Lục Hào Xu Cát Tị Hung (Hóa Giải) Bí Truyền - Vương Hổ Ứng - Dịch Trần Phương

Thảo luận trong 'Tổng Hợp' bắt đầu bởi Dương dương minh, 26 Tháng năm 2024.

  1. Dương dương minh Minh Nguyệt (明月)

    Bài viết:
    190
    LỤC HÀO XU CÁT TỊ HUNG (HÓA GIẢI) BÍ TRUYỀN

    Nguyên tác: Vương Hổ Ứng

    Người dịch: Trần Phương

    [​IMG]

    MỤC LỤC

    LỜI TỰA

    CHƯƠNG 1: MỤC ĐÍCH CỦA DỰ ĐOÁN LỤC HÀO

    CHƯƠNG 2: THẬP NHỊ ĐỊA CHI TIẾT LỘ THIÊN CƠ..

    CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA ẨN TÀNG TRONG BÁT QUÁI..

    CHƯƠNG 4: NẠP ÂM CỦA CAN CHI VÀ PHẠM VI SỬ DỤNG..

    CHƯƠNG 5: TRÍCH XUẤT THÔNG TIN NGŨ HÀNH.

    CHƯƠNG 6: HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA NGŨ HÀNH THEO PHƯƠNG Vị

    CHƯƠNG 7: HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA NGŨ HÀNH THEO THỜI GIAN.

    CHƯƠNG 8: HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA NGŨ HÀNH THEO MÀU SẮC.

    CHƯƠNG 9: HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA NGŨ HÀNH THEO CON SỐ.

    CHƯƠNG 10: HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA NGŨ HÀNH THEO ÂM THANH.

    CHƯƠNG 11: TRONG CHỮ VIẾT VÀ HOA VĂN CŨNG TÀNG TRỮ NGŨ HÀNH.

    CHƯƠNG 12: KHI CHẾ TÁC VẬT HÓA GIẢI CẦN PHẢI CHÚ Ý VẤN ĐỀ GÌ?

    CHƯƠNG 13: CÁC LOẠI HÓA GIẢI.

    CHỈNH SỬA PHONG THỦY

    HÓA GIẢI TÊN NGƯỜI, TÊN ĐẤT

    HÓA GIẢI BẰNG MÀU SẮC

    HÓA GIẢI BẰNG PHƯƠNG VỊ

    HÓA GIẢI BẰNG THỜI GIAN

    HÓA GIẢI BẰNG TU LUYfiN

    HÓA GIẢI BẰNG MƯỢN VẬN

    HÓA GIẢI BẰNG NGOẠI ỨNG

    HÓA GIẢI BẰNG THẾ THÂN

    HÓA GIẢI BẰNG GƯƠNG THÁI CỰC BÁT QUÁI

    HÓA GIẢI BẰNG BÙA HỘ MfiNH

    HÓA GIẢI BẰNG CHÚ THUẬT

    HÓA GIẢI BẰNG TRANG PHỤC

    HÓA GIẢI BẰNG GIƯỜNG NGỦ

    HÓA GIẢI BẰNG THAY ĐỔI Ý ĐỒ

    CHƯƠNG 14: PHƯƠNG PHÁP CHỌN NGÀY TỐT BẰNG LỤC HÀO.


    LỜI TỰA

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Trong cuộc đời mỗi con người sẽ khó tránh khỏi những khó khăn và trắc trở. Khi đối mặt với những điều đó, phần lớn chúng ta sẽ không biết phải làm gì, chỉ biết mặc cho số phận và lặng lẽ chịu đựng, bị dày vò trong đau khổ, chờ đợi ông trời ban ơn để thoát khỏi khổ đau. Nhưng các bậc trí giả không chịu khuất phục trước số phận, họ chọn thái độ tích cực và sử dụng trí tuệ của "Dịch" để nghĩ cách phòng tránh và hóa giải tai nạn.

    Theo khai quật khảo cổ học, từ thời nhà Hán hai ngàn năm trước cũng đã thịnh thành hóa giải, người ta đã đào được rất nhiều trấn trạch, linh phù trừ tà. Thời Hán có một người tên là Trương Đạo Lăng đã sáng lập ra Ngũ Đấu Mễ Đạo, ông ta sử dụng phù thủy để trị bệnh, bởi vì linh nghiệm nên phương pháp này đã được mọi người công nhận, bản thân ông cũng được người đời sau tôn xưng là Trương Thiên Sư.

    Cùng với sự đổi thay của thời đại, phương pháp chữa bệnh này cũng đã trở thành một phần của Trung y, được người đời sau gọi là "Chúc Do Thập Tam Khoa". Nhưng bởi vì người hiện đại bị ảnh hưởng bởi y học phương Tây, đối với loại liệu pháp này càng ngày càng không hiểu, thế là đem "Chúc Do Thập Tam Khoa" quy vào phạm trù mê tín, từ đó liệu pháp này đã biến mất khỏi Trung y.

    Mục đích của dự đoán chính là muốn có một cuộc sống tốt đẹp. Nên khi dự đoán ra trên đường đời xuất hiện những lúc không thuận lợi thì cần phải cố gắng hết sức thay đổi, né tránh, khiến cho sự việc phát triển theo chiều hướng tốt hơn, đây cũng là ý định ban đầu của người xưa khi phát minh ra thuật dự đoán.

    Dự đoán lục hào có nguồn gốc từ thời nhà Hán, nhưng trong dân gian chỉ lưu truyền phương pháp dự đoán mà không lưu truyền phương pháp sử dụng lục hào để hóa giải. Trong sách cổ mặc dù đã có vài ví dụ về hóa giải nhưng khá là đơn giản và không có tính hệ thống, người bình thường rất khó hiểu ra bản chất thực sự của hóa giải, vì vậy rất nhiều người yêu thích lục hào học tập đã nhiều năm mà chỉ có thể dự đoán nhưng lại không thể hóa giải khía cạnh bất lợi cho mình và người khác, căn bản là chưa đạt được xu cát tị hung thực sự.

