạn tôi cài then cửa rồi vào: - Không bao giờ tôi nỡ đuổi một người ăn mày như anh đã đuổi. Tôi mỉm cười một cách nhạo bang. Bạn tôi xưa nay vẫn hay giảng đạo đức, thuyết luân lý. - Anh đừng tưởng chuyện đùa. Những chuyện rất thường mà đối với người ngoài cuộc lắm khi có ảnh hưởng lại rất sâu xa. Một người ăn mày đến kè nhè bên ngoài. Người trong nhà chạy ra đuổi đi rồi đánh cửa đánh sầm một tiếng. Tưởng chẳng có chuyện gì bình thường hơn nữa. Thế mà cũng chỉ vì một chuyện đuổi ăn mày mà chính tôi đây, tôi đã được mục kích một tấn kịch rất đỗi bi thương. Nói đến đó, bạn tôi ngồi xuống ghế, vớ lấy bao thuốc lá lấy ra một điếu đánh diêm châm, rồi tiếp. Bên ngoài trời vẫn mưa rả rich rất to. - Hồi ấy cách đây sáu bảy năm trời, phải, sáu bảy năm trời rồi mà câu chuyện xảy ra tôi nhớ mồn một như mới xảy ra hôm qua. Năm mười sáu tuổi, học lớp nhất trường Hàng Vôi, tôi ở trọ phố Bờ Sông, nhà một thầy cay lấy thuế chợ. Con trai thầy mới lên mười một học lớp dự bị, ngày ngày bốn buổi đi về có tôi dắt dìu. Tối đến dưới ngọn đèn dầu cũng tôi chỉ bảo. Gia thế thầy cai tôi không được rõ. Vì có người quen mách giúp nên việc tôi đến trọ nhà thầy là việc ngẫu nhiên. Chỉ biết hôm tôi khuân hòm đến thì, trên chỏm mũ trắng điểm vành đen, thằng Hợi- con thầy- đã ngót hai năm trở mẹ. Thằng Hợi! Tôi nhắc đến tên thì người tôi cũng nhớ được ngay.. anh thử tưởng tượng xem, một thằng bé mới mười một tuổi đầu, mặt mũi sáng sủa, an nói lễ phép, đến trường học hành đã chăm chỉ, về nhà việc vặt lại hay làm. Thầy cai rất yêu quý con trai, sợ cảnh dì ghẻ con chồng, chuyện lấy vợ kế thầy không hằng nghĩ đến. Nhưng xem ý tôi biết, thằng Hợi không yêu bố nó chút nào. Cả anh cũng chẳng lạ gì, một đứa trở rất ngoan mà lại không ưa bố, một người bố cũng thương yêu con như tram nghìn người bố khã, chỉ vì cái nghề mà đến con đẻ rứt ruột nó cũng không yêu. Anh thử tính xem, cái nghề mà cửa miệng thiên hạ vẫn nói.. nó đày đọa con người một thời xông pha mưa nắng, chỉ vì bổn phận mà đối với người nghèo hen, buôn thúng bán mẹt đã bị họ coi như kẻ tử thù. Mỗi lần thầy cai đi "sơ vít" (thi hành công vụ) qua cửa trường Hàng Vôi là lại một phen thằng Hợi khóc. Nó khóc vì nó chẳng đang tâm trông thấy bố nó thẳng cánh đánh đập một bà lão bán bún hay đá túi bụi một thằng bé con cho hòm kẹo đổ xuống đất tung tành, nó khóc vì bạn bè trong trường khinh bỉ nó vô cùng, thường rõ rẹo vào mặt nó mà nói rằng: "Chúng tao không chơi với mày! Bố mày làm cai lấy vé chợ." Sau những trận đau lòng ấy, chẳng biết trông cậy vào ai, thằng Hợi chỉ còn ôm đầu lủi thủi cầm tay tôi, ngước mắt nhìn lên tỏ ý kêu van, dưới ánh sáng mặt trời xiên qua bóng mấy cây bang, tôi xong thoảng nhớ cái nét mặt ủ rũ của thằng Hợi, hai hàng nước mắt chạy quanh rơm rớm. Anh, nếu anh có đứng vào địa vị tôi bấy giờ, anh mới rõ được cái cảnh thương tâm ấy. Thành thử nó coi tôi như một người anh, có lẽ hơn một người anh nữa, vì càng khinh bỉ bố nó bao nhiêu, tôi lại càng ái ngại cho thằng Hợi bấy nhiêu. Nó cũng hiểu lòng tôi thế lắm. Nhưng có lẽ anh đã nóng ruột rồi, câu chuyện "đuổi ăn mày" anh để tâm, đây, tôi kể đến rồi đây. Buổi tối hôm ấy, cũng bào độ bảy, tám giờ, cũng về cuối tháng giêng như hôm nay, chỉ khã là bây giờ thời tiết dễ chịu mà năm ấy thì rét như cắt. Cái nahf chênh vênh hứng gió, của trông thăng ra bờ sông chúng tôi ngồi trong, nghe bên ngoài tiếng gió ào