[PHONE=] Download: Bấm để xem LỜI MỞ ĐẦU Tên truyện: Huyết Mạch Đại Đế Tác giả: HaiVu2020 Thể loại: Xuyên không Bí sử.. Hậu thế muôn đời tôn kính Quang Trung Nguyễn Huệ - vị hoàng đế thiên tài, người đã khắc tên mình vào lịch sử với những chiến công lẫy lừng làm chấn động cả một thời đại. Thế nhưng, trong những năm tháng bão lửa ấy, còn có một nhân vật khác - một cái tên từng cùng Nhà Vua xông pha nơi trận mạc, chia lửa cùng sơn hà, góp phần viết nên những trang sử huy hoàng thay đổi vận mệnh đất nước. Đây là bản thiên anh hùng ca chưa từng được kể - về những con người phi thường, và những bí mật bị chôn giấu trong lớp bụi thời gian, giờ đây đang dần được hé lộ.. Cuối thế kỷ XVIII - một quốc gia trụ vững, phát triển vượt bậc giữa phong ba bão táp của thời đại; những chiến thắng long trời lở đất, những trận chiến vang dội non sông, những cuộc đấu trí trên chiến địa và chốn hoàng cung chưa từng có tiền lệ.. Một bí sử. Một thiên anh hùng ca. Một vầng hào quang chưa từng lụi tắt.. Để rồi, Nhân dân đời đời tạc dạ ghi ơn.. Và trao tặng họ một danh xưng thiêng liêng, cao quý nhất.. Tác Giả: HAIVU2020 Số Tài Khoản: 0441003690728 - VIETCOMBANK Điện thoại: 0931150684 [/PHONE]
Chương 1. Huyết Long Quy Tông Thành phố Hồ Chí Minh những ngày tháng tư oai hùng kỷ niệm 50 năm Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày non sông liền một dải. Cơn mưa đầu mùa lất phất rơi, như muốn gột rửa bụi thời gian trên những đại lộ từng chứng kiến đoàn quân chiến thắng tiến về Dinh Độc Lập năm nào. Ánh đèn hòa với quốc kỳ rực rỡ giăng đầy đường tạo nên một khung cảnh vừa thiêng liêng, vừa tráng lệ. Giữa lòng đô thị sầm uất đang hòa vào bản anh hùng ca ấy, trong một đêm mưa, đèn đường vàng vọt hắt lên khuôn mặt người thanh niên đang cặm cụi bên giá gỗ cũ, giữa một căn phòng nhỏ chất đầy sách sử, bản đồ cổ và những món đồ lưu truyền từ thời Tây Sơn. Nguyễn Minh, tân thủ khoa trẻ tuổi Đại học Bách khoa TPHCM và Học viện kỹ thuật quân sự, nổi tiếng trong thế hệ thanh niên đương thời với lòng yêu nước nồng nàn, khả năng kỹ thuật, chế tạo cơ khí, vũ khí và thành danh từ rất sớm trong giới nghiên cứu lịch sử nhờ thành tích học tập, nghiên cứu thực tiễn cùng trí nhớ siêu phàm, khả năng đọc hiểu Hán Nôm và niềm đam mê bất tận với triều đại Tây Sơn. Trong suốt những năm tháng tuổi trẻ, Nguyễn Minh luôn khao khát đi tìm lời giải cho một giấc mộng không tên của chính mình.. Nhiều năm liên tiếp, cậu thường mơ thấy mình đứng giữa trận tiền lửa khói, bên một người mặc chiến bào vàng, ánh mắt như lửa, giọng nói vang dội như sấm dội giữa non sông: "Con là máu thịt của ta. Đại Việt này, phải có người giữ lấy hồn non nước" Giấc mơ kỳ lạ đến ám ảnh, không có lời giải, không ai hiểu được.. Cụ nội Minh từng là một thầy đồ ẩn cư vùng Nghệ An, người duy nhất trong dòng họ giữ một bí mật lớn. Trước khi mất, ông đã trao cho Minh một chiếc tráp gỗ mun bọc đồng, kèm lời dặn nghiêm cẩn: "Hãy mở nó khi trời nổi sấm mà không mưa, vào giờ tý đúng ngày Rằm tháng Giêng." Ông mất ngay hôm sau. Chiếc tráp được niêm kín suốt mười năm. Minh chưa bao giờ dám mở. Năm đó, khi Minh vừa tròn 18 tuổi - tuổi trẻ với bao hoài bão và ước mơ, trời cũng nổi sấm giữa đêm rằm. Không mưa. Gió lặng. Đồng hồ chỉ đúng 23 giờ 45. Minh run tay mở tráp. Bên trong là ba món vật kỳ lạ :(1) Một miếng ngọc bội khắc chữ "Quang", cũ kỹ nhưng còn linh khí. (2) Một lá cờ nhỏ màu đỏ, thêu ngôi sao bằng chỉ vàng, nếp gấp còn nguyên. (3) Một bức thư viết bằng mực son, đã nhòe nửa chữ, nhưng vẫn đọc được hàng đầu. "Nếu con là huyết mạch nhà ta, hãy nhớ: Nơi ngươi rơi xuống, là nơi tổ phụ ngươi từng khởi binh. Ngọc bội là tín vật. Cờ đỏ là hồn quân dân. Huyết mạch ta sẽ quay lại." Ngay lúc đó, một tia sét xé ngang bầu trời, ánh sáng trắng xóa bao trùm căn phòng. Vị thanh niên trẻ tuổi giật mình ngẩng lên. Trong thoáng chốc, cậu thấy cả bầu trời Phú Xuân đỏ lửa hiện lên sau lưng mình. "Vị hoàng tử tài hoa nhất của Quang Trung hoàng đế không bao giờ chết. Người chỉ hòa quyện vào nhân dân" lời cụ nội năm xưa vang lên. Tay Minh vô tình chạm vào ngọc bội. Một tiếng nổ vang lên. Ánh sáng chói lòa. Tất cả xoay cuồng. Minh choàng tỉnh, trái tim đập thình thịch như trống trận. Anh chống tay ngồi dậy, tay vẫn còn run run vì cảm giác rơi xuyên qua một cơn lốc ánh sáng. Mùi khét lẹt của thuốc súng, tro bụi ngai ngái quện với hương cỏ dại bị giẫm nát dưới gót giày, mọi thứ đều thật.. thật quá mức. Anh ngẩng đầu nhìn cổng thành đồ sộ sừng sững trước mặt - không phải bê tông, không phải thép - mà là đất nung, từng viên một, được nén chắc thủ công như trong sách lịch sử. Hai tên lính đứng gác cau mày nhìn anh, áo giáp vải nhuộm chàm, tay lăm lăm trường thương, dáng dấp hệt như bước ra từ tranh cổ. Minh lắp bắp: - Chuyện gì đang diễn ra vậy? Đây là đâu? Ánh mắt anh dừng lại trên lá cờ đang tung bay phần phật trong gió - nền đỏ rực, chính giữa thêu hình trống đồng.. chắc chắn là cờ hiệu của Tây Sơn. Tim anh như ngừng đập. - Không thể nào.. Cờ Tây Sơn? Anh thở gấp, đưa tay sờ túi quần áo - vẫn còn chiếc