    Tôi đã trải qua thời gian dài nghiên cứu và thực hành, lại dẫn vào phương pháp hóa giải dân gian bí truyền, soạn ra một bộ phương pháp hóa giải lục hào riêng biệt, làm cho thuật dự đoán này đạt tới sự hoàn thiện thực sự về mặt ý nghĩa.

    Để nghiệm chứng lý thuyết tôi đưa ra, một học trò của tôi ở Nhật Bản đã làm một thí nghiệm chứng minh ảnh hưởng của ngũ hành trong chữ viết như sau: Anh ta lấy hạt giống xếp thành 3 chữ "thủy" (水), "mộc" (木), "kim" (金) và quan sát sự nảy mầm của chúng, kết quả tỷ lệ nảy mầm của hạt giống chữ "thủy" là 90%, tỷ lệ nảy mầm của hạt giống chữ "mộc" là 70%, tỷ lệ nảy mầm của hạt giống chữ "kim" là 30%, có thể thấy được ngũ hành hàm chứa trong chữ viết quả thực có ảnh hưởng nhất định.

    Nhưng chúng ta phải nhớ rằng, hóa giải cũng không phải là vạn năng, có khi

    Hiệu quả hóa giải là không rõ ràng, có khi năng lượng bất lợi quá lớn nên hóa giải

    Không hết, cũng có khi phương pháp hóa giải tìm được là không thích hợp cần phải điều chỉnh, nhưng bất kể như thế nào, hóa giải không thể thay thế tất cả, hóa giải cũng không bài bác khoa học hiện đại, bằng không đã sa vào sùng bái một cách mù quáng.
     
    Beibei112, Ryana, Daisy ly4 người khác thích bài này.
    Last edited by a moderator: 26 Tháng năm 2024
  2. Đăng ký Binance
  3. Dương dương minh Minh Nguyệt (明月)

    Bài viết:
    190
    CHƯƠNG 1: MỤC ĐÍCH CỦA DỰ ĐOÁN LỤC HÀO

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Vì sao người xưa phải sáng tạo ra phương pháp dự đoán lục hào? Đó là làm cho mọi người đều có một cuộc sống tốt đẹp, nắm bắt tất cả các cơ hội có lợi và tránh được các mặt bất lợi để sống hạnh phúc hơn.

    Tại sao con người và sự vật trên thế gian có tồn tại cát hung? Điều này là do vạn sự vạn vật trên thế gian đều chịu chế ước của ngũ hành, sự biến hóa của vạn sự vạn vật đều là do ngũ hành sinh khắc gây nên. Nếu ngũ hành sinh khắc quyết định cát hung của sự vật, thì sử dụng ngũ hành sinh khắc cũng có thể biến đổi cát hung của sự vật. Nói cách khác, dự đoán lục hào không những có thể cung cấp cho chúng ta thông tin cát hung trong đời, mà còn có thể cho chúng ta biết cách nắm bắt cơ hội như thế nào, cách né tránh và thay đổi sự việc xấu ra sao, mấu chốt là làm sao giải mã được những thông tin này trong quẻ. Một khi đã nắm vững dự đoán lục hào và phương pháp hóa giải, bạn sẽ có thể sử dụng lục hào để có một cuộc sống tốt hơn.

    Người ta đến với thế giới này không được tùy ý lựa chọn vận mệnh của mình, nhưng dù có tốt hay không thì vận mệnh vẫn thực sự tồn tại, nó sẽ ở bên chúng ta suốt đời và có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của chúng ta. Người xưa đã phát minh ra rất nhiều thuật dự đoán để phá giải vận mệnh. Ví dụ như tứ trụ thôi mệnh (bát tự) sử dụng thời điểm sinh ra của một người để suy đoán số phận cả đời của người đó. Nhưng trong cùng một thời điểm có rất nhiều người sinh ra, có thể lên tới hàng ngàn hàng vạn, mà tứ trụ thôi mệnh lấy những người sinh ra trong cùng một canh giờ đều sử dụng một mệnh thức để suy đoán, đó chính là nói trên thế giới sẽ có rất nhiều người có cuộc đời giống nhau. Nhưng trên thực tế những người cùng giờ sinh không hẳn sẽ trải qua một cuộc đời như nhau, bởi vì vận mệnh của con người có tính mềm dẻo nhất định, không những chịu ảnh hưởng của thời gian không gian vũ trụ mà còn chịu ảnh hưởng của giáo dục sau này, nỗ lực của bản thân, di truyền, v. V, vì vậy không thể xuất hiện hai người có vận mệnh hoàn toàn giống nhau. Mặc dù là như vậy, nhưng những người cùng mệnh thức vẫn có rất nhiều điểm tương tự và nhất định có quy luật chung ở bên trong. Chính vì như thế nên dự đoán học mới có ý nghĩa. Nếu vận mệnh không có quy luật thì dự doán liền mất đi ý nghĩa, nếu vận mệnh là công thức tuyệt đối thì dự đoán cũng không có ý nghĩa gì.

    Con người là loài linh trưởng vĩ đại nhất trên trái đất, con người tưởng tượng ra bay lượn như chim ở trên bầu trời, liền dùng trí tuệ của mình phát minh ra máy bay, tưởng tượng ra chạy nhanh như báo, liền dùng trí tuệ của mình phát minh ra ô tô, phương tiện giao thông, v. V.. Tương tự như vậy, người xưa đã phát minh ra rất nhiều phương pháp dự đoán để thay đổi vận mệnh của mình. Và dự đoán lục hào cũng là một trong rất nhiều phương pháp dự đoán đó.

