I – Giới thiệu chung: 1 – Tác giả: - NKĐ trưởng thành trong phong trào thơ trẻ chống Mĩ (1965 – 1975) với những nhận thức sâu sắc về đất nước, về nhân dân, về mqh giữa nhân dân với đất nước, trách nhiệm của tuổi trẻ; và với những trải nghiệm thực tế đời sống chiến tranh. Là tiếng thơ cất lên từ trong lửa đạn mang âm vang chiến tranh và khí thế tinh thần thời đại. - Nét riêng: Là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, là sự vận dụng một cách sáng tạo âm hưởng cũng như chất liệu của văn hóa, văn học dân gian trong việc xây dựng hình tượng và thể hiện tư tưởng. 2 – Tác phẩm: - Hoàn cảnh ra đời: Tác phẩm được hoàn thành năm 1971 tại khu Trị Thiên. Ra đời trong không khí kháng chiến chống Mĩ dữ dội trên mảnh đất MN. Ở MB lúc này đang diễn ra một trận lụt lịch sử. Đe dọa trực tiếp đến vận mệnh của đất nước, đến cuộc sống của nhân dân và đây là thử thách lớn đối với sức sống và tinh thần dân tộc. - Trong không khí đó để bảo vệ cuộc sống nhân dân thì cần có tinh thần đoàn kết của cả cộng đồng, cần sức mạnh của nhân dân, chính thử thách này đã làm tỏa sáng mqh giữa nhân dân với đất nước. - Nội dung của trường ca: + "Mặt đường khát vọng" của NKĐ lại triển khai nội dung của mạch suy tư trữ tình. Trường ca đề cập tới sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở các thành thị MN, ở vùng tạm chiếm để nhận rõ bộ mặt của kẻ thù, để nhận diện sức mạnh của nhân dân, từ đó ý thức sâu sắc về trách nhiệm của thế hệ mình; để xuống đường hòa mình vào cuộc đấu tranh của toàn dân tộc - Nghệ thuật: + Lựa chọn hình thức lời tâm tình trò chuyện: Có khi là tâm tình với mẹ, có khi là nói với kẻ thù và ở đoạn trích này là lời tâm tình, trò chuyện của anh với em về đất nước. => Thế nên đoạn trường ca này mang một âm hưởng trữ tình ngọt ngào tha thiết. Khiến cho những vấn đề có ý nghĩa thiêng liêng trọng đại lại trở nên giản dị gần gũi để cảm nhận thấm thía. + Huy động vốn tri thức văn hóa, văn học dân gian phong phú, được vận dụng sáng tạo để kiến tạo câu thơ, để xây dựng hình tượng. + Sử dụng mô típ, hình ảnh trong truyện kể; có khi nhà thơ sử dụng một phần từ ngữ hình ảnh trong một câu ca dao để tạo cho câu thơ chất thơ; có khi nhà thơ lại sử dụng nguyên lời và ý để thể hiện tư tưởng. + Kết hợp cái sâu sắc của những suy tưởng với cái tươi tắn của hình ảnh, mạch suy tư được triển khai phong phú và thống nhất, để từ đó hướng tới khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. II – Đọc hiểu: 1 – Những cảm nhận về Đất Nước: 1.1 – Quá trình hình thành Đất Nước: - Nhà thơ đã liệt kê ra một hệ thống hình ảnh vốn là hình ảnh gần gũi trong đời sống lao động, sinh hoạt của nhân dân. - Từ đó người đọc hình dung ra bức tranh đời sống của nhân dân lao động xưa từ bao đời, đó là: Cái "ngày xửa ngày xưa.." mẹ thường hay kể; đó là miếng trầu, cây tre; đó là gừng cay, muối mặn, là cái kèo, cái cột. Là những thứ làm nên đời sống vật chất, diện mạo văn hóa tinh thần. Mỗi yếu tố đều chứa đựng giá trị vật chất và giá trị tinh thần vô cùng thiêng liêng. + "Ngày xửa ngày xưa" – là lời mở đầu của những câu chuyện cổ tích, là nét sinh hoạt trong cuộc sống đời thường của ngươi lao động. Những câu chuyện cổ tích là kết tinh trong đó cả trí tuệ và tâm hồn người lao động xưa, những hiểu biết sơ khai những ước mơ khát vọng của con người. + Miếng trầu - là sự vật luôn hiện diện trong đời sống sinh hoạt, ăn trầu là môt thói quen, nó chứa đựng trong đó mĩ tục văn hóa dân tộc, chứa đựng trong đó tình yêu thương sự gắn kết giữa con người với con người. Miếng trầu là đầu câu chuyện, là lễ vật đính ước hoặc