điện thoại đã tắt ngúm và một số đồ vật anh mang theo.. Một người đàn ông râu quai nón, áo trận bạc màu, nhìn Minh sững sờ: - Ngươi là ai? Sao mang cờ quân kỳ Hoàng gia Tây Sơn ta? Minh chưa kịp trả lời, người lính đã rút dao, kéo tay áo cậu lên - và sững sờ khi thấy miếng vải thêu hình rồng giắt ở cổ tay. - Trời ơi.. kim lệnh của Hoàng tử Nguyễn Quang Minh? Minh giật mình: Quang Minh? Người trong mộng.. cũng tên ấy. Người lính lặng người, rồi quỳ sụp: – Thần là hộ vệ cũ của Hoàng tử Quang Minh. Trước khi mất tích, người từng truyền: "Một ngày nào đó, ta sẽ về giữa lửa chiến. Huyết mạch tương thông. Kim Long hiện ra, ngày ta trở lại". Dao rút. Máu chảy. Trên miếng ngọc bội "Quang", tia sáng đỏ bùng lên. Vết rồng hiện rõ, lấp lánh như máu chảy. Gió bỗng nổi lên. Cờ phần phật. Lính hai bên quỳ rạp xuống đất. Từ xa, một giọng trầm hùng vang lên: "Đem về. Bệ hạ đang đợi. Gió xưa đã trở lại.." Mùa xuân năm Kỷ Dậu - 1789 Gió Lào vẫn cuộn mình qua những dãy núi bạc màu miền Trung, thổi tràn hơi nóng chiến thắng vào lòng đất Đại Việt. Trận Ngọc Hồi – Đống Đa vừa qua, máu quân Thanh còn chưa kịp se trên cỏ Bắc Thành, xương giặc chất thành đồi, gươm Việt nhuốm đỏ trời xuân. Tiếng trống trận, tiếng quân reo vẫn văng vẳng trong gió, như nhắc nhở thiên hạ rằng Tây Sơn là trời, Tây Sơn là đất, Tây Sơn là khí phách non sông. Nhưng khi giang sơn tạm ngưng tiếng binh đao, ngay giữa chính điện Phú Xuân - thủ phủ mới của vương triều Tây Sơn - một cơn sóng ngầm khác lại nổi lên. Một biến động âm thầm mà dữ dội, khiến cả triều đình bàng hoàng, khiến lòng người chao đảo, khiến ngay cả những tướng tài dạn dày trận mạc cũng phải lặng người sững sờ.. Bấy giờ, Quang Trung hoàng đế ngự giữa ngai vàng sơn son thếp vàng, tay cầm ngọc ấn, áo bào uy nghiêm. Quần thần chầu chực đông đủ: Bên trái là Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Tuyết.. bên phải là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích.. và cả những học sĩ mới tiến cử sau chiến thắng vang vọng núi sông. Chàng trai trẻ tài hoa Nguyễn Minh, tuổi vừa tròn 18, tóc đen như mực, ánh mắt như gương cổ trầm. Mang theo một bọc gấm đỏ, bên trong là những vật rất kỳ lạ: Một ngọc bội hình rồng khắc chữ "Quang"; Một thanh "Thiết hỏa trảo" - vật như ống đồng, có cơ quan phát ra âm thanh chấn động; Một tấm "Hộ tâm chú cơ" -miếng kim loại mỏng đeo ngực, trơn như gương đá. Hoàng đế Quang Trung đích thân truyền vào điện. Lần đầu tiên được diện kiến Quang Trung hoàng đế, Nguyễn Minh gần như nín thở. Đó không còn là vị vua trên trang sử, cũng không phải nhân vật trong những giấc mơ cháy bỏng thuở thiếu thời - mà là một con người bằng xương bằng thịt, đầy khí phách lẫm liệt, đôi mắt thâm sâu như chứa cả linh hồn của non sông, ngọn lửa chưa từng tắt của dân tộc. Ngài cao lớn, bệ vệ hơn Minh từng tưởng tượng, dáng vẻ uy nghi khiến cả gian điện như lặng đi khi vua cất bước. Ánh mắt ấy - ánh mắt từng nhìn thẳng vào quân Thanh mà không run sợ nay đang nhìn Minh, ấm mà nghiêm, lạnh mà sáng như thép tôi. Trong khoảnh khắc ấy, Nguyễn Minh bất giác thấy lòng mình dâng trào: Là tự hào, là run sợ, là cảm xúc của người hậu thế gặp lại người cha thiêng liêng của cả một thời đại. Cậu quỳ xuống, trán chạm đất, giọng nghẹn lại: - Tâu.. Bệ hạ.. Chỉ hai chữ ấy thôi, nhưng cả tâm can Minh như vỡ ra. Trước mặt cậu là người từng làm nên trận Ngọc Hồi – Đống Đa lẫy lừng, người gầy dựng cả một triều đại từ tro tàn, người đã gieo vào sử Việt một thời khắc huy hoàng. Trước vị quân vương ấy, lòng ngưỡng mộ của cậu thật như suối nguồn dâng trào không thể ngăn. Cậu thấy mình nhỏ bé trước ánh mắt ấy, nhưng cũng thấy mình được nâng đỡ bởi chính sự hiện diện của người. Người là Quang Trung Hoàng đế vĩ đại. Là gốc rễ. Là hồn thiêng của đất Việt. Ngay khi truyền nhận ngọc bội, nét mặt vua biến sắc.. - Đây là ngọc tổ ta từng giao cho Quang Minh trước lúc Bắc tiến.. Ngài không vội kết luận. Chậm rãi, rút đao, chỉ vào ngực mình: - Ta cắt máu. Ngươi cũng vậy. Nếu là huyết mạch của Trẫm, trời đất tự có an bài, ngọc kia sẽ sáng. Cả triều nín thở. Nhà vua và Nguyễn Minh cùng cắt máu, nhỏ lên ngọc bội "Quang". Ngọc phát sáng, phun ra khói đỏ hình rồng, vút lên nóc điện, khiến cờ Tây Sơn tung bay, trống trận tự đập liên hồi.. Tiếp theo, vua lấy từng vật: Ấn đồng mặt trời: Nhỏ máu Minh - không phát hiện gì. Nhỏ máu nhà vua - không gì. Khi cả hai máu cùng nhỏ, ấn nóng dần, rực sáng như mặt trời non. Thiết hỏa trảo: Khi vua chạm tay, phát ra tiếng ngân. Khi Minh chạm tay, nó tự động khởi cơ, phát ánh chớp đỏ. Hộ tâm chú cơ: Khi đặt lên ngực Minh, máu từ tay nhỏ xuống, vật rung nhẹ, hiện mờ mờ hình long văn. Ngô Thì Nhậm khẽ thốt: Đây là mệnh trời. Quang Trung nghẹn giọng: - Huyết thống của trẫm, hoàng nhi Quang Minh.. trở về rồi. Ngài đỡ Minh đứng dậy, không để quỳ nữa. Dắt Minh ra điện lớn. Văn thần võ tướng đồng loạt xôn xao. Tiếng quạt phấp phới, tiếng xích giáp va nhau lách cách. Lý Văn Bưu nắm chặt chuôi đao, Võ Văn Dũng nheo mắt nhìn thiếu niên nọ không chớp mắt. Riêng Trần Quang Diệu khẽ rùng mình: Đôi