    Trong sách chiêm bốc cổ có ghi lại không ít ví dụ về tị nạn và hóa giải, từ thời Lưỡng Tấn hơn một ngàn năm trước đây, ở miền nam Sơn Tây có một học giả nổi tiếng tên là Quách Phác đã viết cuốn sách "Động Lâm Bí Tịch", trong đó đã ghi lại vài ví dụ ông ta sử dụng phương pháp dự đoán lục hào để tiến hành xu cát tị hung,

    Chữa bệnh cho người khác và tránh chiến loạn thành công. Ví dụ như, Cảnh Tự bị bệnh mấy năm không khỏi, liền phái em trai đến chỗ Quách Phác xin đoán, ở ngày Quý Dậu tháng Mùi xem được quẻ Địa Trạch Lâm, Quách Phác theo quẻ suy đoán, nói rằng bệnh của Cảnh Tự cần phải ăn thịt thỏ mới có thể khỏi. Sau đó trên đường về nhà, em trai Cảnh Tự đã bắt được một con thỏ, sau khi Cảnh Tự ăn xong liền khỏi bệnh. Quách Phác đã rút ra thông tin hóa giải từ trong quẻ như thế nào? Chúng ta hãy phân tích một chút.

    [​IMG]

    Tuy rằng em trai đến gặp Quách Phác để xem bệnh cho anh, nhưng ý muốn dự đoán ban đầu chính là bản thân Cảnh Tự, là anh ta phái em trai đi, em trai chỉ là người đi đoán thay mà thôi, bởi vậy Dụng thần không phải là hào Huynh Đệ mà là hào Thế.

    Hào Thế Quan Quỷ Mão mộc tại tháng Mùi hưu tù, lại bị Nhật thần khắc thương, chứng tỏ bệnh tình không nhẹ. Nếu như dùng lục hào để hóa giải thì chỉ cần hào Thế trở nên vượng, bệnh sẽ lành.

    Dụng thần là Mão mộc, Kỵ thần không phát động, bởi vậy không cần cân nhắc đến phương pháp hóa giải theo góc độ chế phục Kỵ thần, chỉ cần tăng cường sức mạnh của Dụng thần là được rồi.

    Có hai phương pháp tăng cường Dụng thần, một là nhờ vào sức mạnh của ngũ hành Nguyên thần sinh trợ Dụng thần, hai là nhờ vào sức mạnh của ngũ hành tương đồng với Dụng thần tỉ vượng Dụng thần. Quách Phác đã chọn cách thứ hai.

    Ngũ hành tương đồng với Dụng thần là Dần mộc và Mão mộc, Dần mộc tương hợp với Nguyên thần Hợi thủy, khiến Nguyên thần tham hợp quên sinh, đối với Dụng thần có tác dụng không lớn, bởi vậy Mão mộc đã trở thành lựa chọn tốt nhất. Hơn nữa, sử dụng Mão mộc còn có một lý do khác ngoài trợ vượng Dụng thần, đó là Mão mộc còn là sao Thiên Y. Mặc dù trong dự đoán thần sát không có ảnh hưởng, nhưng khi dùng nó vào phán đoán thì vẫn có thể rút ra được một số thông tin phụ trợ để tham khảo. Ví dụ Mộc Dục, Đào hoa, Dịch Mã, v. V vẫn có tỷ lệ ứng nghiệm nhất định.

    Mão mộc và thỏ đối ứng với nhau, Địa Trạch Lâm là quẻ cung Khôn, Khôn là thịt, kết hợp lại chính là thịt thỏ.

    Hào Thế lâm Thanh Long, Thanh Long chủ ăn uống, bởi vậy ăn thịt thỏ sẽ tăng cường thể chất người bệnh, từ đó đạt được mục đích cải thiện bệnh tật.

    Một ví dụ khác về hóa giải bệnh tật của Quách Phác. Chú của viên quan quận Nghĩa Hưng bị bệnh thương hàn đã mấy ngày không thấy chuyển biến tốt, liền xin Quách Phác dự đoán, tại ngày Tân Hợi tháng Ngọ được quẻ Thiên Sơn Độn biến Thiên Phong Cấu.

    [​IMG]

    Lấy hào Thế làm Dụng thần. Hào Thế tuy được Nguyệt kiến trợ giúp, nhưng bị Nhật khắc, lại hào Thế tự hóa hồi đầu khắc, nếu không hóa giải cứu chữa nhất định sẽ có nguy hiểm.

    Quách Phác đoán, dùng trâu hướng Khôn có thể cứu. Nhưng vùng đó là nơi hẻo lánh nên có rất ít trâu, đang trong thời điểm khó xử thì có người từ phía Tây Nam dắt trâu đến, sau khi giữ lại một đêm bệnh của chú liền khỏi.