ào, cột nhà chuyển lắc rắc mà những rùng mình. Phải, cái cảnh tượng đêm hôm ấy trí tôi chẳng thể quên mất một mảy may: Của đóng kín im im, ngồi chum đầu trong một cái chăn bông mà hai hàm răng tôi vẫn thấy chọi nhau lập cập. Thằng Hợi ngồi học cùng bàn với tôi nhưng không biết nó nghĩ vơ vẩn điều gì, mắt nó thường không nhìn đến sách. Thầy cai thì ngồi chễm chệ giữa giường, bên đùi kê một hỏa lò than đoe rực, trên để mấy con mực khô đang sèo sèo, mùi mực nướng pha lẫn mùi rượu ngang thơm nức cả nhà, nghĩ đến mà thèm rõ dãi. Chợt có người khẽ gõ cửa mấy tiếng rồi đánh huỵch một cái như có vật gì rơi xuống đó. Vừa toan bỏ chăn, xỏ chân vào đôi guốc bước ra thì thầy cay giơ tay ngăn lại, cầm khan ung dung chùi mồm, vuốt lại bộ râu cong đâu đấy rồi mới cau đôi long mày sâu róm lại, lên tiếng dõng dạc: - Ai hỏi gì? Bên ngoài lại thấy mấy tiếng gõ vào cánh cửa. Thầy cai lộn tiết, quát: - Hỏi gì, nói lên! Nhưng gió vẫn ào ào, bạt cả lời thầy muốn nói. Chúng tôi lắng tai nghe, bên ngoài đưa vào một cơn ho lụ khụ, rời rạc như của một người mắc bệnh kinh niên, rồi thấy giọng run run đưa qua hơi thở hổn ha hổn hển: - Lạy ông lạy bà, ông và cứu con, vừa đói, vừa rét thế này con chết mất.. Chẳng cần nói tất anh cũng hiểu một người ăn mày. Trong lúc đó trong túi tôi sẵn có vài xu rút rich, vừa toang mở cửa thì con người vô lương tâm kia đã lên giọng quát tháo ầm ầm: - Bước ngay! Đi ngay! Không có sẵn! Anh tính, người ta đang đuổi thế mà mình lại cho tiền chả hóa ra chửi mát người ta hay sao? Nghĩ thế, tôi đành khoanh tay ngồi nín lặng xem cái tấn bi kịch ấy nó diễn ra trong ba, bốn phút. - Ối trời ơi! Con lạy ông.. ông.. ông không thương, con chết mất! - À.. quân này lại muốn rag an.. Muốn sống thì xéo đi, không lại vào bóp sớm. Bên ngoài, tiếng nói lẫn tiếng khóc: - Ối trời ơi! Con chết mất rồi đây, ông có cưu con không? * * * Gớm! Đến cái con người tàn nhẫn ấy thì không thể nào kể được, tôi không ngờ lão ta nỡ đứng phắ t dậy, sẵn chậu thau nước lạnh để gần đấy, liền nhắc ngay lên nhằm khe cửa đổ hắt ra đánh "rào" một cái rồi khoanh tay đứng nhìn Mỗi phút một xa, mấy tiếng gậy lộc cộc chống vào hè lát gạch, theo một tiếng thở dài.. trờ ngòn gió thổi ào ào, bốn bề lặng im phăng phắc. Nét mặt vẫn thản nhiên như không, thầy cai lại ngồi vào mâm, gật gù mãi đến nửa đêm. Nằm trong chăn, thấy khác hẳn mọi khi, thằng Hợi hôm ấy vừa đặt mình đã ngủ say như chết. Nhưng gần về sáng bỗng bàng hoàng tỉnh giấc, toi thấy nó quay mặt vào tường mà khóc tỉ tê. Tôi nghic mà thương nhưng cũng không khuyên giải, biết rằng có nói cũng chỉ gợi thêm một mối thương tâm. Hôm sau, nhằm ngày thứ năm, phải buổi chữ nho, thằng Hợi ở nhà, còn tôi đi học. Đến trưa, cắp cặp vê, tôi đã thấy nó đứng cửa, mắt đỏ hoe: - Anh ơi, hãy ra đây mà xem đã.. Rồi tôi chẳng kịp hỏi, nó đã xốc lấy tay tôi. Đi thẳng ra bãi, trèo qua dãi đê, tôi thấy xa xa một đám đông, vừa trẻ con, vừa người lớn. Đến gần lặng nghe họ bàn tán, tôi hiểu ngay tất có chuyện buồn: - Thôi, thế cũng xong! Chết là may, chết là hết.. nhiều người muốn chết mà chẳng được cơ! Lời nói lạnh lùng của một ông lão trên đầu hai thứ tóc, mắt kèm nhèm, quần áo rách như tổ đủa. Một thằng bé độ sáu tuổi nhăn răng bảo thằng đứng bên cạnh: - Mày ạ! Trông đầu ông ấy như một quả bóng sanh (cinq). Rồi mấy người đàn bà cười ồ. Chẳng để ý đến mấy người họ lấy khuỷu tay đẩy mình, chúng tôi