Lý luận văn học: Chí Phèo vừa là một gã mất trí, vừa là đầu óc sáng sủa nhất của làng Vũ Đại

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi An Nam, 23 Tháng chín 2021.

  1. An Nam

    Bài viết:
    185
    Lý luận văn học:

    Đề bài: Bình luận về nhân vật Chí Phèo, có nhà phê bình cho rằng: "Chí Phèo vừa là một gã mất trí, vừa là đầu óc sáng sủa nhất của làng Vũ Đại". Từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao, anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

    Bài làm:

    Có người cho rằng Chí Phèo tỉnh, Chí Phèo không say. Nhưng nói Chí Phèo hoàn toàn tỉnh thì vô lý. Mà Chí Phèo hoàn toàn say thì lại vô nghĩa. Sự độc đáo của hình tượng nhân vật này là ở chỗ trạng thái say - tỉnh bất phân. Bởi vậy, bình luận về nhân vật Chí Phèo, có nhà phê bình cho rằng: "Chí Phèo vừa là một gã mất trí, vừa là đầu óc sáng sủa nhất của làng Vũ Đại".

    Nhà văn Nam Cao viết: "Hắn vừa đi vừa chửi, cứ rượu xong là hắn chửi..". Có gì điên rồ hơn cách chửi của Chí Phèo? Hắn thu hẹp dần đối tượng từ xa xôi nhất, không đâu nhất, chưa đụng chạm đến ai là trời, rồi cà khịa, xúc phạm cứ sát sạt hơn là đời - làng Vũ Đại - tất cả những ai không chửi nhau với hắn. Nhưng trong cái cách chửi tưởng như điên rồ ấy, ta bắt gặp cái logic của một tâm lý tỉnh táo - tỉnh táo đến đau khổ cùng cực. Hắn chửi trời - trời nào của riêng ai! Hắn chửi người - ai cũng nghĩ hắn chừa mình ra! Hắn chửi để cạy miệng thiên hạ nhưng chỉ nhận lại lời đáp từ tiếng sủa của mấy con chó! Làng Vũ Đại phải chăng đã gạt hắn ra khỏi thế giới của họ? Giá như hắn biết hát, mà khổ cho hắn hay khổ cho người, hắn lại không biết hát. Bài chửi của hắn phải chăng chính là khúc hát lộn ngược của một linh hồn méo mó, đau khổ?

    Cuộc đời Chí Phèo có thể tạm chia thành hai chặng trước và sau khi gặp Thị Nở. Chặng trước lại tách làm hai nhánh mà cái mốc của nó là nhà tù thực dân. Nhà tù biến một người lương thiện thành một tên lưu manh. Ra tù, về làng, những thế lực như Bá Kiến, Lí Cường đã làm nốt công việc cuối cùng biến tên lưu manh thành một con quỷ dữ làng Vũ Đại! Nam Cao đã rất thành công khi miêu tả chặng đời trước của hắn như một khúc phim chớp nhoáng. Cuộc đời từ khi hắn cất tiếng khóc chào đời bên lò gạch cũ, vùn vụt trôi qua hai mươi năm và đến khi ra tù thì hắn chẳng còn nhớ mình bao nhiêu tuổi. Lời văn tưởng như rất lạnh lùng đã tố cáo sâu sắc tột ác tày trời của cái xã hội chỉ chực chờ biến người thành quỷ. Và rồi đời hắn rơi mải miết vào những cơn say triền miên. Trong mắt mọi người, hắn trở thành một tên điên khùng, mất trí. Đời hắn là một cơn say dài, mênh mông. Nếu như có giây phút nào đó hắn sực tỉnh thì đó là tỉnh rượu chứ không phải là tỉnh ngộ, mà tỉnh rượu thì có gì đáng nói đâu! Mãi cho đến khi hắn gặp Thị Nở, hắn mới có được những phút giây tỉnh táo của một con người. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở cho hắn sự bừng tỉnh của lương tri, thị là bước ngoặt lớn trong đời hắn.