    Làm thế nào mà từ trong quẻ Quách Phác rút ra được được kết luận này vậy? Quẻ này hào biến hồi đầu khắc Thế là thông tin rất quan trọng. Quách Phác đã sử dụng nguyên tắc gọi là khắc thần bị khắc, làm cho Kỵ thần yếu đi để cứu Dụng thần. Tức hào biến là thủy, lấy thổ khắc thủy mà bảo vệ Dụng thần Ngọ hỏa. Trong 12 địa chi, Thìn Tuất Sửu Mùi đều là thổ, đều có thể khắc thủy, nhưng khi dùng để hóa giải thì cần phải cân nhắc xem liệu nó có ảnh tưởng tiêu cực đến Dụng thần hay không. Tuất thổ tuy là chế thủy, nhưng đồng thời cũng là Mộ khố hào Thế, có thể làm suy yếu sức mạnh hào Thế, vì vậy cố gắng không dùng Tuất thổ. Mùi thổ cũng có thể chế thủy, nhưng Mùi thổ và hào Thế tương hợp, bệnh mới thì không nên gặp hợp, vì vậy Mùi thổ cũng không thích hợp dùng để hóa giải. Vậy còn Thìn thổ thì sao? Thìn thổ không có ảnh hưởng tiêu cực đến hào Thế nên có thể dùng để chế thủy. Sửu thổ cũng như Thìn thổ, đều có thể dùng để hóa giải. Lúc đó Quách Phác phần nhiều sử dụng ngoại ứng và vật sống để hóa giải. Rồng là động vật trong truyền thuyết, trong cuộc sống hiện thực rất khó xuất hiện, vì vậy Quách Phác mới dùng Sửu thổ tức là trâu để hóa giải. Đồng thời ông ta lại sợ rằng sức mạnh của trâu không đủ, lại thêm năng lượng của phương vị, lấy trâu ở phương Khôn hóa giải, bởi vì Khôn là trâu, cũng là thổ, chế thủy được triệt để hơn.

    Thông qua việc nghiên cứu và ứng dụng dự đoán lục hào, tôi đã được mở rộng nhận thức đối với vũ trụ và thay đổi thế giới quan của mình. Tôi cho rằng vận mệnh

    Có tồn tại, hơn nữa còn có phương pháp riêng có thể sớm biết được xu thế phát triển của nó, và có thể thay đổi một phần trong một phạm vi nhất định.
     
    LieuDuong thích bài này.
    Last edited by a moderator: 26 Tháng năm 2024
  4. Dương dương minh Minh Nguyệt (明月)

    Bài viết:
    190
    CHƯƠNG 2: THẬP NHỊ ĐỊA CHI TIẾT LỘ THIÊN CƠ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Vũ trụ được tạo thành bởi sự kết hợp giữa âm và dương, do âm dương phát triển không cân bằng mà dẫn tới vũ trụ không ngừng vận động. Một khi âm dương trong vũ trụ có xu hướng cân bằng thì vũ trụ sẽ trở thành trạng thái tĩnh, mọi vật cũng sẽ không tồn tại. Vì vậy, vũ trụ chỉ có nằm ở trạng thái không cân bằng mới có thể tạo ra rất nhiều thế giới đầy màu sắc, sản sinh ra những cuộc đời khác nhau. Dự đoán lục hào dựa trên sự biến hóa của âm dương mà xây dựng nên một hệ thống dự đoán riêng biệt.

    Tại sao lục hào phải sử dụng 12 Địa Chi để chiết xuất thông tin và sử dụng 12 loài vật để đối ứng với 12 Địa Chi? Điều này là bởi vì 12 loài vật có tính đặc thù, chúng phụ trách một vai trò quan trọng về mật mã vũ trụ. Đó là lý do mà người xưa sử dụng 12 loài vật này làm ký hiệu mật mã để suy đoán sự vật.


    Do sự khác biệt giữa âm và dương mà 12 loài vậy này đã được chọn làm mật mã dự đoán.

    Căn cứ vào âm dương có thể chia động vật làm hai loại là động vật móng lẻ và động vật móng chẵn. Nếu như bạn quan sát kỹ móng hoặc chân của 12 loài vật này một chút, bạn sẽ phát hiện ra có một quy luật rất lớn ở trong đó. Trâu, thỏ, dê, gà, lợn đều có số móng chân chẵn, tương ứng với Địa Chi âm, rắn là cực âm nên không có chân; hổ, rồng, ngựa, khỉ, chó đều có số móng chân lẻ, tương ứng với Địa Chi dương, chuột tương ứng với giờ Tý là lúc âm dương hoán đổi, vì vậy chân trước là số chẵn, chân sau là số lẻ.

    Loài cá con giáp kỳ lạ.

    Theo tài liệu xưa ghi lại, ở Đông Hải có một loài cá gọi là nhuận ngư có màu sắc rất thần kỳ. Đối với loài cá thông thường chúng ta đều có thể nhìn thấy chúng mỗi năm, nhưng chỉ năm nhuận mới có thể gặp được nhuận ngư. Hơn nữa tùy theo năm nhuận khác nhau mà hình dạng đầu của nó cũng liên tục biến đổi. Ví dụ như năm Tý nhuận thì Đông Hải sẽ xuất hiện động vật đầu chuột đuôi cá, năm Sửu nhuận thì sẽ xuất hiện động vật đầu trâu đuôi cá.

    Người xưa quyết không tùy tiện lấy tổ hợp 12 loài vật để ứng dụng vào dự đoán học. Bất kể là sử dụng 12 loài vật này làm mật mã để dự đoán hay hóa giải, người ta đã xem chúng như phương tiện truyền tải năng lượng ngũ hành, nói không chừng trong 12 con vật này còn ẩn chứa bí mật về vũ trụ.

    Bởi vì sự không hoàn thiện của cơ thể mà 12 loài vật này đã được chọn vào nhóm động vật tiết lộ thiên cơ. Người xưa cho rằng thiên cơ tiết lộ ở nơi có bệnh, vì vậy khi chọn 12 loài vật làm mật mã đã lựa chọn những loài vật khuyết hãm.

