Linux là một hệ điều hành máy tính dựa trên Unix được phát triển và phân phối qua mô hình phần mềm tự do mã nguồn mở. Thành phần cơ bản tạo nên Linux đó là nhân linux, một nhân hệ điều hành ra đời bản đầu tiên vào tháng 8 năm 1991 bởi Linus Torvalds. Là hệ điều hành mã nguồn mở nên Linux có nhiều bản phân phối khác nhau, gọi là Distribution hay Distro. Giữa các distro giống và khác nhau thế nào? Về cơ bản dù nhiều nhưng đều dựa trên 3 nhánh lớn chính đó là Debian, Red Hat và Slackware. Lí do là do Linux "mở" nên bất cứ ai nếu thích đều có thể tạo một Distro và đặt tên nó theo ý thích của mình, miễn là tuân theo "luật". Tất nhiên sẽ có những Distro sẽ không có ai sử dụng và chết theo thời gian. Những Distro nào kiếm được tiền, cộng đồng mạnh, có uy tín thì sẽ sống. Vậy sự khác nhau giữa các Distro đó là gì? Về cơ bản thì chúng giống nhau do đều có kernel là Linux? Sự khác nhau đó dựa vào 2 yếu tố chính đó là: 1. Thị trường mà Distro đó muốn nhắm tới. 2. Triết lý phần mềm của từng Distro - Philosophy Các distro phổ biến và phát triển bền vững hiện nay có thể được chia thành 4 nhóm: Nhóm 1 - Arch, Gentoo, Slackware: Các distro nhắm vào người dùng am hiểu về hệ thống Linux. Hầu hết phương thức xây dựng và cấu hình hệ thống đều phải thực hiện qua môi trường dòng lệnh. Nhóm 2 - Debian, Fedora: Các distro cũng nhắm vào những người dùng am hiểu hệ thống, tuy nhiên cung cấp nhiều công cụ hơn cho những người chưa thật sự hiểu rõ hoàn toàn về Linux. Nhóm này tương đối thân thiện với người dùng mới bắt đầu hơn nhóm (1). Tuy nhiên, các distro nhóm này lại có một quy trình phát triển và kiểm tra chất lượng các gói phần mềm cực kì khắt khe so với các distro còn lại. Để trở thành một lập trình viên chính thức của Debian hay Fedora cần phải có thời gian đóng góp khá dài, và phải được chứng nhận bởi các lập trình viên khác. Do vậy, môi trường để lập trình và nghiên cứu ở 2 distro này khá tốt. Nhóm 3 - Centos, RHEL, SUSE EL: Các distro này chủ yếu nhắm vào thị trường doanh nghiệp, cơ quan, thị trường máy chủ... Các dòng distro này có nhiều đặc tính phù hợp cho mảng thị trường đòi hỏi sự ổn định cao như: thời gian ra phiên bản mới thường khá lâu, 3 – 5 năm tùy distro, dịch vụ hỗ trợ thương mại cho các công ty, tổ chức sử dụng sản phẩm; ít sử dụng các công nghệ mới nhất thường kém ổn định mà tập trung phát triển trên các công nghệ lâu đời và đáng tin cậy hơn. Nhóm 4 - Ubuntu, Open SUSE, Linux Mint: Nhóm các distro nhắm đến người dùng cuối và người mới bắt đầu sử dụng Linux. Đặc tính của các distro này là thời gian phát hành ngắn, ứng dụng liên tục các công nghệ mới với nhiều công cụ đồ họa để cấu hình hệ thống, thiết kế với mục đích dễ dùng, dễ làm quen, không cần đọc tài liệu đối với người mới. Xét về triết lí phần mềm / Software philosophy: Nó chỉ đơn giản là bộ các quy tắc, định hướng, mục tiêu mà những người phát triển một phần mềm đặt ra hay đi theo triết lí do người khác đặt ra để phát triển sản phẩm của mình nhưng phải tuân thủ theo các triết lí đó. Ví dụ triết lí của Microsoft Windows là dễ sử dụng, ít cấu hình thì triết lí của Mac OS X lại là bóng bẩy, thanh lịch. Các distro Linux cũng có những triết lí riêng ví dụ: Nhóm 1 cấu trúc gọn nhẹ, uyển chuyển để có