dâng cúng tổ tiên. + Cây tre – gắn với không gian làng quê, cũng là nguyên liệu tạo nên những vật dụng của đời sống, cây tre còn giữ đất, giữ làng. + "Gừng cay, muối mặn" – là vị thuốc dân gian, gia vị trong cuộc sống hằng ngày. "Chén muối, đĩa gừng" còn là chỉ tình nghĩa vợ chồng. + "Cái kèo, cái cột" – vừa làm nên mái nhà, vừa xây dựng tổ ấm. + Hạt gạo nuôi sống con người, kết tinh bao vất vả đắng cay. Làm nên bức tranh đời sống và diện mạo văn hóa tinh thần của cả cộng đồng. - Hệ thống hình ảnh và sự hô ứng của từ ngữ giúp nhà thơ biểu đạt trọn vẹn tư tưởng nhận thức của mình. + Sự hô ứng: Giữa "ngày xửa, ngày xưa" với "bây giờ". ● Ngày xửa ngày xưa là quá khứ đã xa xôi. ● Bây giờ là cảm nhận về hiện tại. Từ quá khứ xa xôi tới cảm nhận về hiện tại là dòng chảy thời gian với bao nhiêu biến cố thăng trầm mới có thể tạo thành đất nước. + Hệ thống hình ảnh: "Có" – xác định sự tồn tại; "bắt đầu" – gợi điểm khởi sinh cho một quá trình; "lớn lên" – gợi sự trưởng thành để hoàn thiện. => Sự hô ứng của hệ thống từ ngữ này cho ta hình dung đất nước của NKĐ không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một sinh thể có sự sống, có quá trình phát triển. ● "Lớn lên" : Để nói về ta (anh - em) – ta lớn lên là sự trưởng thành của những cá nhân. Để nói về đất nước – là sự trưởng thành của đất nước, 2 quá trình trưởng thành này không độc lập, tách biệt mà hòa quyện với nhau. + "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi" – NKĐ khẳng định rằng mỗi cá nhân đều trưởng thành từ điểm tựa đất nước, bởi đất nước ấy vừa là môi trường sinh sống, vừa là không gian văn hóa. Tất cả đã hình thành tâm hồn, là cội nguồn hướng về, là động lực để thúc đẩy cố gắng. + Khi nhà thơ viết "Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc" – nhà thơ khẳng định sự trưởng thành hoàn thiện của đất nước gắn với ý thức xây dựng, chiến đấu, bảo vệ của con người. Bởi trồng tre là để dựng làng nhưng trồng tre cũng là để giữ nước. Người trồng tre dựng làng giữ nước ấy là dân mình, là nhân dân trong đó có cả anh và em. => Như vậy, một cách giản dị mà thấm thía, NKĐ nói về mqh thiêng liêng giữa sự sống của đất nước với sự sống của mỗi cá nhân. Đó là cách để NKĐ đi tới một nhận thức quan trọng về cội nguồn của đất nước. Ở đây tuy nhà thơ không nhắc tới một mốc thời gian nào cụ thể về thời điểm hình thành của đất nước nhưng thay vào đó là yếu tố dấu hiệu làm nên đời sống, sự sống của con người. Đó là từ khi con người biết yêu thương, lao động để xây dựng, chiến đấu để bảo vệ, gắn bó để tạo thành sức mạnh. Tất cả những điều đó góp phần hình thành nên đất nước, một đất nước vừa lớn lao thiêng liêng nhưng bình dị, gần gũi, một đất nước vừa bao bọc chở che lại vừa được tạo thành từ chính bàn tay xây đắp của con người. 1.2 – Khái niệm Đất Nước: Gắn với thời gian đằng đẵng (Lịch sử) ; Không gian mênh mông (Địa lí) ; phong tục tập quán (Văn hóa). Ba phương diện ấy đều được nhìn nhận trong mối quan hệ gắn bó với con người. - Cách định nghĩa về ĐN của NKĐ rất đặc biệt. Khái niệm đất nước là khái niệm trừu tượng, ở đây NKĐ đã tách khái niệm đất nước thành khái niệm cụ thể. Để trả lời cho câu hỏi đất nước, nhà thơ trước hết đã đi vào trả lời cho câu hỏi: Đất là gì? Nước là gì? Từ đó nhận thức về đất nước được bồi đắp, hiện dần từ chiều rộng đến chiều sâu. - Trở đi trở lại trong đoạn là nhưng câu định nghĩa "đất là", "nước là", giúp người đọc hiểu thêm mọi điều về đất nước. - Đất nước trước hết được nhìn từ phương diện địa lí, gắn với cảm nhận về không gian mênh mông: Nhận thức về không gian đất nước được mở rộng dần