    Tất nhiên, người đọc cũng nhận thấy rằng không phải gặp Thị Nở mà Chí Phèo có ngay sự thức tỉnh sâu xa. Nam Cao đã tỏ ra rất am hiểu cái diễn biến tâm lý và đã mô tả nó rất tinh vi. Sự chung đụng xác thịt chỉ đem lại cho Chí một cơn ốm thập tử nhất sinh. Chỉ cho đến khi được hưởng một sự chăm sóc mộc mạc, giản dị - mà tưởng chừng như không còn điều gì nữa mộc mạc, giản dị hơn thế - của Thị Nở, thì trong Chí mới có sự thức tỉnh cần thiết. Bản chất lương thiện trong con người nông dân bị vùi lấp nay bỗng trỗi dậy. Có người cho rằng Nam Cao đã quá sa vào chủ nghĩa tự nhiên khi miêu tả Thị Nở xấu đến ma chê quỷ hờn như thế. Nhưng dường như Thị Nở càng xấu thì tác phẩm càng hay. Hay không phải vì Thị Nở xấu mà bởi vì đến một người xấu như thế mà Chí Phèo cũng không giữ được. Cực điểm tha hóa của Chí Phèo là đã phải hủy hoại cả nhân hình lẫn nhân tính. Hắn đã phải mang trên mình một bộ mặt chằng chịt sẹo, một bộ mặt gần như là của một con thú. Hắn đã phải bán đi cả linh hồn của mình để trở thành một con quỷ dữ. Thủ phạm là Bá Kiến, bằng cường quyền bạo ngược của mình, Bá Kiến đã cướp đi quyền làm người của Chí. Nhưng thủ phạm lại không chỉ là cường quyền bạo ngược mà còn là một lực lượng khác không kém phần tàn bạo: Định kiến xã hội. Tiêu biểu nhất là hình tượng bà cô của Thị Nở. Bà ta dường như là cái loa phát thanh lên định kiến của làng. Còn Thị Nở? Thị là hiện thân của tình thương. Đứng trước tình thương thì mọi định kiến đều tiêu tan. Chính tình thương của thị đã làm Chí thức tỉnh. Dẫu chỉ có năm ngày ngắn ngủi cũng đã đủ cho hắn sống và chết như một con người, làm cho hắn trở thành người có "đầu óc sáng sủa nhất của làng Vũ Đại". Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao sắp xếp cho chúng ta thấy mối quan hệ của Chí với hai người đàn bà. Với bà Ba nhà Bá Kiến, hẳn phải là người xinh đẹp nhất nhì làng Vũ Đại, hắn "chỉ thấy nhục chứ yêu thương gì". Với Thị Nở, người tưởng như không có một người đàn ông nào trong làng nhìn tới, đã làm Chí cảm thấy thế nào là sống, thế nào là làm người. Phải chăng bởi vì bà Ba xinh tươi kia chỉ biết cướp lấy phần đời trẻ tuổi của Chí? Còn Thị Nở mới là người thực sự cho hắn hiểu thế nào là tình thương. Có một điệp khúc được lặp đi lặp lại trong các tác phẩm của Rơmac: "Nhân loại thiếu đi một lòng tốt bình thường". Cái triết lý sâu xa ấy dường như in đậm trong các tác phẩm của Nam Cao. Nếu như nhân loại có một lòng tốt bình thường thôi, thì Chí Phèo hẳn sẽ không trở thành một con quỷ dữ. Và trong con người Thị Nở - một người tưởng như chẳng có gì mà lại tồn tại một lòng tốt bình thường.