thể xây dựng một hệ thống hoàn toàn tuân theo ý của mình. Nhóm 2 lại nhắm đến việc chuẩn hóa, chuyên môn hóa quá trình phát triển phần mềm nhằm tạo ra một hệ thống hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp và hạn chế lổ hỗng bảo mật. Nhóm 3 phát triển theo hướng bền vững, chuyên nghiệp, cung cấp dịch vụ hỗ trợ dài hạn, cung cấp sản phẩm có vòng đời kéo dài - lên tới 7 năm. Nhóm 4 cung cấp những công nghệ mới nhất, những hiệu ứng đồ họa bắt mắt ngay sau khi cài đặt, không cần phải cấu hình nhiều. Ngoài 2 yếu tố trên thì còn một số điểm khác nữa ví dụ như các gói phần mềm xung quanh, công cụ quản lý gói, Desktop Environment.. Ví dụ: Debian thì thường xài Desktop Environment là GNOME, công cụ quản lý gói là apt-get, dpkg.. Red Hat xài DE là GNOME, công cụ quản lý gói là rpm, yum .. ArchLinux thì DE có thể là bất cứ thứ gì, công cụ quản lý gói là pacman, yaourt OpenSuse thì có DE là KDE, công cụ quản lý gói là YaST Software Management, Zypper.. Tất nhiên người dùng cũng có thể tùy chỉnh những điều này theo ý muốn.
Lịch sử Linux Linus Torvalds phát triển Linux kernel và phân phối phiên bản đầu tiên của nó, 0.01, vào năm 1991. Linuxlucs đầu chỉ được phân phối mã nguồn, và sau đó là hai file ảnh đĩa mềm có thể tải về– một có thể tự khởi động và chứa hạt nhân Linux, và cái khác với một tập hợp các tiện ích và công cụ GNU cho việc thiết lập một hệ thống tập tin.Bởi vì quá trình cài đặt khá phức tạp, đặc biệt là khi đối mặt với số lượng ngày càng tăng của phần mềm có sẵn, các bản phân phối xuất hiện để đơn giản hóa này. Những bản phân phối đầu tiên bao gồm: H. J. Lu's "Boot-root", các cặp hình ảnh đĩa nói trên với các hạt nhân và các công cụ tối thiểu tuyệt đối để bắt đầu MCC Interim Linux, mà đã được có sẵn cho công chúng để tải về trong tháng 2/1992 Softlanding Linux System (SLS), phát hành năm 1992, là phân phối hoàn thiện nhất trong một thời gian ngắn, bao gồm X Window System Yggdrasil Linux/GNU/X, phân phối thương mại đầu tiên được phát hành vào tháng 12/1992 Hai dự án phân phối lâu đời nhất và vẫn còn hoạt động bắt đầu vào năm 1993. SLS đã không được duy trì tốt, vì vậy trong tháng 7/1993 một phân phối mới, được gọi là Slackware và dựa trên SLS, được phát hành bởi Patrick Volkerding.[14] Ngoài ra không hài lòng với SLS, Ian Murdock thiết để tạo ra một phân phối miễn phí bằng cách phát triển Debian, phiên bản đầu tiên phát hành tháng 12/1993.[15] Người dùng bị các bản phân phối Linux thu hút như là sự thay thế cho DOS và Microsoft Windows trên các máy tương thích IBM PC, Mac OS trên Apple Macintosh, và các phiên bản độc quyền của Unix. Hầu hết các người sớm chấp nhận quen thuộc với Unix ở nơi làm việc hoặc trường học. Họ chấp nhận các bản phân phối Linux do giá thấp của chúng (nếu có), và tính sẵn sàng của mã nguồn cho hầu hết hoặc tất cả các phần mềm kèm theo. Ban đầu, các bản phân phối chỉ đơn giản là một tiện ích,[citation needed] nhưng sau đó họ đã trở thành sự lựa chọn thông thường ngay cả đối với các chuyên gia Unix hoặc Linux. Đến nay, Linux đã chứng minh phổ biến hơn trên thị trường máy chủ, chủ yếu cho các máy chủ Web và cơ sở dữ liệu (ví dụ, trong LAMP), và trong thị trường thiết bị nhúng hơn trong thị trường máy tính cá nhân.