mắt của vị thiếu niên này.. quá giống một người mà ông từng biết từ thuở dựng cờ khởi nghĩa.. - Ai nghi ngờ, hãy đích thân thử thách Minh nhi của Trẫm, Nhà vua quả quyết Võ Văn Dũng - giáo dài 9 thước, thân pháp mãnh hổ Dũng vung giáo múa như gió. Minh chỉ đứng tĩnh, tay cầm "Thiết hỏa trảo". Khi Dũng lao tới, chàng bóp cò - tiếng nổ vang rền, đầu giáo vỡ vụn. Võ Văn Dũng cười lớn: Thắng! Dù không phải sức tay, nhưng khí giới này thần diệu, lòng ta phục! Trần Quang Diệu - đoản đao, tốc độ như ảnh Diệu thử chém ba đường vào "Hộ tâm chú cơ". Âm thanh như đập vào đá. Không vết trầy. Minh không phản công, chỉ nhích nhẹ tay, đấm một quyền - Diệu trượt chân lùi ba bước. - Kình lực kinh người. Không phải đồ chơi. Người này.. có căn cơ! Nguyễn Văn Tuyết - song chùy Tuyết tung hai chùy cùng lúc. Minh luồn người, bắn "Thiết hỏa trảo" vào chùy bên phải. Chùy gãy cán. Tay trái Minh chém ngược, bắn tia lửa làm chùy còn lại văng khỏi tay Tuyết. - Thất bại! Nhưng vui lòng bại bởi kẻ như thế. Nguyễn Văn Lộc - quyền pháp, Phạm Công Hưng - kiếm, Ngô Văn Sở - phi tiêu Ba người cùng hợp công. Minh ẩn người, bật lên không, bắn hỏa trảo ba phát: Một xuyên mũ của Lộc Một làm Hưng rơi kiếm Một phá phi tiêu của Sở giữa không trung Ba người quỳ: Chúng thần thất bại. Người ấy, quả là thiên nhân. Ngô Thì Nhậm: Đề thơ "Thế nước - lòng dân". Minh ngâm: "Một giọt máu rơi, đất gọi tên Gươm cha chém giặc, cháu giữ đền Trời Nam mấy độ hồn sông núi Nay hỏi ta: Ai sẽ kế nên?" Nhậm rơi lệ: Thơ ít chữ, mà khí lớn hơn ngàn sách. Giữa chính điện Cần Chánh, sau khoảnh khắc bội ngọc được giơ cao, không khí như đông đặc lại. Quần thần chưa kịp hoàn hồn sau màn ứng chiến của Nguyễn Minh thì một tiếng động vang lên: Bệ rồng phát ra âm vang trầm đục, như tiếng sấm vọng về từ trận Ngọc Hồi - Đống Đa. Quang Trung - vị Hoàng đế từng một tay khuynh đảo sơn hà - đứng dậy. Tấm hoàng bào xô nhẹ theo bước chân ông khi rời ngai vàng, đi xuống từng bậc thềm đá rồng. Ánh mắt của Ngài không còn là cái nhìn của một đế vương, mà là ánh nhìn của một người cha - đã chờ mòn mỏi giữa giông tố chính trị và chiến tranh - cuối cùng cũng thấy giọt máu của mình đứng đó, bằng xương bằng thịt. Ngài tiến lên, ánh mắt rực lửa, giọng khản lại: - Là.. là Quang Minh của Trẫm đó sao? - Không.. không thể nào.. Nhưng.. khí chất ấy, đôi mắt ấy.. - Trẫm tưởng đã mất con vĩnh viễn.. - Hay là ông trời đưa con trở về, để cùng Trẫm thống nhất sơn hà? Quang Trung bước xuống thềm điện, ánh mắt nhìn chằm chằm vào chàng thanh niên quỳ trước mặt. Gương mặt ấy, đôi mắt ấy.. bao năm qua tưởng đã chìm trong dĩ vãng. Giọng ông trầm xuống, nhưng ấm áp như tiếng đất mẹ vang vọng giữa mùa xuân năm Kỷ Dậu: - Là con.. thật rồi sao? Quang Minh của Trẫm.. Quang Trung đứng lặng một lúc, rồi bước tới, bàn tay chai sạn của người từng cầm kiếm, cầm cờ đánh dẹp thiên hạ giờ đây run nhẹ khi chạm vào vai con trai mình. Ông cười khẽ, ánh mắt sáng rực như ngày chiến thắng: - Hoàng nhi của Trẫm mới vài năm đã rắn rỏi thế này rồi.. Khi xưa còn là thiếu niên lém lỉnh, thiên tư mẫn tuệ, nay đã là tráng sĩ rồi, vai mang chí lớn, mắt có thần quang. Ông siết nhẹ vai Minh, vừa tự hào, vừa xúc động: Ngài bước đến bên thiếu niên, bàn tay run lên nhưng vẫn rắn rỏi đặt lên vai hắn. Rồi quay mặt lại, nhìn toàn thể triều thần, giọng dội vang như chuông đồng giữa núi sông: - "Đây chính là nhi tử của Trẫm - huyết mạch chân truyền của Tây Sơn ta!" Nguyễn Minh ngẩng mặt lên, mắt hoe đỏ nhưng vững chãi: - Phụ hoàng.. Một làn gió bất ngờ thổi qua, phất tung những lá cờ long vân treo dọc hai bên điện, vẽ nên cảnh tượng vừa trang nghiêm vừa kỳ vĩ. Các đại thần sững sờ, ánh mắt như ngưng đọng trong khoảnh khắc. Võ Văn Dũng là người đầu tiên quỳ xuống, tấu lên lời chúc tụng. Rồi kế tiếp là Lý Văn Bưu, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Lê Văn Hưng, Võ Đình Tú, Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích.. Từng người một, tất cả đều đồng loạt cúi đầu sát đất, như thể trước mặt họ, một vì sao mới đang rực sáng giữa bầu trời phương Nam. Thế nhưng, trong ánh mắt cúi thấp ấy, xen lẫn những tia sáng kính phục và nguyện trung, vẫn lấp ló những bóng tối ngờ vực, bàng hoàng. Có người, dù đã khuất phục hình thức, trong lòng vẫn chưa hoàn toàn quy phục. Cơn gió ngoài điện dường như cũng cuốn theo những tâm tư rối bời ấy, vần vũ không tan Quang Trung ngẩng cao đầu, mắt lấp lánh như thanh gươm vừa rút khỏi vỏ, rực sáng giữa chính khí: - "Từ nay, Minh nhi sẽ ngồi cùng Trẫm và các quân cơ đại thần, cùng nghị chính bàn mưu định quốc!" Tiếng hô "Vạn tuế!" vang dội khắp đại điện. Trên cao, trống đồng ngân lên ba hồi, như chính tổ tiên Lạc Hồng cũng đang thức tỉnh chứng giám cho huyết mạch đế vương. Và từ giây phút ấy, vận mệnh nước Việt đã bước sang một trang mới - một chương sử viết bằng máu, trí lực và tình phụ tử thiêng liêng dưới bóng cờ đào. Tối hôm ấy, Hoàng đế Quang Trung cùng Nguyễn Minh ngồi lặng trong Ngự thư phòng, ánh mắt nhà Vua trầm như biển sâu. Một cảm giác lạ lùng trỗi dậy trong lòng, Ngài truyền lệnh mở "Ngự Thư Các", nơi cất giữ các sớ tấu cũ từng bị niêm phong. Bên trong, một tập bản án dày cộm, phong kín bằng lụa nâu, đề dòng chữ nhỏ đã bạc màu: "Án thất truyền về Quang Minh Hoàng tử - Bắc Bình Vương phủ, năm 1786." Ngài mở ra. Từng trang, từng dòng máu chữ, từng dấu triện đóng tội như gào thét xuyên qua năm tháng: "Quang Minh Hoàng tử bị bắt giữ vì tội mưu nghịch. Sở hữu vật kỳ dị, mang tâm cải cách, bất hợp lòng người, lòng dân.. Có kẻ mật báo, tâu cáo. Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc ban chiếu: Tử hình trong đêm. Thi hành ngay lập tức." Cuối tập, bút tích viết vội bằng máu của Quang Minh run rẩy mà quyết liệt: "Nhi thần thực sự oan uổng. Thần chỉ mong non sông thống nhất, đổi mới cơ đồ. Nếu đời sau ai giữ được vật này, gặp huyết thống chân long, xin đừng bỏ qua.." Hoàng đế Quang Trung đứng bật dậy, mắt rực lửa. Ta không hề hay biết Hoàng huynh tự ý hạ chiếu giết Minh nhi của Trẫm! Lúc ấy Trẫm còn đang thân chinh Bắc Hà, đâu hay bọn gian thần đã mượn tay Hoàng huynh hãm hại giọt máu của Trẫm! Ngài siết nắm tay, giọng nặng như tiếng sấm trầm: Minh nhi.. Ngươi là huyết thống chính danh của Trẫm, là người Trẫm gửi gắm cả kỳ vọng đổi mới giang sơn, thế mà lại bị hủy diệt bởi lòng tiểu nhân hèn hạ. Nay ngươi trở về, chính là trời xanh trả lại công bằng cho non sông gấm vóc này! Ánh đuốc trong Ngự thư phòng bập bùng, bóng Quang Trung đổ dài trên nền đá lạnh. Nhà vua đứng lặng hồi lâu, mắt nhìn Nguyễn Minh – đứa con từng tưởng đã vĩnh viễn lìa xa - đang quỳ trước mặt, thân thể còn vương bụi đường thiên lý. Giọng Quang Trung chìm xuống, như tiếng đá vỡ nát trong lòng đất: Quang Minh.. Hoàng nhi có biết, chỉ vì mất liên lạc với mẫu tử con năm ấy mà năm 1787 thiên hạ nhà Tây Sơn ta nghiêng ngả! Ngài bước tới, tay run run siết chặt. Năm 1786, Bắc Bình Vương ta thân chinh Thăng Long, vạn dặm gươm giáo, một lòng mưu đại nghiệp nhất thống. Khi ấy, mẫu tử con lưu lại Phú Xuân dưỡng bệnh. Nào ngờ, bọn gian thần nhân Trẫm vắng mặt, ngầm xu nịnh Hoàng huynh, gièm pha rằng Minh nhi nuôi chí tạo phản.. Nhà vua ngẩng đầu, cười lạnh, ánh mắt như đốt cháy trời cao: Chỉ một đạo chiếu vô tình, Minh nhi của Trẫm từ một ánh sao hy vọng biến thành "tội nhân" trời đất không dung, bao gia quyến tướng sĩ cũng chịu họa lây, nhà tan cửa nát. Trẫm hồi kinh, nghe tin dữ, suýt nổi điên trước sân triều! Nguyễn Minh lặng người, tay nắm chặt vạt áo, nghe từng lời như máu nhỏ vào tim. Quang Trung Hoàng đế chậm rãi ngồi xuống trước mặt con, mắt đỏ hoe: Giữa năm 1787, Trẫm không nhẫn nhịn được nữa. Đã hạ hịch khắp thiên hạ, tập kết Ngũ Hổ tướng cùng mười vạn binh Tây Sơn, phát binh Nam tiến vây thành Quy Nhơn. Ngoài mặt lấy cớ đòi lại gia quyến cho tướng sĩ, nhưng trong lòng Trẫm.. Trẫm chỉ vì Minh nhi yêu dấu, vì mẫu tử con.. Ngươi có hiểu chăng? Ngài siết chặt tay Minh, lời thề như vang vọng cả đất trời: Trẫm từng mất con một lần. Nay trời cho Minh nhi trở lại. Hãy thề trước linh hồn tổ tông: Lật lại huyết án năm xưa, trả lại thanh danh cho người đã vì nước nhà hy sinh oan khuất, chấn hưng triều chính! Nguyễn Minh quỳ sụp xuống, dập đầu ba lần, giọng kiên quyết như khắc vào đá: Nhi thần xin thề trước mặt phụ hoàng, trước tổ tiên, trước non sông Đại Việt: Thề đem ánh sáng di vật tổ truyền soi đường cứu nước, thề viết tiếp huyết mạch Quang Trung vĩ đại vào sử xanh ngàn đời! Tiếng gió rít qua Hoàng thành. Cờ đào Tây Sơn cuồn cuộn như mây đỏ. Trời cao không mưa mà rơi giọt máu - như chứng giám điều thiêng liêng kỳ diệu của tạo hóa. Trong ánh sáng chập chờn của những ánh nến hoàng cung, Hoàng đế Quang Trung trải tay lên bản án cũ của Quang Minh - nét chữ của người con từng được ngài xem là Tiểu Gia Cát, "phượng hoàng kế tục". Mắt ngài rực lên, nhưng trong đó là cả ngàn cơn sóng đổ về từ ký ức. - Hoàng nhi.. Con là ánh sáng của một thời ta giấu kính trong lòng. Nguyễn Minh đứng lặng. Lần đầu tiên, nhà vua ngậm ngùi.. "Năm ta mười bảy tuổi, còn là vị tướng trẻ Nguyễn Huệ xông pha trận mạc. Khi đại quân dừng chân ở Nghệ An, có một người con gái tên Hoàng Thu Nguyệt, vốn dòng dõi Nho gia, biết văn biết y, khéo trị binh lương. Gặp nhau một đêm trăng trên bến sông Lam, ta đọc thơ, nàng đối ẩm " Ngàn trùng vẫy gió quân đi mãi, Một thoáng trăng ngà lối hẹn xưa. " " Rồi Nam chinh Bắc chiến cuốn Trẫm đi. Khi ta dẹp xong loạn Bắc Hà, nàng đã mất. Chỉ để lại một hoàng tử tài ba cho Trẫm - đó chính là con, Nguyễn Quang Minh " Nhà vua nghẹn ngào. Tay siết chặt lá thư cũ mà Quang Minh từng gửi về trước lúc chết: Phụ vương, nếu có kiếp sau, con nguyện được làm cỏ lau hiếu kính Người, để giữ gió, giữ nắng, giữ lời thề viết tiếp giấc mộng nước mạnh, dân cường." Hoàng đế siết tay Minh: - Hài nhi, con giống ta đến kinh người. Đôi mắt ấy, trán ấy, cách nói ấy.. Đều là của tiên tổ, đều là.. chính ta. Minh nghẹn ngào, một giọt nước mắt không kìm nổi lăn trên má: - Vậy.. trí tuệ, thơ văn, võ nghệ, khả năng nhìn trận đồ như mộng.. là huyết mạch chính thống của Bệ hạ? Nhà vua gật đầu chậm rãi - Thời niên thiếu, con giỏi cả chế tạo binh