    Trở lại với diễn biến tâm lý của Chí Phèo, lần đầu tiên ta thấy hắn tỉnh. Trận ốm vừa qua như là một dấu hiệu của tuổi già. Một trận ốm góp phần làm thay đổi tâm lý của Chí. Lần đầu tiên hắn cảm nhận rõ ràng thế nào là sự cô độc. Có thể nói đây là một trong những trang văn xúc động nhất của Nam Cao và cũng chính từ đây giá trị nhân đạo được bộc lộ sâu sắc. Lần đầu tiên sau hai mươi năm, khi Chí đã đi qua cái dốc của cuộc đời, hắn mới nghe được âm thanh bình thường của cuộc sống. Tiếng những người bán vải lao xao ngoài kia dựng dây cả một khoảng sáng trong cái đầu óc tối tăm của hắn. Hắn cũng đã từng có một giấc mơ về một mái ấm hạnh phúc giản đơn như bao người khác. Dường như đây cũng là lúc bản chất lương thiện của hắn tìm về. Và Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay, lần đầu tiên Chí được người khác cho. Chính vì thế mà hắn rất ngạc nhiên, hết ngạc nhiên rồi mắt lại ươn ướt. HÌnh như đối với Nam Cao những giọt nước mắt là biểu hiện của tính người, của sự thức tỉnh. Đó là những giọt nước mắt cay đắng, chua xót bất lực của nhân vật. Thế nhưng, thứ hạnh phúc muộn màng mà hắn được hưởng là thứ hạnh phúc gọi lương tri hắn trở về, càng nhanh chóng đẩy bi kịch của Chí Phèo lên đến hồi kết. Bởi vì người ý thức được sự tủi nhục, ý thức được tình trạng bi đát của mình thì mới có bi kịch. Nhìn lại cuộc đời Chí Phèo, hắn có những gì? Chẳng có gì ngoài một con số không: Không nhà cửa, không họ hàng thân thích. Thâm chí đời hắn còn là một con số âm nữa, bởi vì hắn đâu được coi là con người. Chí đã tỉnh, lần thứ nhất để hi vọng. Hi vọng về một cuộc sống không còn cô độc, một cuộc sống giản dị mà hắn mơ ước lâu nay. Lần thứ hai, hắn tỉnh để thất vọng. Cái tình người ít ỏi mà Thị Nở đem đến cho Chí đã bị giết chết bởi định kiến của bà cô, của làng một cách thật phũ phàng. Cái tình người mong manh ấy bị định kiến thôn tính đến không còn gì: "Hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay. Thị gạt tay ra, lại dúi cho hắn thêm một cái". Nỗ lực cuối cùng của hắn để níu giữ thị đã bị gạt đi một cách phũ phàng, để lại hắn ngồi thẫn thờ trong cái hố thẳm của sự tuyệt vọng. Hắn lại mang rượu ra uống, hắn muốn say, nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh. Hi vọng mở ra từ nước mắt và tuyệt vọng cũng chìm ngập trong nước mắt.

