Lí Thánh Tông - Một giai thoại lịch sử.

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thư Viện Ngôn Từ, 27 Tháng mười 2024.

  1. Lí Thánh Tông - Một giai thoại lịch sử..

    [​IMG]

    LÍ THÁNH TÔNG

    MỘT ÔNG VUA NHÂN TỪ..

    Lí Thánh Tông (1023 1072) là một ông vua khôi ngô tuấn tú, dũng lược và nổi tiếng về lòng nhân từ. Mùa đông năm 1055, mặc dù mới sang tháng Mười (âm lịch) nhưng trời đã rét lắm. Vua bỗng động lòng nói với tả hữu rằng:

    - Trẫm ở trong cung, nào lò sưởi ngự, nào áo lót cấu mà còn rét như thế này, nghĩ đến những tù nhân hiện bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa được xét rõ ngay hay gian mà ăn không no bụng, mặc không kín thân, khôn khổ vì rét mướt, thậm chí có thể bị chết mà không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho hữu ti phát chăn chiếu cho họ và cấp cơm ăn đủ ngày hai bữa

    Bản tính nhân hậu khiến vua trở thành người sùng đạo Phật, vì vậy ngài đã cho xây dựng một công trình đồ sộ là chùa Sùng Khánh Báo Thiên vào năm 1056, phát 1 vạn 2 nghìn cân đồng trong quốc khố để đúc một quả chuông lớn treo ở chúa này. Rồi năm sau, ngài lại cho xây tháp Đại Thắng Tự Thiên (tức tháp Báo Thiên), cao vài chục trượng, gồm 12 tầng. Sau đó ngài còn cho dựng hai ngôi chùa Thiên Phúc Thiên Thọ, đúc hai pho tượng Phạn Vương va Đế Thích bằng vàng để thờ.

    Năm 1064, vua ngự ở điện Thiên Khánh xứ kiện. Khi ấy bên cạnh vua có công chúa Động Thiên đứng hẩu, vua chỉ vào công chúa mà bảo viên quan ngục rằng:

    - Ta yêu con ta cũng như lòng ta làm cha mẹ dân. Dân chỉ vì không hiểu biết mà mắc vào hình pháp, trẫm rất thương xót. Từ nay về sau, không cứ tội nặng hay nhẹ, trăm ra lệnh nhất luật khoan giảm hết thảy.

    .. VÀ MỘT ÔNG VUA ANH HÙNG

    Không chỉ là một ông vua nhân từ, Lí Thánh Tông đồng thời là một ông vua anh hùng. Lúc ấy nhà Tống có những việc làm phản phúc, lăm le định xâm lược nước ta, mặc dù triều đình nhà Lí đã giữ lễ cống tiến rất chu đáo. Năm 1059, vua Lí bèn xuất binh tấn công Khâm Châu của nước Tống để thị uy rồi rút quân về. Năm sau, lấy cớ sang nước Tống truy bắt những tên lính của ta bỏ trốn sang nước Tống, vua sai Châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái đem quân vào đất Tống, bắt luôn quan chỉ huy sử nhà Tông là Dương Bảo Tài cũng nhiều quân lình, trâu ngựa đem về nước Mấy tháng sau, quân Tông kéo sang xâm lược nhưng bị đánh tơi bời, đành phải tìm cách giảng hòa với nhà vua và xin lãnh Dương Bảo Tài về Vua nhất định không trả.

    Vua Lí Thánh Tông còn có tài tổ chức quân đội. Ngài chia quân làm tả hữu tiền hậu bốn bộ, gồm 100 đội, mỗi đội có lính kị và lính bắn đá. Binh pháp nhà Lí có tiếng đến mức nhà Tống tuy là "thiên triều" cũng phải nghiên cứu và bắt chước.

    MỐI LƯƠNG DUYÊN VỚI NÀNG Ỷ LAN

    Khi nhà vua tuổi đã "tứ tuần" mà chưa có con trai nỗi dõi, ngài lấy làm lo lắng bèn xa giá đi các chùa để lễ Phật cẩu tự. Xa giá đi đến đâu, con trai con gái ở các thôn làng đổ xô ra xem đông đúc và hết sức nô nức. Duy có một lần, vua nhìn thấy có một người con gái hái dâu, nhan sắc mặn mà, cứ đứng một mình tựa vào gốc cây lan, không hề chú ý đến xa giá của ngài như những cô gái khác. Vua lấy làm lạ, cho nàng là người có cốt cách khác người, bèn tiến lại gần làm quen với nàng, và ngay bữa ấy đưa nàng về cung. Được gần gũi nàng, vua càng phát hiện nhiều vẻ thanh quý khác thường ở nàng. Ngài rất ưng ý, sủng ái nàng và phong nàng là Ỷ Lan phu nhân (phu nhân dựa gốc cây lan)

    Sau đó, vua sai Chi hậu nội nhân là Nguyễn Bông làm lễ cầu tự ở chùa Thánh Chúa. Quả nhiên Ỷ Lan phu nhân có mang, năm 1066 sinh ra hoàng tử Càn Đức (tức vua Lí Nhân Tông sau này). Hoàng tử ra đời được một ngày thì nhà vua vui mừng lập ngay làm hoàng thái tử, đại xá cho thiên hạ, và phong Ỷ Lan phu nhân làm Thần phi .