    Người Trung Quốc thường nói "thử mục thốn quang", dùng để ví những người không có lý tưởng, con mắt thiển cận, điều này là do giờ Tý là lúc âm dương hoán đổi, là thời khắc kết thúc một ngày cũ và bắt đầu một ngày mới, bầu trời trở nên tối tăm sẽ lại nghênh đón ánh sáng mặt trời. Chuột thiếu ánh sáng sẽ không thể nhìn xa được, vì vậy lấy chuột đại diện cho giờ Tý. Những động vật khác cũng giống như

    Vậy, trâu thiếu răng, thỏ thiếu môi, rắn thiếu chân, rồng thiếu thính giác (tai nghe không rõ), gà thiếu bàng quang..


    Giữa 12 loài vật cũng tồn tại hiện tượng sinh khắc.

    Chẳng hạn như trong địa chi thì Hợi thủy xung khắc Tị hỏa, trên thực tế lợn không những ăn rắn mà khi bị rắn cắn cũng chỉ phát sưng ngoài da, không gây nguy hiểm đến tính mạng. Tý thủy xung khắc Ngọ hỏa, trên thực tế phân chuột là chất độc đối với ngựa, một khi ngựa ăn phải sẽ trướng bụng mà chết. Mặc dù đây chỉ là hiện tượng tự nhiên nhưng cũng cho thấy mối quan hệ sinh khắc tồn tại giữa 12 địa chi.

    Ý nghĩa tương ứng của 12 địa chi khi sử dụng vào hóa giải.

    Khi sử dụng mối quan hệ sinh khắc xung hợp giữa 12 địa chi để hóa giải, chúng ta xem ảnh hưởng đối với Dụng thần ra sao, từ đó mượn năng lượng của động vật, thực vật, đồ vật.. để làm vật hóa giải nhân tố bất lợi, thay đổi những khía cạnh không tốt trong cuộc sống. Do mỗi canh giờ trong ngày có hàm lượng âm dương khác nhau, người xưa đã phát triển 12 con giáp thành 36 con thú, vì vậy thời gian chế tạo và thời gian đặt vật hóa giải cũng rất quan trọng. Một số vật hóa giải phải được chế tạo ở một thời điểm cụ thể thì mới có hiệu quả rõ ràng, nhưng nếu như không có đủ thời gian để chế tạo vật hóa giải thì có thể rút ngắn thời gian chế tạo, sau đó chọn thời điểm và đặt vật hóa giải ở nơi thích hợp.

    Tý: chuột (ban ngày), chim én (buổi sáng), cá quả, con dơi (ban đêm), nước muối, dòng sông, ao hồ, nước suối, bể nước, người sinh năm Tý..

    Sửu: trâu (buổi sáng), con cua (ban ngày), rùa đen (ban đêm), ruộng đất, két sắt, đồ gốm sứ, khối đất, người sinh năm Sửu..

    Dần: hổ (ban ngày và ban đêm), con lửng (buổi sáng và ban đêm), con mèo, con báo (ban ngày), cây cối, cỏ, rừng cây, bãi cỏ, khúc gỗ, kiến trúc bằng gỗ, đồ gỗ, người sinh năm Dần..

    Mão: thỏ (ban ngày), cáo (ban ngày và ban đêm), con nhím (buổi sáng), hạc trắng (ban đêm), cây cối, hoa cỏ, bãi cỏ, đồ gỗ, kiến trúc bằng gỗ, đồ tre trúc, người sinh năm Mão..

    Thìn: rồng (buổi sáng), thuồng luồng (ban ngày), cá (ban đêm), giun đất, đầm nước, vại nước, ấm trà, ấm nước, khối đất, ruộng đất, dụng cụ y tế, đồ gốm sứ, người sinh năm Thìn..

    Tị: rắn (ban đêm), giun đất (ban ngày), dây thừng, cây nến, ánh đèn, sao trên trời, con lươn (buổi sáng), rùa đen (ban đêm), ve sầu (ban đêm), đất đỏ (ban ngày), đất nung, người sinh năm Tị..

    Ngọ: ngựa (ban ngày), con lừa, con la, con kiến, cầy hương (ban đêm), hưu nai (buổi sáng và ban đêm), con hoẵng (ban đêm), cây nến, lồng hấp, người sinh năm Ngọ..

    Mùi: dê cừu (buổi sáng), diều hâu (ban ngày), chim nhạn (ban đêm), cây khô (ban đêm), sừng dê, chén rượu, vườn trái cây, bãi cỏ, bồn cảnh, y dược, cây dâu tằm, trang phục, người sinh năm Mùi..

    Thân: khỉ (ban đêm và ban ngày), con mèo (buổi sáng), tảng đá (ban đêm), kim loại, đồ sắt, xe, xương cốt, vũ khí, đao, dụng cụ sắc bén, cái đinh, người sinh năm Thân..

    Dậu: Gà (ban ngày), chim trĩ (buổi sáng), diều hâu, đồ kim loại, xương cốt, dụng cụ sắc bén, chim, gương đồng, kim chỉ nam, nam châm, khóa, tảng đá (ban đêm), người sinh năm Dậu..

    Tuất: chó (buổi sáng), sói (ban ngày), chồn (ban đêm), ngói, gạch, khối đất, ruộng đất, tảng đá, tràng hạt, đồ gốm, bình chữa cháy, người sinh năm Tuất..

    Hợi: lợn rừng (ban đêm), lợn nhà (buổi sáng), nước mưa, cá quả, con gấu,

    Băng, nước đá, mực viết, muối, nước tương, người sinh năm Hợi..

    Phương pháp hóa giải 12 con giáp chủ yếu là sử dụng mối quan hệ sinh khắc xung hợp giữa 12 địa chi để tiến hành hóa giải.