Các bản phân phối Một bản phân phối Linux - thường được gọi tắt là distro - là một hệ điều hành được tạo dựng từ tập hợp nhiều phần mềm dựa trên hạt nhân Linux và thường có một hệ thống quản lý gói tin. Người dùng Linux thường tải một bản phân phối Linux, trong đó có sẵn trong một loạt các hệ thống khác nhau, từ các thiết bị nhúng (ví dụ, OpenWrt) và máy tính cá nhân đến Siêu máy tính (ví dụ, Rocks Cluster Distribution) Một bản phân phối Linux điển hình bao gồm một Linux kernel, các công cụ và thư viện GNU, các phần mềm thêm vào, tài liệu, một window system (phần lớn sử dụng X Window System), và window manager, và một môi trường desktop. Phần lớn các phần mềm là phần mềm tự do nguồn mở có sẵn cả file biên dịch nhị phân và mã nguồn, cho phép chỉnh sửa phần mềm gốc. Thông thường, các bản phân phối Linux tùy chọn bao gồm một số phần mềm độc quyền mà có thể không có sẵn ở dạng mã nguồn, ví dụ như các binary blobyêu cầu cho các trình điều khiển thiết bị. Hầu như tất cả các bản phân phối Linux là tương tự Unix; ngoại lệ đáng chú ý nhất là Android, không bao gồm một giao diện dòng lệnh và các chương trình làm cho các bản phân phối Linux điển hình. Một bản phân phối Linux cũng có thể được mô tả như một loại riêng biệt của ứng dụng và phần mềm tiện ích (công cụ GNU khác nhau và các thư viện làm ví dụ), đóng gói cùng với các hạt nhân Linux theo cách như vậy mà khả năng của nó đáp ứng được nhu cầu của nhiều người sử dụng. Phần mềm này thường được chuyển đến phân phối và sau đó được đóng gói thành các gói phần mềm bằng cách bảo trì của phân phối. Các gói phần mềm có sẵn trực tuyến trong cái gọi là kho lưu trữ, đó là địa điểm lưu trữ thường phân bố trên toàn thế giới. Ngoài các thành phần chính, chẳng hạn như các trình cài đặt phân phối (ví dụ, Debian-Installer hay Anaconda) hoặc các hệ thống quản lý gói, còn có một số ít các gói mà ban đầu được viết từ dưới lên bởi các nhà bảo trì của một phân phối Linux. Có khoảng sáu trăm bản phân phối Linux tồn tại, với gần năm trăm trong số đó phát triển tích cực, liên tục được sửa đổi và cải thiện. Bởi vì sự sẵn có lớn của phần mềm, phân phối đã thực hiện một loạt các hình thức, kể cả những người phù hợp để sử dụng trên máy tính để bàn, máy chủ, máy tính xách tay, netbook, điện thoại di động và máy tính bảng, cũng như môi trường tối thiểu thường để sử dụng trong các hệ thống nhúng. Có nhiều phân phối hỗ trợ thương mại, như Fedora (Red Hat), openSUSE (SUSE) và Ubuntu (Canonical Ltd.), và hoàn toàn phân phối dựa vào cộng đồng, chẳng hạn như Debian, Slackware, Gentoo hay Arch Linux. Hầu hết các bản phân phối đều sẵn sàng để sử dụng và biên dịch sẵn kèm theo một bộ hướng dẫn cụ thể, trong khi một số phân phối (như Gentoo) phân phối chủ yếu ở dạng mã nguồn và biên dịch cục bộ trong quá trình cài đặt.