    Năm 1069, vua Lí Thánh Tông nối chí vua cha ra sức mở mang bờ cõi. Bà Nguyên phi Ỷ Lan ở nhà thay nhà vua nhiếp chính đã khiến trăm họ vô cùng cảm phục. Cả nước được yên ổn vững vàng, lòng người thảy đều hoan hỉ, đạo Phật được tôn sùng, bản thân bà nguyên phi được dân chúng gọi là bà Quan Âm.

    TỘI LỖI VÀ CÔNG ĐỨC CỦA HOÀNG THÁI PHI Ỷ LAN

    Sau khi vua Lí Thánh Tông băng hà (1072), hoàng thái tử Cân Đức lên nối ngôi (tức vua Li Nhân Tông) mới có 7 tuổi. Vua tôn mẹ là Ý Lan nguyên phi làm Hoàng thái phi, tôn bà Thượng Dương thái hậu họ Dương (tức người vợ đầu tiên của vua Lí Thánh Tông, không có con nhưng được Càn Đức yêu quý gọi là mẹ già) làm Hoàng thải hậu (trên Hoàng thái phi một bậc). Vua cùng Hoàng thái hậu buông rèm nghe chính sự do thái sư Lí Đạo Thành chủ trì thiết triều.

    Hoàng thái phi Ý Lan ganh ghét với bà Hoàng thái hậu họ Dương, mới kêu phàn nàn với vua rằng:

    - Mẹ già khó nhọc biết bao nhiêu mới có ngày nay mà bây giờ phú quý con để người khác được hưởng thế thì sẽ để mẹ vào đâu?

    Đáng lẽ vua phải khéo dàn xếp mối bất hòa, song vì còn là một đứa trẻ thơ chưa thể quyết đoán sáng suốt nên vua đã chiều ý mẹ, làm một hành động quá mức tàn ác: Khép tội bà Hoàng thái hậu, giam bà cùng 76 người thị nữ vào cung Thượng Dương, sau đó bức tất cả phải chết và chôn theo vào Jăng Thánh Tông!

    Tương truyền sau hành vi gây ra cái chết oan khốc cho Hoàng thái hậu và các thị nữ vô tội, Ỷ Lan thái hậu vô cùng hối hận. Từ đó bà cho xây dựng rất nhiều chùa chiền, cả thảy đến 100 ngôi thờ Phật để sám hối và tấy oan cho những người đã chết vì lòng đố kị của bà. Bà cũng là người đầu tiên đặt ra nghi lễ "tắm Phật" duy trì mãi về sau trong các hội lễ Phật.

    Trong quãng đời còn lại, thái hậu Ỷ Lan (bà được phong làm Linh Nhân Hoàng thái hậu năm 1073) đã làm hết sức mình giúp dân giúp nước.

    Chính thái hậu, với sự giúp rập của Lí Thường Kiệt, đã phò tá vua nhỏ chống nhau với quân Tống xâm lược, bảo vệ được nfên độc lập của tổ quốc, vãn hồi thái bình cho xã tác. Năm 1103 vì xót thương những người con gái nhà nghèo phải bản mình đi ở cho những nhà giàu có, thái hậu đã phát tiền ở kho nội phủ chuộc thân cho họ, rồi tùy duyên lứa, cho họ kết hôn với những người con trai vì nghèo mà không lấy được vợ hoặc góa vợ, đối đời cho họ. Việc làm nhân đức ấy đã để lại tiếng thơm mãi mãi cho đời sau.

    Năm 1117, thái hậu bàn với triều đình về bảo vệ trâu bò như sau:

    - Gần đây ở kinh thành lẫn ở hương ấp, có nhiều kẻ trốn tránh, lấy việc ăn trộm trâu lâm nghề nghiệp, gây ra cảnh cùng quẫn cho trăm họ, đến nỗi mấy nhà phải cày chung một con trâu.

    Trước đây ta đã từng nói đến nạn ấy, nhà nước đã ra lệnh cấm. Nhưng đến nay việc giết trâu lại diễn ra nhiều hơn trước!

    Chiếu theo ý kiến của bà, vua Lí Nhân Tông xuống chiếu bắt những kẻ mổ trộm trâu phải phạt 80 trượng, đồ làm khoa giáp (phục dịch trong quân), vợ y cũng phải phạt 80 trượng và đồ làm tang thất phu (phục dịch công việc ở nhà chăn tằm), đồng thời phải bồi thường trâu. Láng giêng biết mà không tố cáo cũng bị phạt 80 trượng.

    Đến năm 1123, nhà vua lại xuống chiếu nhấn mạnh: "Trâu là vật quan trọng cho việc cày cấy, làm lợi cho người không ít. Từ nay về sau, cứ ba nhà hợp làm một bảo, không được giết trâu ăn thịt. Ai làm trái thì trị tội theo hình luật".

    Phải chăng "đàn trâu nước Đại Việt" tránh được nạn tàn sát, tồn tại, phát triển mãi đến ngày nay, một phần nhờ vào đầu óc sáng suốt và lòng bác ái của thái hậu Ỷ Lan?
     
  2. Đăng ký Binance
Trả lời qua Facebook
Đang tải...