    Nếu Dụng thần Không Vong, xuất Không là cát, chính là căn cứ vào nguyên lý Xung Không Thực Không, sử dụng động vật, đồ chơi động vật, đồ vật, hình vẽ.. tương ứng với địa chi để thay đổi tính chất ngũ hành của sự vật nhằm đạt được mục đích hóa giải. Nếu Dụng thần Nguyệt phá thì dùng Thực Phá Hợp Phá để tiến hành hóa giải. Nếu Nguyên thần bị hợp thì dùng địa chi xung Nguyên thần để hóa giải. Kỵ thần phát động thì dùng địa chi khắc Kỵ thần hoặc hợp Kỵ thần để hóa giải. Hoặc là mượn sức mạnh của Nguyên thần, sử dụng vật ở trạng thái động làm Nguyên thần, khiến cho các địa chi hình thành thế liên tục tương sinh, từ đó làm giảm sức mạnh của Kỵ thần mà cứu trợ Dụng thần.

    Ví dụ 1: Ngày Quý Dậu tháng Giáp Dần năm Quý Mùi, một người đàn ông dự đoán lên chức, được quẻ Địa Thủy Sư biến Lôi Trạch Quy Muội.


    [​IMG]

    Lấy Quan Quỷ làm Dụng thần. Dụng thần bị Nguyệt kiến khắc thương, lại không được Nhật thần sinh phù, trong quẻ lại có Tử Tôn phát động đến khắc, theo sự suy vượng của Dụng thần thì rất khó lên chức. Sư là quân đội ra trận, Tử Tôn lại có ý nghĩa binh lính, lâm Nguyệt kiến ý nghĩa càng mạnh hơn, vì vậy tôi đoán tại lúc đánh giá lên chức sẽ có một quân nhân xuất ngũ phản đối anh ta lên chức. Nhưng quẻ này Quan Quỷ động mà hóa hồi đầu sinh, thông qua hóa giải sẽ có hy vọng.

    Khi được cho biết các kết quả ở trên, anh ta đã nhớ lại tất cả các lãnh đạo tham gia xem xét, trong số họ không có ai là quân nhân xuất ngũ. Bất kể là có hay không một quân nhân xuất ngũ phản đối, nếu như không tiến hành hóa giải, theo quẻ này mà đoán thì khó có thể lên chức. Thế là anh ta thỉnh cầu hóa giải.

    Hóa giải: Ngọ hỏa là địa chi tăng cường Quan Quỷ, Dụng thần phát động hóa hồi đầu sinh, nhưng chỉ có một hào biến đến sinh, lại bị Kỵ thần và Nguyệt kiến khắc thương là sinh phù bất khởi. Hào Thế là Nguyên thần sinh phù Quan Quỷ, thuyết minh lần này muốn lên chức thì bản thân phải nỗ lực. Kỵ thần là Dần mộc tương ứng với hướng Đông Bắc, hướng này sinh ra khí bất lợi cho quan vận. Nguyên thần là Ngọ hỏa, Ngọ là ngựa, hỏa là màu đỏ, hợp lại là ngựa đỏ, vì vậy đề nghị để một con ngựa hàng mỹ nghệ màu đỏ tại hướng Đông Bắc căn nhà. Ngọ hỏa tại hào Thế, lại là hào hồi đầu sinh Dụng thần, vì vậy đầu con ngựa phải hướng vào phía trong mới có tác dụng, đây là ý nghĩa của hồi đầu sinh.

    Nghe theo lời tôi dặn, anh ta đã đặt con ngựa tại hướng Đông Bắc của căn nhà, đầu ngựa hướng vào phía trong.

    Ngày hôm sau, khi vấn đề thăng chức được thảo luận thì đột nhiên gặp phải sự phản đối của một cựu hồng quân, lúc này anh ta mới chợt ngộ ra, đây chẳng phải là quân nhân xuất ngũ đã nói hay sao? Có lẽ là hóa giải đã có tác dụng, sau khi ông ta phản đối vài câu đã quay mũi nhọn sang những người được đề cử khác, cuối cùng anh ta được lên chức. Nếu sự việc đã kết thúc như vậy thì ví dụ này vẫn chưa xem là thần kỳ.

    Sau khi việc thăng chức cho người này được quyết định trong cuộc họp, một vị Dịch hữu khác nói với anh ta rằng việc lên chức nếu đã được thông qua thì đầu con

    Ngựa trong nhà có thể đổi vị trí ngược lại, để đầu hướng ra ngoài. Thế là anh ta

    Nghe theo căn dặn của vị Dịch hữu này quay đầu con ngựa lại.

    Ai ngờ sau khi anh ta quay đầu con ngựa, vị cựu hồng quân nọ lại bắt đầu phản đối, đề nghị loại anh ta ra khỏi số người được thăng chức. Anh ta nghe vậy liền vội vàng chạy về nhà quay đầu con ngựa trở về hướng ban đầu, vị cựu hồng quân lại thôi phản đối, cuối cùng vẫn được lên chức.

    Chính bởi vì có sự việc phía sau nên chúng ta mới thấy được tác dụng thần kỳ của hóa giải.

    Ví dụ 2: Ngày Canh Dần tháng Bính Dần năm Kỷ Mão, một cô gái ở Bắc Kinh khóc lóc gọi điện thoại cho tôi, nói là cậu của cô ấy vì bệnh mà nhập viện ở Thiên Tân, mặc dù đã chấp nhận phẫu thuật trị liệu, nhưng phẫu thuật thất bại, bệnh viện đã thông báo khó qua khỏi. Đành nhờ vào dự đoán, tôi gieo được quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân biến Càn Vi Thiên.