bắt đầu từ những gì gần gũi, bình dị mở ra theo liên tưởng sáng tạo phong phú. + Không gian đất nước là nơi gắn với thời ấu thơ cắp sách tới trường "nơi anh tới trường". + Không gian đất nước là nơi gắn với sinh hoạt riêng tư của con người "nơi em tắm" + Không gian đất nước là nơi hình thành nuôi dưỡng những kỉ niệm tình yêu "nơi ta hò hẹn", "nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm". Cảm nhận về đất nước không còn xa xôi, trừu tượng, đất nước đã là một phần trong đời sống, sự sống của mỗi cá nhân. Đất nước ở quanh ta, gắn với cuộc sống của ta. Đất nước đã trở nên thân thiết. + Đất nước vừa là không gian mênh mông phóng khoáng của núi rừng, sông bể vừa kì vĩ mĩ lệ, vừa gắn với những huyền thoại linh thiêng: "Đất là nơi" con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc " Nước là nơi" con cá ngư ông móng nước biển khơi ". + Không gian sinh tồn của cả cộng đồng qua bao thế hệ:" Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ'. + Không gian có tổ tiên nguồn cội: "Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng" Khái niệm đất nước được mở rộng ra, không chỉ mở rông về không gian địa lí mà còn mở rộng về ý nghĩa. Không gian đất nước không chỉ gắn với đời sống của một cá nhân đơn lẻ mà nó còn gắn với cuộc sống chung của cả cộng đồng. Không gian đất nước không chỉ gắn với những cảm nhận về hiện tại mà còn gắn với nhứng hiểu biết về quá khứ xa xưa từ buổi mới hình thành. Nhìn từ góc độ này khái niệm đất nước trở nên thiêng liêng hơn, là một phần trong đời sống tâm linh của con người. Từ góc nhìn này không gian địa lý là nơi hình thành dòng chảy lịch sử. - Nhìn từ phương diện lịch sử (thời gian đằng đẵng). + NKĐ bắt đầu từ cái khởi nguồn lịch sử là khởi nguồn hình thành nòi giống: "Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng". Câu thơ gợi nhắc về một truyền thuyết, gợi nhắc cho người VN một nhận thức về tình nghĩa đồng bào. Khi cả dân tộc ý thức về tổ tiên nguồn cội thì sẽ tạo nên sự đoàn kết và gắn bó. Lịch sử của đất nước là sự đoàn kết gắn bó để đi qua cái dằng dặc của thời gian với những biến thiên lịch sử. + Mạch nguồn sự sống kết nối quá khứ - hiện tại – tương lai: "Những ai đã khuất - Người trong quá khứ. Những ai bây giờ - Người trong hiện tại. * * *Dặn dò con cháu chuyện mai sau" – thế hệ tương lai. Quá khứ - hiện tại - tương lai không tồn tại độc lập mà là sự luân chuyển kết nối, cái làm nên sự luân chuyển kết nối từ hiện tại tới tương lai là hoạt động sống của con người: "Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau" Lịch sử đất nước là lịch sử của tình yêu, ý thức trách nhiệm, tinh thần xây dựng đất nước, tạo nên dòng chảy của lịch sử qua thời gian. Mỗi thế hệ đều thể hiện trách nhiệm và bổn phận của mình đối với ĐN vì thế đất nước sẽ được tiếp nối. - Nhìn từ phương diện văn hóa (Phong tục tập quán). + Yếu tố văn hóa hòa quyện để làm nên nét riêng của địa lý quê hương của dòng chảy lịch sử. ● Địa lí quê hương: Mỗi khoảng không gian đều gắn với huyền thoại, truyền thuyết, hình ảnh đất đai quê hương thiêng liêng hơn chứ không còn là một định lượng. ● Nhìn vào dòng chảy lịch sử: Hình ảnh bọc trăm trứng trong truyền thuyết xưa, tạo nên tinh thần đoàn kết. + NKĐ hướng tới phong tục tập quán mang bản sắc riêng của cộng đồng, đó là "ngày giỗ Tổ" – là một tín ngưỡng riêng của cộng đồng, vừa hé mở một nét riêng trong đời sống tâm hồn, trong chân dung tâm hồn đó là "ngưỡng vọng tổ tiên, uống nước nhớ nguồn" => Chính truyền thống đạo lí ấy, nét riêng văn hóa ấy có ý nghĩa kết nối tâm hồn, khơi mạch cho tinh thần đoàn kết. 1.3 – Mối quan hệ giữa và trách nhiệm của cá nhân – Đất Nước. "Trong anh và em hôm nay Đều có một phần đất nước". + Thông thường người ta vẫn nhìn nhận đất nước là không gian bao bọc xung quanh mỗi con người, là không gian sinh tồn, nó tồn tại bên ngoài con người độc lập với con người. + NKĐ lại có cách nhìn riêng: Đất nước không phải chỉ là yếu tố bên ngoài mà là yếu tố tồn tại bên trong mỗi con người nó không thể tách rời và nó làm nên sự tồn tại của mỗi chúng ta. + "Hôm nay" - hướng vào hiện tại, anh và em là thế hệ trẻ của đất nước vì thế anh và em phải có trách nhiệm gánh vác, dâng hiến cho đất nước, quê hương. Ở thời điểm hôm nay, đất nước đang bị đe dọa. + "Có một phần" : "Có" là xác định sự sở hữu; "một phần" là một yếu tố, không phải là tất cả Thông điệp mà NKĐ gửi gắm là mỗi người đều sở hữu đất nước nhưng chỉ có một phần từ trong mỗi người thì một cá nhân sẽ không thể có một đất nước toàn vẹn. Vì thế, để có một đất nước toàn vẹn phải có sự hợp nhất từ mọi phần. - Ý thức về trách nhiệm được gắn bó: "Khi hai đứa cầm tay Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất nước vẹn tròn, to lớn." + "Cầm tay" – là một cử chỉ thể hiện mqh thân thiết gắn bó, đó có thể là cử chỉ của tình yêu thương, của tinh thần đoàn kết. + "Khi 2 đứa cầm tay" – là khi anh và em được gắn kết bởi tình yêu lứa đôi, kết quả của sự gắn kết là "đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm" – gợi mqh hòa hợp gợi sự say đắm của tình yêu Đất nước trong nhận thức của NKĐ là đất nước của tình yêu đôi lứa. + "Khi chúng ta cầm tay mọi người" – như thế cá nhân đước gắn kết với cả cộng đồng bằng tình yêu đất nước. Kết quả là đất nước vẹn tròn to lớn: "Vẹn tròn" – hoàn thiện, trọn vẹn; "to lớn" – tầm vóc lớn lao. ● Toàn vẹn hoàn thiện là vì mọi phần của đất nước được hợp nhất lại trong cái nắm tay để đoàn kết gắn bó, chia sẻ, nâng đỡ, khiến tầm vóc lớn lao của đất nước được tạo nên từ đó. ● Là điểm mới trong cách suy tưởng của NKĐ, mới ở chỗ trong cách nhìn của nhà thơ tầm vóc đất nước không chỉ được tạo nên bởi biên giới, lãnh thổ, tiềm lực kinh tế chính trị, quân sự mà tầm vóc đất nước được tạo nên từ tinh thần đoàn kết của mọi cá nhân trong cả cộng đồng. - Niềm tin và khát vọng tương lai: "Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng". + "Mai này" – là thời gian trong tương lai. Hiện tại cuộc chiến đang diễn ra khốc liệt, dữ dội nhất, đây cũng là thời điểm người ta nghĩ về tương lai nhiều nhất vì chính niềm tin và khát vọng tương lai sẽ là động lực tinh thần để nâng đỡ con người, giúp con người có thể đối mặt, vượt qua những thử thách trong hiện tại. Tương lai trong khát vọng hình dung của con người là một tương lai tươi đẹp. + "Con ta" – là kết quả tình yêu của chúng ta. + "Đất nước" – Là kết quả của tình yêu, của tinh thần đoàn kết dân tộc. Khi tình yêu đôi lứa gắn kết, hòa nhập với tình yêu đất nước, nó sẽ tạo thành một động lực thúc đẩy để đưa đất nước vươn lên, hướng tới một tương lai tươi đẹp. + "Sẽ" – Là sự khẳng định chắc chắn và điều được khẳng định chắc chắn ấy sẽ xảy ra trong tương lai. + "Tháng ngày mơ mộng" – là những tháng ngày tươi đẹp. Đặt trong không khí của cuộc chiến tranh, có thể hiểu những tháng ngày tươi đẹp ấy luôn ở trong tâm trí của anh, em, của mọi người là những ngày tháng hòa bình. Thực tế cho thấy khi con người có hi vọng thì con người mới có đủ dũng khí để kiên cường đối mặt với tháng ngày đau khổ. - Ý thức trách nhiệm: "Em ơi em ĐN là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên ĐN muôn đời.." + "ĐN là máu xương của mình" – là nhận thức về đất