khí, tính được thời tiết theo sao trời, và từng soạn ra "Quốc lược tân thư" - sách cải cách khiến triều thần kinh sợ.. - Nhưng chính vì vậy mà bị đố kỵ? - Phải, sợ Quang Minh nhà ta chiếm thế thượng phong nên có kẻ đã tấu báo xin Hoàng huynh ta, rồi hạ độc giết đi, phao là "thân vong nơi loạn binh". Ta khi trở về, chỉ thấy tấm áo trận dính máu.. Hoàng đế lấy ra từ rương gấm một thanh gươm ngắn, chuôi khắc hai chữ "Hoàng mệnh". - Nay ta giao lại con. Con là truyền nhân huyết mạch tiên rồng. Hãy dọn sạch bóng tối vây kín Tây Sơn ta. Nguyễn Minh nâng gươm, dập đầu: - Vì Quang Trung đại đế vĩ đại. Vì Đại Việt, nhi thần tuân mệnh. Gió đêm se lạnh. Trên ngọn đồi phía nam ngoại thành Phú Xuân, một mình trong căn phòng tĩnh lặng, chàng trai trẻ mặc áo vải nâu, ánh mắt trầm mặc, đang ngồi lặng trước chiếc rương cổ vừa mở. Máu trong người như sôi lên, từng mạch nghẹn lại. Minh ngẩng lên, mắt nhìn về phương Bắc. Ánh sao lấp lánh như rọi xuống một khúc sử thi đã bị lãng quên. Lồng ngực chàng tràn đầy một cảm giác chưa từng có: Sự thức tỉnh của huyết thống, huyết thống Lạc Hồng. - "Là ta, ta chính là truyền nhân của Nguyễn Quang Minh, vị hoàng tử được vua Quang Trung yêu quý nhất, và chính ta là huyết mạch chân chính của Quang Trung Đại Đế vĩ đại". Tiếng nói ấy bật ra như sấm giữa lòng chàng. Bao nhiêu mảnh vụn trong đời bỗng ghép lại: Lời dặn của ông nội, bài thơ khắc trên ngọc, giấc mộng lập quốc kỳ lạ trong tiềm thức.. Chàng đứng dậy, tay nắm chặt mảnh ngọc và phong thư, ánh mắt kiên định - Nếu thiên mệnh gọi ta trở về.. Vậy thì, xin cho ta được làm rực sáng nước Nam này, để mỗi tấc đất, mỗi dòng sông, mỗi hơi thở của giang sơn đều khắc ghi tên Quang Trung Đại đế trong huyết mạch lịch sử. Minh quỳ xuống bên rương cổ, nơi ánh đèn dầu vừa bùng lên rồi lặng lẽ lay động theo gió. Mảnh ngọc tổ tiên lạnh buốt trong tay, như nhịp tim của một quá khứ chưa yên giấc. Minh nhắm mắt. Từ sâu trong lòng, một cơn giận cuộn trào. Không phải giận cho mình, mà giận cho huyết mạch đã bị vùi lấp trong hỗn mang thời cuộc, cho một vị hoàng tử từng được yêu quý nhất - Nguyễn Quang Minh - bị lịch sử nuốt chửng trong bóng tối, chỉ còn vài dòng mơ hồ trong ghi chép của đám loạn thần. Chàng đứng dậy, mắt đỏ rực, giọng trầm như lời nguyền: - Ta xin thề trước anh linh Lạc Hồng: Sẽ truy cùng ngọn gió, lật cả trang sử đã bị che đậy! Huyết án năm xưa, vì sao Hoàng tử Quang Minh mất tích? Ai là kẻ đã khiến huyết mạch Tây Sơn bị mất đi một tài năng? Nếu mảnh ngọc và ấn tín này thật sự được truyền đến tay ta.. thì nghĩa là lúc đó Ngài chưa chết, được cứu thoát. Hoặc.. hậu nhân của ngài đã kịp ẩn thân thoát nạn? Gió đêm rít lên, như tiếng gào của linh hồn cổ sử vọng về. Minh đưa mảnh ngọc lên trời cao: "Dù ta đang mang thân phận của Nguyễn Quang Minh - đứa con mà vua Quang Trung tin là trở lại - Thì chính ta sẽ thay Hoàng tử ấy, tức đấng tiên tổ chính dòng của ta, đi tìm sự thật" - "Cho lịch sử một lần được phán quyết bằng máu và chính nghĩa! Cho nước Nam ta một lần nữa đứng thẳng giữa đất trời" Một tia chớp rạch ngang trời. Ngọn đèn bùng sáng rực rỡ như một đốm lửa thánh thiêng. Và giữa ánh sáng chói lòa, Minh siết chặt tay, lòng đã không còn đường lùi.. Gió nổi lên, cuốn tung bụi thời gian. Trong đêm, ngọn đèn dầu bừng sáng như ánh sao chiếu xuống kẻ mang chân mệnh đế vương vừa thức tỉnh.
Chương 2. Kỳ Tài Xuất Thế, Văn Võ Khuynh Thành Kỷ Dậu 1789, hừng đông nhuộm đỏ mặt sông Hương như máu của bao anh hùng từng đổ xuống nơi này. Từ đầu tháng mười hai, khắp kinh thành treo đèn kết hoa, cờ quạt giăng đầy phố lớn. Các đội thợ khéo tay dựng lầu bát giác bên bờ sông Hương, lập đàn tế trời đất tại điện Thái Hòa, chuẩn bị cho Tết Nguyên Đán. Người người tấp nập, quân lính chỉnh tề thao diễn ngoài thành, trống đồng dập dồn ngày đêm, rộn ràng như hội lớn. Chỉ một năm trước đó, trong những ngày giáp Tết, Quang Trung Hoàng đế thân chinh Bắc tiến, đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh chỉ trong vài ngày. Trận Ngọc Hồi, trận Đống Đa.. đã trở thành huyền thoại lừng lẫy cõi trời Đại Việt. Tiếng vó ngựa chiến từ Phú Xuân ra đến tận biên giới, làm run rẩy cả phương Bắc. Nay, xuân lại về. Nhưng không còn loạn binh, chẳng còn tiếng trống gọi quân. Thay vào đó là tiếng trống hội, tiếng hò reo đón Tết cổ truyền, tiếng pháo nổ ran dưới ánh nắng vàng óng của sông Hương, sông Cầu, sông Lam.. Từ Nghệ Tĩnh đến Thuận Hóa, từ Bắc Thành đến Quy Nhơn, người người dựng nêu, gói bánh, tắm nước lá mùi, quét sạch bàn thờ tổ tiên. Các làng quê treo tranh vẽ chiến trận Ngọc Hồi - nơi "Quang Trung cưỡi voi phá giặc", trẻ con tụng câu vè: "Một xuân Quang Trung dẹp giặc Thanh, Ngàn năm non nước rạng trời xanh.." Tại Phú Xuân, triều đình tổ chức Lễ hội xuân 1790 vui cùng nhân dân cả nước với tinh thần "Trường ca chiến thắng". Khắp núi rừng Đại Việt, từ thượng nguồn Tam Đảo đến dãy Trường Sơn hùng vĩ, tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng trống đồng như vọng về một thời đại mới. Một thời đại mà dân tộc không còn bị giày xéo, nhân dân không còn bị gọi