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG] Lấy Phụ Mẫu làm Dụng thần. Phụ Mẫu Mão mộc lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ là bệnh, cũng là thông tin làm phẫu thuật. Phụ Mẫu có ngũ hành tương đồng với Nhật Nguyệt là vượng tướng, nhìn từ góc độ Dụng thần suy vượng thì vẫn còn chỗ để hóa giải. Đầu tiên phán đoán bệnh của cậu, Dụng thần vượng tướng, lại không bị Nhật Nguyệt hào động khắc, vì vậy không lấy Dụng thần để phán đoán chứng bệnh.

    Trong quẻ Tử Tôn Sửu thổ độc phát, khắc thương Nguyên thần Quan Quỷ Hợi thủy, chính là lấy Nguyên thần và Cừu thần để phán đoán chứng bệnh. Từ quái cung để luận, Thiên Hỏa Đồng Nhân là quẻ cung Ly, Ly chủ bệnh về tim, ruột, máu, mắt.. Từ lục thân để luận, Tử Tôn là ruột, mạch máu, đường hô hấp, khí quản, ngũ quan, vú, bộ phận sinh dục.. Lấy 12 cung Trường Sinh để luận, Tử Tôn Sửu thổ là kim khố, trong quẻ này kim là Thê Tài, Thê Tài chủ phân và nước tiểu, Mộ khố chứa Thê Tài, Tử Tôn Sửu thổ có thể phán đoán là ruột. Lấy hào vị để luận, hào 2 và hào 3 là dạ dày, eo, thận, chân, ruột, bộ phận sinh dục.. Rất nhiều thông tin ở trên cho thấy cậu bị bệnh về ruột.

    Khi được hỏi, cô ấy nói là dính ruột, phân bị tắc nghẽn trong ruột không thể xuống được, bệnh viện đã làm phẫu thuật để làm sạch phân trong ruột, nhưng vấn

    Đề dính ruột vẫn chưa được giải quyết. Ngay khi phân mới được tạo ra, ruột lại bị tắc.

    Hóa giải: Tử Tôn Sửu thổ là mấu chốt trong quẻ. Tử Tôn Sửu thổ là Cừu thần, tuy rằng phát động khắc chế Nguyên thần, nhưng được Nhật Nguyệt hào biến khắc chế, không cần lo lắng đến phương pháp hóa giải theo góc độ khắc chế Cừu thần nữa. Quẻ này hung là bởi vì Nguyên thần hưu tù. Nguyên thần Hợi thủy không được Nhật Nguyệt sinh phù lại còn bị Sửu thổ động đến khắc. Trong 12 địa chi, Tý Sửu có quan hệ tương hợp, Tý thủy và Hợi thủy có ngũ hành tương đồng, Tý thủy cũng là Nguyên thần, có tác dụng trợ vượng Nguyên thần và Dụng thần, đồng thời cũng có thể hợp trú Sửu thổ khiến cho không thể khắc Nguyên thần. Vì vậy, sử dụng Tý thủy để làm vật hóa giải là sự chọn lựa tốt nhất.

    Tý thủy tương ứng với rất nhiều vật, khi gieo quẻ đã là buổi tối, Tử Tôn Sửu thổ lại lâm Huyền Vũ, Huyền Vũ lại chủ tối tăm, nếu như dùng động vật liên quan đến Tý thủy để hóa giải thì tốt nhất là lựa chọn động vật thuộc về ban đêm trong 36 con thú. Như vậy chỉ có con dơi tương ứng với Tý thủy. Phân dơi có tác dụng giải độc lợi tiểu thông tiện, phân lại có liên quan đến thông tin về ruột, vì vậy sử dụng phân dơi để hóa giải chắc chắn sẽ có tác dụng tốt đối với triệu chứng dính ruột do viêm gây ra. Hào 3 là giường, Sửu thổ tại hào 2, hào 2 có thể hiểu là dưới giường, do đó bảo họ đến hiệu thuốc bắc mua một ít phân dơi (trong Trung y gọi là ngũ linh chi) rắc dưới giường bệnh. Một tuần lễ sau, bệnh tật của cậu khỏi hẳn, thuận lợi xuất viện, khỏi bệnh ngoài dự đoán của bác sĩ.

    Ví dụ 3: Ngày Canh Dần tháng Giáp Tý năm Mậu Dần, một người đàn ông 66 tuổi ở quê tôi đến xin dự đoán. Ông ta tư thông với một cô gái nhỏ hơn mình 20 tuổi, sợ rằng vì vậy mà gặp tai họa, hỏi cát hung ra sao? Được quẻ Hỏa Sơn Lữ biến Hỏa Lôi Phệ Hạp.

    [​IMG]

    Thê Tài Thân kim phát động làm Dụng thần. Quan Quỷ Hợi thủy phục dưới Thê Tài Thân kim, th HỎA Không Vong: Ngọ, Mùi

    Lấy hào Tài làm Dụng thần, xem ảnh hưởng của Thê Tài đối với hào Thế. Trong quẻ Thê Tài lưỡng hiện, lấy uyết minh cô ta đã có chồng. Hào Thế và Dụng thần tương sinh, hai người ăn ở với nhau rất hòa hợp, cô gái này sẽ không lừa dối, cũng sẽ không làm hại ông ta. Tử Tôn trì Thế phát động khắc chế Quan Quỷ phục dưới Dụng thần, chuyện của hai người cho dù bị chồng cô ấy phát

    Hiện cũng sẽ không gây sự với ông ta. Nhưng hào Thế phát động tự hóa Quan Quỷ, Quan Quỷ là bệnh tật, tai họa, chính là thông tin tự mình có nạn.

    Đầu tiên, Thế lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ là bệnh, chính là thông tin bản thân có bệnh. Nguyên thần Ngọ hỏa bị Nguyệt kiến xung phá, hỏa là tim, chính là tim có bệnh. Nguyệt kiến vừa xung vừa khắc, tháng này tim đứng trước nguy hiểm, phải hết sức chú ý.