nước. + "Máu xương" – phần cốt yếu làm nên sự sống của con người, là phần được bảo vệ vẹn toàn để đảm bảo cho sự sống tồn tại vì bất kể sự thương tổn, mất mát nào cũng đều ảnh hưởng trực tiếp tới sự sống cá nhân. + Nói "ĐN là máu xương của mình" – khẳng định đất nước là yếu tố thuộc về, làm nên sự sống của mỗi cá nhân. ĐN là nền tảng nhận thức, tạo đà cho ý thức trách nhiệm, gắn trách nhiệm bảo vệ đất nước với bảo vệ phần sự sống của chính mình. + "Phải biết" – được điệp lại 2 lần như những mệnh lệnh, như một lời thôi thúc, giục giã; như một yêu cầu về sự chuyển biến cần có trong nhận thức. Nếu như chỉ có sự lặp lại của cụm từ này câu thơ sẽ giống như một mệnh lệnh, một khẩu hiệu được áp đặt. Nhưng đặt trong mối liên hệ với cụm từ "em ơi em" thì lời thơ như lời tâm tình trò chuyện, vừa ân cần vừa tha thiết, khiến trách nhiệm bảo vệ đất nước không chỉ là trách nhiệm công dân mà còn là điều thuộc về cuộc sống riêng của mỗi con người. => Trách nhiệm ở đây là sự tự nguyện, tự ý thức xuất phát từ sâu thẳm trái tim. + Trách nhiệm mà tuổi trẻ nhận là: Gắn bó - san sẻ - hóa thân. ● "Gắn bó" – Tự nguyện ràng buộc bằng tình cảm, tình yêu và bằng cả tinh thần trách nhiệm. ● "San sẻ" - là hi sinh dâng hiến phần thuộc về mình. ● "Hóa thân" – là sự hi sinh dâng hiến trọn vẹn, tuyệt đối để sự sống của cá nhân hòa nhập góp phần làm nên sự sống chung của cả đất nước, quê hương. + Tất cả đã làm nên vóc dáng con người, vóc dáng núi sông và sự sống con người, từ đó góp phần làm nên sự sống quê hương đất nước. Khi anh và em biết gắn bó, san sẻ, hóa thân thì chúng ta sẽ làm nên dáng hình xứ sở, làm nên đất nước muôn đời, từ đó nhận thức về đất nước được nâng lên tầm cao mới. + Trong mạch suy tưởng của NKĐ thì đất nước được hình thành từ cuộc sống nhân dân, đất nước còn được tạo thành từ trách nhiệm gắn bó hi sinh từ sự tự nguyện dâng hiến cuộc đời mình ở mỗi cá nhân, mỗi thế hệ; và khi mọi thế hệ đều biết hi sinh dâng hiến phần đời của mình thì chúng ta sẽ làm nên đất nước không chỉ hôm qua, hôm nay và cả sau này. + "Muôn đời" – khẳng định sự trường tồn của đất nước, bộc lộ niềm tin về sự tồn tại vững bền ấy. Niềm tin ấy có cơ sở từ thực tế của những hi sinh dâng hiến hôm nay. - Như vậy, khi NKĐ thể hiện nhận thức tuổi trẻ về đất nước và nhận thức về trách nhiệm đóng góp, hi sinh dâng hiến, để mỗi có nhân đóng góp phần riêng của mình làm nên diện mạo, tầm vóc, giá trị chung cho đất nước. 2 – Tư tưởng Đất Nước của nhân dân: * Lưu ý: - Có 1 điểm gặp gỡ giữa NKĐ với nhà thơ, nhà văn khác khi nói về đất nước đó là sự xác định các yếu tố hợp thành đất nước cũng là từ lịch sử, địa lí, văn hóa và trong mqh gắn bó với con người. - Điểm riêng của NKĐ chính là nhận thức từ chủ thể sở hữu đất nước: + Trong: Nam Quốc sơn hà "của Lý Thường Kiệt chủ thể sở hữu của đất nước là" Đế "(vua). + Trong" Bình Ngô đại cáo "của Nguyễn Trãi chủ thể của đất nước được xác định là các triều đại Phong Kiến. + Các bài văn, thơ đầu thế kỉ XX xác định chủ thể của đất nước là các anh hùng. + Còn NKĐ lại xác định chủ thể của đất nước là nhân dân, và đây là nhận thức gắn với thời đại. Trong suy tưởng của mình, NKĐ cho rằng địa lý là hóa thân của nhân dân; Lịch sử làm nên từ bàn tay của nhân dân; Văn hóa là làm nên từ cuộc sống nhân dân. 2.1 – Địa lý quê hương do cuộc đời nhân dân" hóa thân "để hình thành. - Tác giả dã liệt kê một loạt các địa danh từ núi Vọng phu, hòn Trống Mái, núi Bút non Nghiên, thắng cảnh Hạ Long. Đây là những danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử văn hóa. Gợi nhắc tới những địa danh này, nhà