là man di mọi rợ, tên tuổi Đại Việt được sánh ngang cùng thiên triều - không còn cúi đầu, chỉ ngẩng cao đầu như rồng bay giữa trời xuân. Trên bức chiếu thư ban hành đầu năm 1790, vua Quang Trung viết: "Xuân nay, trời Nam yên ổn, lòng người thống nhất. Khí thiêng núi sông đã tụ. Từ đây, con cháu ngàn đời phải giữ lấy, Trẫm ban chỉ tổ chức kỳ thi xuân tuyển chọn người tài giúp dân, giúp nước" Phải nói thêm xuân năm nay 1790, khắp thành Phú Xuân, hoa đào hoa mai nở rộ hơn như hát vang bài ca chiến thắng của dân tộc Việt. Bên trong điện Thái Hòa, tiếng trống đồng trầm hùng vẫn còn âm vang chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa năm nào. Thế nhưng, trong lòng các bậc văn thần võ tướng Tây Sơn, lại âm thầm nổi lên những đợt sóng ngầm. Họ thì thầm với nhau trong những buổi trà đàm: - Kỳ lạ thay! Kẻ đó, Nguyễn Quang Minh, dẫu được Hoàng thượng nhận là nhi tử, nhưng xuất thân mơ hồ, lời nói, cử chỉ, binh khí đều dị thường, khác hẳn thường nhân! – Ta từng thấy, hắn chỉ dùng vật kim loại nhỏ bé mà đánh lùi cả đội kỵ binh trong nháy mắt. Lẽ nào yêu thuật? – Còn thơ văn hắn đọc, lời lẽ như từ nơi khác đến, vừa thanh thoát, vừa hàm chứa ý chí trời cao đất rộng.. chưa từng thấy ai trong thiên hạ này có được. Một số văn thần chắp tay trầm tư: – Văn thì lạ, võ thì quá kỳ lạ. Chẳng lẽ trời sai xuống giúp Đại Việt ta? Một số võ tướng lại nghiến răng: – Thế gian không thể chỉ nghe danh mà không thấy tài! Phải thử hắn một phen, xem thực hư thế nào! Kẻ gật gù, kẻ lắc đầu, ai nấy lòng đầy hồ nghi, mười phần ngờ vực xen lẫn ít nhiều nể trọng. Vậy nên, nhân buổi lễ đầu xuân, van thần võ tướng tấu xin nhà vua - Xin cho chúng thần mở cuộc "Thi Anh Hào", để cùng hoàng tử Minh thử thơ đối luận, tỷ kiếm luận võ. Nếu thực là kỳ nhân, chúng thần xin cúi đầu bái phục. Bằng không, xin bệ hạ định đoạt. Quang Trung Nguyễn Huệ nghe vậy, cười dài như sấm động: - Hay lắm! Người tài, thử lửa mới sáng. Người yếu, búa rìu mới bộc lộ. Trẫm cũng muốn xem các nhi tử của ta ra sao, Quang Minh - hoàng nhi của Trẫm - bái kiến các vị tiền bối nào. Một hồi trống lệnh nổi lên. Cờ xí giăng đầy. Sân điện Thái Hòa bừng sáng dưới trời xuân, hứa hẹn một ngày quyết đấu rực lửa giữa lòng đế đô Phú Xuân.. Trong không khí ngưng đọng đến nghẹt thở, một tiếng xướng vang lên: - Minh hoàng tử triều bái! Từ phía cửa đông, Nguyễn Minh khoác áo vải nâu sẫm, đai trắng ngang lưng, chậm rãi tiến vào chính điện. Bên hông, lấp ló thứ binh khí kỳ lạ bằng kim loại đen tuyền - vật mà những con mắt tinh tường nhất nơi đây cũng không thể gọi tên. Không áo giáp, chỉ có tấm hộ tâm khiên đeo quanh ngực, không đao kiếm truyền thống, không ngựa hùng hổ, Minh chỉ có dáng vẻ bình thản, ánh mắt đạm nhiên như nước hồ sâu. Cả triều văn võ nín thở. Trong lòng người, ba phần nghi ngờ, ba phần kinh ngạc, ba phần thù địch, chỉ còn một phần mỏng manh dành cho niềm hy vọng chưa thành lời. Tiến đến sân rồng, Quang Minh hoàng tử quỳ xuống cúi đầu - Nhi thần yết kiến Phụ hoàng, nguyện Phụ hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế Nhà vua vui mừng: Minh nhi, chớ đa lễ, bình thân. Hoàng nhi của Trẫm đã trưởng thành rồi, ta tổ chức kỳ thi để con cùng con cháu Tây Sơn lĩnh giáo văn thần, võ tướng! Nguyễn Minh trìu mến nhìn nhà Vua: Nhi thần tuân mệnh, sẽ không làm Phụ hoàng thất vọng. Sau đó, Chàng đứng lên khiêm nhường cung kính, nhưng ánh mắt nghiêm nghị hào hùng, tự tin đối mặt quần thần và các hoàng tử: Hôm nay, điệt nhi xin lĩnh giáo chư vị văn thần võ tướng Tây Sơn. Gió xuân thổi qua, cuốn bay nhẹ vạt áo nâu. Nhưng trong lòng những bậc anh hùng từng vào sinh ra tử hôm nào, bỗng dâng lên một cảm giác rất lạ: Vị thiếu niên kia, không phải chỉ đến để học hỏi.. mà là để khẳng định huyết mạch Tiên Rồng của Quang Trung đại đế vĩ đại. Tiếng trống hội nổi lên, trên bậc điện cao, Nhà vua khoanh tay, ánh mắt như lưỡi kiếm soi thấu nhân tâm. Bên cạnh ngài, các trọng thần như Nguyễn Thiếp, Ngô Thì Nhậm, Trần Văn Kỷ.. đều nghiêm sắc mặt. - Trận đầu, cho phép hai hổ tướng cùng lúc ra trận. Minh nhi vất vả cho con rồi. Một tiếng hô vang: - Truyền mời Nhị vị hổ tướng Võ Văn Dũng và Võ Đình Tú ra trận! Hai bóng người như hai ngọn núi lao xuống sân: Một người đao dài sáng loáng – đó là Võ Văn Dũng, thiên hạ đệ nhất đao pháp. Một người côn thép đỏ rực – chính là Võ Đình Tú, vô địch thiết côn. Tiếng reo hò chấn động cả nền đá. Các võ tướng đồng loạt siết nắm đấm: – Để xem thiếu niên này đỡ nổi mấy chiêu! Võ Văn Dũng vung đao Lôi Long, ánh bạc xé gió hú rít. Võ Đình Tú quật thiết côn, tiếng gió rít như sấm sét giáng xuống đầu Minh. – Xem đao! – Xem côn! Hai luồng sát khí ép xuống như trời sập. Nhưng Minh không né, không rút kiếm. Chỉ có hai bàn tay không - và một ánh sáng lạnh lẽo chớp lên từ vật kim loại bên hông! Đoàng! Đoàng! Hai tiếng nổ như long trời lở đất. Mắt người chưa kịp nhìn rõ, đã thấy: – Thanh Lôi Long đao bật văng khỏi tay Võ Văn Dũng, bay xoay tròn ba vòng giữa không trung; Thiết côn trong tay Võ Đình Tú run bần bật rồi gãy đôi, mảnh vỡ cắm phập xuống nền đá! Cả sân điện im phăng phắc. Võ Văn Dũng, thân thể như sư tử, lảo đảo lùi ba bước, nhìn trân trân vết đạn xuyên chính xác vào chuôi đao của mình. Võ Đình Tú trợn trừng mắt: Thiết côn bằng thép ròng cũng không chịu nổi một phát! Minh thu súng về, cúi đầu thi lễ: - Nhị vị thúc thúc đã nhường, Minh nhi ngưỡng mộ các vị thúc thúc từ lâu.. Võ Đình Tú ngạc nhiên hỏi dò: Minh hoàng tử.. làm sao biết rõ về chúng ta như thế? Minh khẽ cúi đầu, giọng trầm tĩnh mà đầy hào khí: Nhị vị thúc thúc là Hổ tướng của Tây Sơn ta, theo Phụ hoàng kiến công lập nghiệp, trải qua trăm trận, chiến công lẫy lừng Tư đồ Võ Văn Dũng, trụ cột quan trọng của triều đình ta, tuyệt kỹ đao pháp Lôi long đao do thúc nghiên cứu được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Hổ tướng Võ Đình Tú sở hữu tuyệt kỹ đánh côn, luôn được Phụ hoàng ta yêu mến, phong làm Đại Tổng lý. Nữ tướng Bùi Thị Xuân, một trong Tây Sơn Ngũ phụng thư mến tài đã thêu lá cờ có 4 chữ vàng "Thiết côn vô địch" tặng thúc. Giữa khoảng không tĩnh lặng, khi tiếng Minh vang lên, nhắc đến lá cờ "Thiết Côn Vô Địch" mà nàng từng thêu tặng, nơi cuối hàng võ tướng, Bùi Thị Xuân khẽ rùng mình, nhưng ánh nhìn về vị hoàng tử trẻ tuổi vẫn đầy cảnh giác: - Nhi tử của bệ hạ quả thật tài năng, đó thực sự là điềm lành cho giang sơn xã tắc, tuy vậy nếu chỉ có hư danh, Tây Sơn ta quyết không dung dưỡng " Khoảnh khắc Thanh Lôi Long đao bị bắn văng khỏi tay, cỗ thiết côn thép ròng gãy đôi, Khoảnh khắc thiếu niên thu súng vào vạt áo, ung dung cúi đầu hành lễ, Trong lòng Võ Văn Dũng, một trong những trụ cột vững chãi nhất của đại nghiệp Tây Sơn, từng xông pha trăm trận, quen nhìn thiên hạ anh hùng như có sấm vang. Chưa từng, chưa từng có ai, ngoài Quang Trung Đại đế vĩ đại, ở cái tuổi ấy, lại khiến ông từ kinh ngạc, chuyển thành kính phục nhanh đến vậy. Ánh mắt Võ Văn Dũng dán chặt vào Nguyễn Minh. Ông thấy ở thiếu niên ấy khí độ của một đấng quân vương, thấy sự bình thản của người từng bước qua máu lửa, và thấy cả một ngọn lửa âm ỉ, cháy đỏ trong đáy mắt - thứ lửa chỉ những chiến tướng từng đứng giữa mưa tên bão đạn mới nhận ra. Và trong trong nháy mắt, hai mãnh tướng lừng danh Tây Sơn cúi đầu nhận thua. Nhà vua mỉm cười nhẹ, ánh mắt lóe lên vẻ hài lòng sâu kín. Còn toàn triều văn võ - kẻ thì ngây người, kẻ thì nổi da gà, kẻ thì cảm thấy sống lưng lạnh buốt như đón một cơn gió mịt mùng thổi tới.. Nhưng đó mới chỉ là khúc dạo đầu. Phía sau, tiếng trống giục lên dồn dập: Trận tiếp theo - thi bắn cung với Lý Văn Bưu! Lý Văn Bưu thong thả tiến ra, vai khoác một cây cung lạ - Kỳ Nam cung. Thân cung đen nhánh ánh lên dưới nắng sớm, đường viền được nạm bạc khéo léo, mỗi họa tiết như ẩn hiện dưới lớp nhung đen bí ẩn. Tay cầm của cung được chạm trổ từ gỗ Kỳ Nam ngàn năm, thứ kỳ mộc hiếm có, lúc treo trong phòng, từng làn hương trầm thơm ngát lan ra, tĩnh lặng như núi cao, thanh sạch như sương sớm. Mỗi lần giương cung, mọi kẻ địch đều cảm thấy trước ngực như bị khóa chặt bởi một bàn tay vô hình. Người ta gọi Lý Văn Bưu là Thần xạ Tây Sơn. Hôm nay, hắn mang theo Kỳ Nam cung, ánh mắt lạnh như nước giếng sâu, thản nhiên nhìn Nguyễn Minh: - Ta muốn xem.. Minh hoàng tử có dám cùng ta đấu bắn cung, thứ đã dựng nên thiên hạ Đại Việt? Lý Văn Bưu vác Kỳ Nam cung, kéo dây, giương cung, mũi tên lao vút đi như tia chớp Phập! Mũi tên cắm thẳng vào hồng tâm cách đó một trăm bước, chính giữa điểm đỏ nhỏ bằng đồng xu. Cả sân điện rì rào tán thưởng. Ai cũng biết, Kỳ Nam cung là vương giả trong các loại cung, còn Lý Văn Bưu là thần xạ nổi danh trăm trận, đòn vừa rồi tuyệt đối không hề cố sức. Minh bước ra, ánh mắt bình thản nhìn mục tiêu. Chàng chậm rãi nói: - Xin dời bia ngắm ra xa.. gấp đôi! Tiếng nói vang lên như sét đánh giữa trời quang, làm cả sân điện xôn xao. Quan văn, võ tướng đều chau mày. Gấp đôi? Hai trăm bước? Thế còn ai bắn trúng nổi? Nhưng Minh không đợi ai phản ứng. Chàng nhẹ nhàng lôi ra từ trong vạt áo một vật kỳ lạ - một khẩu súng ngắm gọn nhẹ, đen bóng như sừng đen, gắn theo đó là ống nhòm laser phát ra một luồng sáng nhỏ như sợi tóc. Quân lính rì rầm: Thần khí gì vậy? Minh thong thả quỳ một gối xuống nền đá, kê súng lên cánh tay, mắt áp sát ống ngắm. Chỉ một khoảnh khắc thở ra thật nhẹ: Đoàng! Tiếng súng nổ nhỏ, gọn, không lan dài. Trên hồng tâm mới dựng, ở khoảng cách hai trăm bước, ngay chính giữa tâm đỏ, không lệch nửa phân! Một phát, trúng! Không cần lấy đà, không cần thử cung. Cả triều thần nhất tề ồ lên kinh hãi, rồi im bặt như tắt thở. Chỉ còn tiếng gió thổi phần phật trong sân điện. Lý Văn Bưu đứng chết lặng, nắm chặt Kỳ Nam cung trong tay đến mức khớp tay trắng bệch. Hắn ngẩng đầu, nhìn Nguyễn Minh như nhìn một con rồng vừa phá tan mặt đất mà bay lên trời. Rồi chầm chậm cúi đầu, vái một vái thật sâu. Nguyễn Minh cúi đầu thi lễ:" Tướng quân đã nhường " Ầm ầm! Tiếng trống lệnh vừa dứt, đất trời như nổ tung. Hai đại tướng Tây Sơn đồng loạt tấn công: Lê Văn Hưng: Vung roi dài đỏ au, quét tới như sóng thần tràn bờ Phan Văn Lân: Cầm họa kích - lưỡi thép lạnh sáng như băng, đâm thẳng như chớp