    Những trạng thái tâm lý được Nam Cao tái hiện một cách rất sống động bằng cả độc thoại bên trong lẫn cả lời nửa trực tiếp của tác giả. Tuy nhiên đặc sắc nhất vẫn là cách sử dụng chi tiết, mà tiêu biểu hơn cả là hơi cháo hành. "Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thấy thoang thoảng hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức". Vào lúc tuyệt vọng nhất, hơi cháo hành lại hiện ra, hiện ra để đẩy hắn sâu hơn vào nỗi tuyệt vọng. Nếu đầu óc Chí không tỉnh táo, làm sao còn có thể cảm nhận được dư âm ám ảnh của hơi cháo hành? Chỗ bấu víu cuối cùng của hắn thế là mất nốt. Chẳng có gì mong manh, vô nghĩa như hơi cháo hành. Thế là hết, Chí từ tận cùng của nỗi tuyệt vọng đã chuyển sang niềm căm hận khôn nguôi. Và Chí xác dao đi.. Một lần nữa Nam Cao tỏ ra hết sức tài hoa khi miêu tả những biến đổi trong tâm trạng Chí Phèo khi xác dao đến nhà Bá Kiến. Chúng ta ai cũng biết rằng người say không bao giờ đến những nơi mà họ định đến. Chính vì vậy, tưởng như Chí Phèo sẽ vác dao đến nhà Thị Nở, nhưng không, những bước chân dẫn hắn đến nhà Bá Kiến. Nếu hắn đến nhà Thị Nở, đâm chém hay rạch mặt ăn vạ, hắn sẽ chẳng khác nào một tên mất trí. Hắn không say, hắn tỉnh: Vì thế mà lý trí đã dẫn đường cho hắn. Mọi nẻo đường trở về cuộc đời lương thiện của Chí Phèo đã bị bịt kín. Ai bảo Chí Phèo là một gã mất trí? Khi tỉnh cùng một lúc hắn nhận ra hai sự thật phũ phàng: Một là hắn đã mất hết lương thiện. Và điều thứ hai mới thật là khủng khiếp: Hắn có muốn làm người lương thiện cũng không được nữa rồi. Giờ đây "hắn là người có đầu óc sáng sủa nhất của làng Vũ Đại". Hắn cũng ý thức được nỗi đau của mình, biết tìm ra kẻ nào đã đẩy mình vào nỗi bất hạnh khốn cùng ấy. Chí rất tỉnh táo, bởi hắn ý thức được cuộc sống lương thiện là một ảo ảnh xa mờ. Làm sao hắn làm hòa được với mọi người bằng một bộ mặt của một con quỷ, và một quá khứ cũng chằng chịt những vết sẹo tội lỗi như trên khuôn mặt của hắn. Hắn biết tìm đâu ra lòng tin giữa cuộc đời này trong khi một người như Thị Nở cũng quay lưng lại với mình. Chính vì thế Chí tìm đến nhà Bá Kiến, quẳng vào mặt thủ phạm tàn phá cuộc đời hắn một triết lý ghê gớm: "Ai cho tao lương thiện?". Những câu hỏi thức tỉnh, những câu hỏi mà chính Bá Kiến, cái đầu óc lọc lõi nhất của làng Vũ Đại cũng không nghĩ ra được câu trả lời. Giữa đám dân quê ngu ngơ, yên phận, Chí Phèo chính là người sáng suốt nhất khi nhận rõ bi kịch cuộc đời mình là do đâu; nhận rõ một điều mà dám dân kia không nhìn thấy: Khi xã hội còn có cường quyền, bạo ngược, định kiến thì cuộc đời của người nông dân mãi mãi không ngóc đầu lên được. Những người dân làng Vũ Đại chứng kiến lần đến nhà Bá Kiến này của Chí Phèo cũng chỉ như bao lần trước. Họ không bao giờ hiểu được nguyên nhân tại sao Chí lại giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Họ chỉ biết đứng xem và bình phẩm mà quên mất rằng vẫn còn những thế lực như Bá Kiến tồn tại ngất ngưởng trên đầu họ.

    Văn bản nghệ thuật, tự nó không cần sự giải thích nào. Bởi vì bản thân ngôn từ đã toát lên những gì nó muốn truyền tải. Người đọc phải ngả mũ, kính trọng trước bậc thầy về ngôn ngữ như Nam Cao. Ai đã từng đọc "Lão Hạc" hẳn vẫn còn nhớ rõ câu nói: "Chao ôi, đối với những người xung quanh ta, nếu ta không cố hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc bần tiện, xấu xa, bỉ ổi.. toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn". Nam cao đã sống đúng như những gì ông viết. Nếu không có một tình thương sâu sắc đối với những kiếp người khốn khổ, làm sao Nam Cao còn tìm thấy được bóng dáng con người trong con quỷ Chí Phèo?

    Chí Phèo chết, nhưng không đè nặng lên tim người đọc, bởi dẫu sao Chí Phèo cũng là một con người. Chí dẫu có trở thành bóng ma thơ thẩn trong các ngõ tranh lênh láng đói nghèo của làng Vũ Đại ngày ấy, nhàu nát những vẫn cháy bỏng khát vọng được sống như một con người.
     
    Admin thích bài này.
Trả lời qua Facebook
Đang tải...