rẽ đám đông ấy, cố len lỏi vào cho được. Anh ạ, tôi quyết không bao giờ quên được cái cảnh buồn tê buồn tái ấy nó hiện ra trước mắt tôi, lần ấy là lần đầu. Trời vẫn rét, gió vẫn thổi rào rào. Trong miệng cái cống trong bằng xi măng một cái xác ông lão ăn mày nằm cong queo, hai chân co lên bụng, còn hai tay vẫn như ôm lấu bị gậu. Cái nón lá rơi ra một bên, bộ tóc lơ thơ, mấy chìm râu lốm đốm phất phơ bay theo ngọn gió, cái chân da bọc ngoài xương nằm đó cho ruồi bâu nhặng bám phải chăng là người hành khất đêm qua lê đến cửa nhà tôi mà bị một chậu nước lạnh đuổi đi? Nghĩ thế rồi chẳng nỡ nhìn lâu cảnh ấy, tôi dắt tay thằng Hợi kéo ra chỗ khác, nào ngờ nó cũng nghĩ như tôi, rầu rầu nét mặt mà rằng - Chính người ăn mày đêm qua rồi, anh ạ. Lời nói của mổ đứa trẻ ngây thơ ấy theo một tiếng thở dài mới tha thiết làm sao.. một khối óc còn non mà đã thấy cái chân tướng cuộc đời, trong lòng xúc cảm bao mối thương tâm mà chỉ biết lộ ra bằng một tiếng thở dài, một tiếng thở dài mà ngụ ý bao nỗi đắng cay, ý vị.. Tuy chúng tôi không đứng lại xem lúc xe mang ca đến xe cái xác đó đi ra sao mà buổi chiều hôm ấy, như bị một sức mạnh vô hình xô đẩy, lòng tôi bỗng thấy buồn tê tái, bài chẳng muốn học, cơm chẳng muốn ăn. Muốn giải trí, tôi rủ thằng Hợi đi xem chiếu bóng thì nó cười, cái cười giả dối ấy, tôi còn nhớ mãi. Rồi nó hỏi vay tôi năm hào, nói là để mua đền anh em quả bóng mà nó đã nhỡ chân đá vỡ cách đây mấy hôm. Tôi cho vay ngay, nào ngờ nó chẳng nghĩ xa xôi mà một đời tôi, rồi đây tôi còn phải lắm phen ân hận. Đi xem về, tôi vừa gặp thằng nhỏ còn xách thùng đi gánh nước. Bấy giờ thấy cai đang giờ 'service' thành cũng vắng nhà. Mở cửa bước vào, tôi thấy như mọi khi, thấy rét thì đi ngủ, tôi đến bên giường, khẽ lật chăn ra, ý muốn kể lại câu chuyện vừa xem với nó. Anh ơi! Trái tim đã thấy đập thình thình, chẳng khã gì lúc ấy, lật cái chăng ra tôi thấy mặt nó xám ngắt, mắt nó nhắm nghiền mà tay nó lạnh giá như đồng, một thứ lạnh của những xác chết khiến anh ta chỉ hơi chạm vào là đủ rùng mình ghê sợ. Tôi biết ngay là có chuyện, cố nén cái sợ, ôm lấy ngang lưng nó mà lay gọi một hồi, chẳng thấy gì, tôi đưa mắt nhìn ra bàn thì bộ chén úp đấy thấy lẻ bên ngoài một cái, tôi vội chạm đến thì còn thấy cặn.. Chao ôi! Cặn dấm thanh thuốc phiện mùi hãy còn sực nức đưa lên. Không biết sao, lúc này tôi đã toan chạy đâm bổ ra đường kêu cứu rồi mà tôi lại quay vao, ôm lây cái xác mà kêu, mà gọi một hồi lâu nữa.. Mặt mũi nó trắng trẻo, phương phi, trông mà thương, mà tiếc vô cùng, tôi tưởng chừng như ôm vào lòng xác một đứa em. Rồi không biết tôi nghĩ lẩn thẩn thế nào mà tôi nâng đầu nó dậy, in cặp môi vào trán mà hôn.. như hôn một ngươi yêu đang ngủ.. thì mắt nó bỗng thấy mở hé ra, tôi còn nhớ mãi đến giờ, hai con mắt ấy lờ đờ mà nhìn tôi như người ngái ngủ, nó bỗng trợn mắt lên, há miệng như muốn nói, cố vùng tay giơ lên như muốn ôm lấy cổ tôi mà toan gọi: Anh! Anh!.. Thương thay! Thằng Hợi chửa kịp nói ra điều gì thì, chừng như thuốc độc đã thấm đến ruột gan nó, nó nhắm mát giãy mạnh một cái rồi buông xuôi hai tay mà ngặt cổ xuống giường, bọt mép sùi ra.. Chuyện về sau thế nào, tưởng anh đoán lấy cũng hiểu. Riêng tôi, tôi coi cái ngày hôm ấy như một ngày mà tôi phải để tang, nhân thấy anh đuổi một ông lão ăn mày nên tôi kể lại cho anh nghe. Mars 1931 Ngọ báo, số 1077 Ngày thứ hai 16.3 và thứ ba 17.3. 1931