    Mặt khác, hào Thế động mà hóa Quỷ, Quan Quỷ chỉ tai họa, chính là thông tin tự mình gặp phải tai họa. Hào Thế là Dịch Mã (lấy Nhật kiến là Dần mộc mà suy ra, Dần Ngọ Tuất mã tại Thân Tý Thìn, không chỉ lấy Thân làm Dịch Mã), là tượng xuất hành, lâm hào sơ, hào sơ là chân, cũng là tượng xuất hành, lâm Bạch Hổ, Bạch Hổ chủ bị thương, tai nạn xe cộ.. Hào Thế lại bị Nhật khắc, Nhật có ngũ hành tương đồng với Phụ Mẫu, Phụ Mẫu là xe, thông tin tai nạn xe cộ rất rõ ràng. Hào biến là Tý thủy, căn cứ vào quy tắc ứng kỳ phán đoán là xảy ra tại tháng Tý. Phụ Mẫu Mão mộc phục dưới hào Thế chính là tượng bản thân đi xe, là đi xe gặp phải tai nạn, không phải là đi bộ bị xe đụng. Mão mộc tương ứng với địa chi năm Kỷ Mão (năm 1999), vì vậy phán đoán tai nạn này sẽ xảy ra tại tháng Tý năm Kỷ Mão.

    Hào Thế lâm Tử Tôn nghĩa là có con, hào sơ lại là Tử Tôn, hào vị con cái. Thủy là ngũ hành bị hào Thế khắc, dùng nguyên lý chuyển hoán lục thân "cái ta khắc là Tài" để luận, có thể xem Tý thủy là Thê Tài. Quan Quỷ có ý nghĩa là phiền não, Bạch Hổ có ý nghĩa là tức giận, nổi giận, lấy hào sơ Tử Tôn động hóa Quan Quỷ có thể suy đoán là vì vợ con mà tức giận, phiền não. Phán đoán ứng kỳ có thể dùng hào động để xác định, tức năm Canh Thìn (năm 2000).

    Quẻ chính là Lữ, có nghĩa là lữ hành, lại hào Thế lâm Dịch Mã, vì cãi nhau với vợ con mà năm Canh Thìn bỏ đi nơi khác.

    Hóa giải: Bởi vì trong quẻ có thông tin tai nạn giao thông nên phải tiến hành hóa giải. Hào Thế mặc dù là thần giải ưu Tử Tôn, nhưng hưu tù bị khắc, vì vậy phải tăng cường sức mạnh hào Thế. Hào Thế là thổ, thổ tương ứng với màu vàng, đầu tiên chọn vải màu vàng làm vật liệu chế tạo vật hóa giải. Nguyên thần Ngọ hỏa Nguyệt phá, Mùi thổ và Ngọ hỏa tương hợp, vừa có thể Hợp Phá lại có thể trợ vượng hào Thế, đồng thời Mùi thổ lại là Tiến thần của hào Thế, vì vậy mượn Mùi thổ để hóa giải tai họa khá là hợp lý. Sau khi đã xác định địa chi sử dụng để hóa giải thì có thể bắt đầu chế tạo vật hóa giải.

    Trước tiên, vẽ một Thái Cực đồ trên tấm vải màu vàng. Thái Cực đồ chính là một hình vẽ biểu thị âm dương cân bằng, là kết tinh của trí tuệ người xưa, Thái Cực đồ có tác dụng cân bằng âm dương, thường dùng để phối hợp chế tạo vật hóa giải. Theo thứ tự của phạm vi số tiên thiên và 12 địa chi thì Mùi thổ đều nằm ở số 8, do đó viết 8 chữ Mùi (未) ở dưới Thái Cực đồ, dùng số ám hợp vũ trụ nhằm đạt được hiệu quả hóa giải hoàn mỹ. Thái Cực đồ và chữ Mùi đều dùng chu sa vẽ ra viết ra. Chu sa chính là vật trừ tà, là một trong những phẩm màu thường dùng để chế tạo vật hóa giải. Chu sa có màu đỏ, thuộc tính hỏa, vì vậy sử dụng chu sa sẽ giúp tăng cường sức mạnh hào Thế. Sau khi chế tạo xong vật hóa giải thì có thể mang theo nó trên người.

    Ngay sau khi đoán xong, ông ta cho biết mình có bệnh tim, bốn ngày trước đã phát tác qua một lần. Hiện tại bản thân đang tư thông với một người phụ nữ đã có chồng. Những suy đoán khác còn phải chờ nghiệm chứng thêm ở tương lai.

    Tháng Tị năm Canh Thìn, người này lại tới chỗ tôi dự đoán. Toàn bộ suy đoán về năm 1998 đều ứng nghiệm. Tháng Tý năm 1999, ông ta lái xe ô tô ra ngoài khi tuyết đang rơi, xe đang đi trên một chiếc cầu thì bị trơn trượt nên đã đâm gãy lan can cầu, suýt nữa cả người lẫn xe từ trên cầu rơi xuống, có thể là do vật hóa giải đã có tác dụng nên mới không tạo thành tai họa lớn. Nhưng hiện tại chuyện ngoại tình đã bị vợ và con phát hiện, họ đã bắt cóc cô gái kia và ép ông ta giao ra một số tiền lớn, nếu không giao sẽ giết chết cô ấy. Ông ta đã dùng tiền thuê người đoạt lại cô gái từ trong tay vợ, mang theo cô ấy trốn khỏi quê nhà. Hiện tại mục đích tới đoán là muốn xem khi nào mới có thể giải quyết được việc này với vợ, yên ổn trở về quê.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...