thơ đã cho người đọc hình dung về vẻ đẹp của giang sơn cẩm tú. - Cùng với việc gợi nhắc địa danh nhà thơ cũng đã gợi nhắc tới những câu chuyện cổ, những huyền thoại truyền thuyết, truyện cổ tích gắn liền với địa danh ấy. Những câu chuyện này do nhân dân lao động sáng tạo ra để giải thích sự hình thành, ý nghĩa, tên gọi của những danh lam thắng cảnh ấy. Trong những câu chuyện dân gian, mỗi địa danh lại gắn với một nét riêng trong tinh thần, tâm hồn của con người Việt Nam. Và khi tập hợp những địa danh ấy ta có ở đấy một bức chân dung tâm hồn của dân tộc. => NKĐ đã xác lập mqh gắn bó giữa khung cảnh không gian quê hương đất nước với diện mạo, tâm hồn con người. Như thế khi không gian đất nước được hình thành là khi chân dung tâm hồn được bộc lộ. - Những hình ảnh như núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đã gợi cho ta hình dung về đất nước của tình yêu vừa chung thủy lại vừa thắm thiết. - Hinh ảnh ao đầm từ gót ngựa Thánh Dóng cho ta hình dung về một đất nước kiên cường chống giặc ngoại xâm. - Hình ảnh núi Bút non Nghiên cho ta hình dung về một đất nước tuy nghèo khó nhưng mà hiếu học. - Những cái tên" Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm "gợi ra những bước chân mở cõi của bao thế hệ cha ông ngày trước. Vậy là trong mạch suy tưởng của NKĐ, không gian quê hương không phải do thiên nhiên tạo hóa ưu đãi mà hình thành, không gian đất nước, quê hương được hình thành từ chính cuộc đời, sự sống và tâm hồn con người. - Cái riêng của NKĐ ở chỗ trong câu chuyện dân gian xưa con người hóa thân thành sông núi quê hương có thể có tên, có thể không tên, nhưng trong mạch suy tưởng của NKĐ nhà thơ lại gợi nhắc tới công lao của những con người vô danh bằng một loạt các danh từ chung: Người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo, người dân.. Các danh từ được sử dụng để biểu đạt ý tưởng là những con người vô danh lại làm nên cái hữu danh cho đất nước. - Từ những hóa thân cụ thể NKĐ đưa tới một nhận định có ý nghĩa khái quát chung: " Và ở đâu trên khắp đồng ruộng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.. " + Ở phần đầu nhà thơ đã liệt kê các địa danh cụ thể thì ở đây nhà thơ lại thay bằng" khắp ruộng đồng gò bãi "– đây là không gian gắn với cuộc sống của người lao động. Từ đó tác giả đưa ra khẳng định không chỉ có những danh lam thắng cảnh mới là kết quả của sự hóa thân con người mà bất kì khoảng không gian nào trên khắp đất nước quê hương ta dù hữu danh hay vô danh, dù đã được nhiều người biết đến hay vẫn lặng lẽ tồn tại thì cũng là kết quả sự hóa thân của những con người, của những cuộc đời. + Con người khi hóa thân thành đất nước, quê hương thì con người không phải là tan biến đi như những hạt cát vô danh mà đã để lại dấu ấn về sự tồn tại của mình trong chính hình sông, dáng núi. Vóc dáng núi sông đã mang chứa trong đó cả dáng hình, cả ao ước, cả lối sống ông cha. Như vậy, núi sông, bờ cõi, không gian của đất trời, quê hương là kết quả của 4000 năm bồi đắp hình thành, là kết quả của những hi sinh dâng hiến và là kết quả của những cuộc hóa thân thầm lặng. 2.2 – Lịch sử đất nước do nhân dân tạo ra: -" 4000 năm đất nước "– là cách nói ước lệ quen thuộc, mang âm hưởng trang trọng, chứa đựng trong nó một cảm xúc tự hào, gợi ra cho ta thấy về chiều dài thời gian và bề dày lịch sử của đất nước. -" 4000 năm đất nước "là đối tượng trong câu chuyện tâm tình của anh và em. Lời thơ là lời tâm tình đầy tha thiết của anh với em, anh nói cho em nghe về cái điều cốt lõi, quy luật muôn đời đã tồn tại trong suốt 4000 năm lịch sử. - Quy luật:" Năm tháng nào cũng người người, lớp lớp ". +" năm tháng.. cũng "- gợi sự lặp lại qua mọi thời gian. +" người người, lớp lớp "– gợi hình ảnh đông đảo của một tập thể, sự nối tiếp của một tập thể, gợi liên tưởng tới dòng chảy của sự sống được nối tiếp qua các thế hệ. - Cái cốt lõi làm nên sự sống là" con gái, con trai bằng tuổi chúng ta "- đây là cách nói giản dị nhưng chứa đựng tình cảm sâu sắc của NKĐ + NKĐ không nói là" cha ông ta "bởi cách nói ấy gợi cho người đọc cảm giác ta là người kế thừa hưởng thụ thành quả. +" Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta "– từ sự tương đồng về lứa tuổi, tác giả đã gợi dậy sự tương đồng về ý thức trách nhiệm, lịch sử được tạo nên từ những người" con gái, con trai ". + Nhà thơ không nói" con gái con trai "làm nên lịch sử mà gắn con gái con trai với hoạt động tạo nên dòng chảy sự sống đó là: Cần cù làm lụng lúc hòa bình để xây dựng vun đắp cho đất nước; Ra trận khi có giặc để chiến đấu, bảo vệ cho đất nước-> Đây là điều bất biến trong 4000 năm lịch sử. - Tinh thần chiến đấu:" Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh ". + Tác giả đã vận dụng nguyên vẹn lời thơ dân gian chỉ bổ xung thêm từ" ngày "– để xác định thời điểm cụ thể, từ" thì "- để tạo giọng tự nhiên như trong những câu nói hằng ngày. + Khác với ý thức của các nhà nho phong kiến xưa khi quốc gia lâm nguy thì kẻ thất phu phải có trách nhiệm gánh vác nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, nhưng dân gian lại cho rằng việc bảo vệ tổ quốc là trách nhiệm chung của tất cả mọi người. => Cội nguồn của khí phách anh hùng. - Khẳng định công lao của những anh hùng đã tạo nên lịch sử. + Trước hết nhà thơ đã khẳng định trong công cuộc chống kẻ thù thì nhiều người đã trở thành anh hùng, tác giả đã khẳng định thực tế và thể hiện một niềm tự hào về một đất nước với nhiều người anh hùng, đã tạo nên một đất nước anh hùng không bao giời khuất phục lùi bước trước các thế lực ngoại xâm. + Gợi nhắc anh hùng hữu danh có cả anh và em đều nhớ, tuy nhiên nhà thơ lại không nêu ra một cái tên cụ thể, vì mục đích của NKĐ ở đây không phải là để khẳng định vai trò của những yếu nhân lịch sử mà để khẳng định vai trò công lao của những anh hùng vô danh. + Đó là những người" con gái, con trai bằng ta lứa tuổi ". ●" Con gái, con trai "đem đến một vẻ đẹp bình dị của người anh hùng. Thông thường hình ảnh người anh hùng sẽ mang màu sắc lí tưởng, họ thường xuất hiện với tư thế cao hơn, nhưng NKĐ đã đưa hình ảnh người anh hùng trở về hòa lẫn với cuộc sống đời thường ♣ Anh hùng trong quan niệm của NKĐ không phải là đã lập nên kì tích, mà họ là anh hùng trong cách sống, thái độ sống. Họ lặng lẽ sống, cống hiến như một lẽ tự nhiên" Họ đã sống và chết/ giản dị và bình tâm. "Khi họ hi sinh dâng hiến cuộc sống thì họ đã lặng lẽ làm nên đất nước, làm nên dòng chảy lịch sử dân tộc. 2.3 – Nền văn hóa được hình thành từ chính cuộc sống của nhân dân. - Nhà thơ đã liệt kê hàng loạt yếu tố thuộc về nền văn hóa của nhân dân, của cuộc sống của nhân dân lao động. + Hạt lúa - ngọn lửa - là những giá trị vật chất gắn với nền văn minh lúa nước. + Giọng nói - tên xã - tên làng - là những giá trị tinh thần gắn với nền văn minh làng xã. - Tác giả đã khẳng định chủ thể sáng tạo văn hóa là" họ ": + Từ" họ "được điệp đi điệp lại nhiều lần. +" Họ "là những người con gái con trai bằng tuổi chúng ta, suy rộng ra thì" họ "là tất cả nhân dân. => Nhà thơ đã tạo sự kết hợp thú vị của mật độ động từ" giữ - truyền - gánh - đắp - be "để diễn tả các hoạt động tạo dựng, bồi đắp và chuyển giao những giá trị văn hóa. + Mật độ từ" họ "chỉ nhân dân Cho ta cảm nhận về cuộc chạy đua tiếp sức không ngừng nghỉ của các thế hệ nhân dân để tạo lập, giữ gìn, chuyển giao những giá trị văn hóa. - Trong quá trình ấy nhân dân phải đối mặt với những lực lượng thù địch, đố kị với sự tồn tại và phát triển của nền văn hóa nhân dân. Từ đó tầm văn hóa nhân dân được bộc lộ qua cách ứng xử với từng đối tượng ấy: " Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại " + Ngoại xâm và nội thù là những thế lực thù địch mà sự tồn tại của chúng sẽ làm tổn hại đến những thành quả được đắp bồi trong suốt 4000 năm lịch sử. +" Ngoại xâm "- là lực lượng thù địch đến từ bên ngoài để xâm chiếm cướp bóc. Cách ứng xử của nhân dân ta là" chống ". Từ" chống "thể hiện tinh thần bất khuất, cũng là lựa chọn của một dân tộc yêu hòa bình khi chiến tranh chỉ là giải pháp cuối cùng được lựa chọn để tự bảo vệ. +" Nội thù' - Là lực lượng thù địch hình thành và tồn tại trong lòng dân tộc, sự có mặt của nó sẽ huyr hoại, bào mòn dần sự sống của dân tộc. Cách ứng xử của nhân dân là "vùng lên đánh bại", hành động đó đã thể hiện tinh thần quật cường, và đây cũng là cách phản ứng bắt nguồn từ sức sống mãnh liệt của nhân dân. - Khẳng định chủ thể tư tưởng của toàn bộ đoạn trích: "Để Đất nước này là đất nước nhân dân Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại" + "Đất nước này" - là chỉ đất nước trong hiện tại. Là đất nước cụ thể, là đất nước trong mối quan hệ giữa anh và em. + Trong câu thơ này có 2 lần cụm từ đất nước được đặt trong quan hệ sóng đôi với cụm từ nhân dân, nhưng mỗi kiểu kết hợp nó lại góp phần bộc lộ tư tưởng riêng của NKĐ: ● "Đất nước nhân dân" - là đất nước mang gương mặt dáng hình và tâm hồn nhân dân, là đất nước do cuộc đời nhân dân hóa thân mà thành, được tạo nên từ những đóng góp hi sinh dâng hiến của nhân dân. Đất nước của nhân dân mang tính chất khẳng định sự sở hữu, nhân dân là chủ thể của đất nước. ● Nói "Đất nước của ca dao thần thoại" là để khẳng định đất nước của nhân dân, khẳng định một đất nước được nhìn từ góc nhìn văn hóa. Nhân dân đã sáng tạo ra ca dao thần thoại, sáng tạo một nền văn hóa riêng, và đến lượt mình nền văn hóa ấy góp phần bồi đắp để tạo nên diện mạo tâm hồn cho bao thế hệ. + Trong câu thơ NKĐ đã xây dựng 2 vế song song đồng đẳng: Một là, đất nước của nhân dân; hai là, đất nước của ca dao thần thoại. Nếu tách riêng ra thì cụm từ "đất nước của cao dao thần thoại" là một thách thức đối với sự tiếp nhận của người đọc. Nhưng ta có thể hiểu ca dao thần thoại là sản phẩm của trí tuệ nhân dân. - Ở đây NKĐ đã khéo léo vận dụng hình ảnh từ ngữ trong 3 câu thơ để khẳng định vai trò của nền văn hóa nhân dân: "Dạy anh biết" yêu em từ thuở trong nôi " Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu". + 3 câu ca dao gợi 3 nét riêng trong chân dung tâm hồn người Việt: Say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa, bền bỉ kiên cường trong ý chí chống giặc thù. => Đây là điều anh biết, anh học được từ ca dao thần thoại của nhân dân. - Đoạn thơ khép lại bằng hình ảnh dòng sông: "Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.." + Trong đời sống cộng đồng, dòng sông là dòng chảy không chỉ gắn với thời gian địa lý mà dòng sông còn là nguồn nuôi dưỡng đắp bồi văn hóa. Mõi dòng sông đều hình thành và nuôi dưỡng một nền văn hóa. + "Con sông bắt nước" - là con sông của địa lí vô tri. + Con sông bắt lên câu hát - là khi con người ngân lên những rung động trong tâm hồn. Câu hát trên sông là câu hát của người lao động được cất lên từ đời sống lao động, nó góp phần nuôi dưỡng đắp bồi để tạo sắc màu văn hóa.