vào giữa ngực Minh! Một trận thế tuyệt đối không kẻ nào có thể toàn mạng.. nếu là người thường Nhưng Minh không né. Chàng sải một bước dài, áo chiến bào tung bay. Bên tay trái - khẩu súng ngắm ngắn lóe sáng. Bên tay phải - roi điện ngắn rung lên tiếng vù vù, những tia điện xanh nhạt lấp lóe trên thân roi. Choang! Họa kích đâm thẳng vào ngực Minh, nhưng.. Ngay tức khắc, một làn sóng ánh sáng bạc bật lên từ tấm hộ tâm khiên giấu trong áo giáp hiện đại! Toàn bộ lực đâm của họa kích như đâm vào tường thép, bật ngược lại, làm Phan Văn Lân cũng hơi chấn động. Cùng lúc đó, roi dài của Lê Văn Hưng quất tới. Minh nhanh như cắt - vung roi điện quấn lấy. Chỉ nghe" xèo "một tiếng nhỏ, điện truyền từ roi Minh qua roi dài, giật nhẹ một cái Bốp! Roi dài rơi khỏi tay Lê Văn Hưng, uốn éo dưới đất như rắn bị trúng độc! Lê Văn Hưng cả người run bần bật, thần trí còn chưa kịp định thần! Ngay khoảnh khắc ấy, họa kích của Phan Văn Lân lao tới lần hai, động tác cực nhanh! Minh liếc mắt Đoàng! Một phát súng trúng ngay cán họa kích! Không cần xuyên, chỉ cần lực súng hất mạnh, cây họa kích chệch hẳn đường đâm. Minh bật người, một cú đá quét vào bụng dưới Phan Văn Lân. Đồng thời, đầu roi điện trong tay chạm nhẹ vào họa kích sắt - điện truyền theo kim loại, Một luồng điện nhẹ giật xuyên từ kích vào tay Phan Văn Lân! Phan Văn Lân lảo đảo, ánh mắt tròn xoe ngơ ngác! Cả sân điện sững sờ. Minh thong thả thu roi điện về, giọng nói trầm tĩnh như đá núi, ánh mắt sáng như trời thu chắp tay cúi đầu thi lễ: - Đa tạ nhị vị thúc thúc đã nhường. Học được một chiêu nửa thức của các thúc, Minh nhi đã thấy vinh hạnh vô cùng. Hai tướng cúi đầu thi lễ chào Minh Hoàng tử: Minh hoàng tử quả là nhi tử tài hoa của bệ hạ, chúng thần tâm phục Trên ngai vàng cao nhất, ánh mắt Quang Trung hoàng đế luôn dõi theo đứa con thiên thần của mình không chớp mắt, như thấy được trong hình dáng thiếu niên trẻ tuổi này - một ngọn núi lớn đang từ từ mọc lên giữa đất trời Đại Việt. Sau đó, Nguyễn Minh tiến vào sân rộng trải bản đồ Đại Việt. Chỉ vào từng mũi tấn công, sử dụng cách gọi kỳ lạ:" Chiến lược phản vệ tinh, nhiễu âm điện từ, đội hình tam giác lửa, tập kích hồi chuyển.. " Trần Quang Diệu ngẩn người: Những kế sách này.. không có trong binh thư xưa, xin Minh hoàng tử tiếp tục khai nhãn cho bổn tướng: " Trong các trận chiến, những tướng quân tài ba đã dùng những chiến thuật nghệ thuật của việc bố trí quân đội, như giả thua để dẫn dụ, như vờ yếu để phục kích.. Còn trong thời nay, ta có thể sử dụng thiết bị đặc biệt để thăm dò, hoặc hệ thống phá mây tạo mưa để đạt mục đích.. " Chiến thắng không phải chỉ dựa vào sức mạnh quân sự, mà là sự linh động trong mỗi bước đi, là khả năng thích ứng với hoàn cảnh mới, hiểu rõ đối thủ và không bao giờ ngừng học hỏi. Chính vì vậy, những mưu lược cổ kim, hay bây giờ, phải được kết hợp thật khéo léo, có như vậy chúng ta mới có thể đánh bại được mọi thế lực, chinh phục được giang sơn, thống nhất sơn hà. Sau đó Nguyễn Minh chắp tay cung kính vái Trần Quang Diệu thật sâu và kính cẩn nói: -" Bá phụ! Hổ tướng Trần Quang Diệu Ngài, cùng với nữ trung hào kiệt Bùi Thị Xuân, được người đời xưng tụng là 'Kim đồng Ngọc nữ' của Tây Sơn ta. Hai vị là rường cột trụ quốc, giữ nhiều chức vụ trọng yếu, lập nên bao chiến công hiển hách, được Phụ hoàng ta vô cùng tin yêu và trọng vọng. Thanh Huỳnh Long đao trong tay Bá phụ, Ô Long đao của Phụ hoàng ta và Xích Long đao của Hổ tướng quân Lê Sỹ Hoàng, ba thanh đao ấy hợp thành 'Tam thần đao' - cái thế vô song, khiến thiên hạ bạt vía, chiến công lẫy lừng. Điệt nhi từ lâu đã ngưỡng mộ, nay có cơ duyên mong được bái học, học lấy tinh hoa chiêu thức trong bộ Tam thần đao, để không phụ lòng Tây Sơn, không phụ một đời kỳ vọng của Phụ hoàng, của anh linh Lạc Hồng. Cả điện đình lặng ngắt. Bao ánh mắt triều thần, tướng sĩ đều ngưỡng mộ nhìn Nguyễn Minh không chớp mắt. Kẻ trẻ tuổi ấy - phong tư tuấn lãng, hiểu biết sâu rộng, lễ nghi chu toàn, lại ôm chí lớn - quả thực mang cốt cách Tiên Rồng của Quang Trung hoàng đế vĩ đại. Trần Quang Diệu đứng thẳng, ánh mắt kiên định nhưng tràn đầy sự kính trọng nhìn về phía Quang Trung hoàng đế và Minh hoàng tử. Ông chậm rãi cúi đầu, rồi cất lời, giọng đầy vẻ thành kính nhưng cũng không giấu nổi niềm tự hào: - Hoàng đế bệ hạ, Nhi tử của Ngài, quả thật là một thần nhân. Từ lúc gặp gỡ, hạ thần đã thấy rõ Minh hoàng tử không chỉ có tài năng mà còn có khí phách, cử chỉ lời nói, tấm lòng chăm lo muôn dân thiên hạ của Ngài, hạ thần vô cùng vinh hạnh khi được chứng kiến Minh hoàng tử trưởng thành dưới sự dìu dắt của Bệ hạ " Các tướng đồng loạt đứng lên kính nhà Vua: Bệ hạ vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế! Nguyễn Minh cúi đầu cảm tạ, lòng rưng rưng. Quang Trung hoàng đế trong lòng thấm đẫm niềm tự hào về đứa con tài hoa của Nhà vua, Nguyễn Quang Minh. Ông nhìn Minh với ánh mắt đầy yêu thương. Ngay lúc đó, Là Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp bước lên, ánh mắt của ông đầy sự cần trọng như thể ông đã sẵn sàng đặt ra những câu hỏi quan trọng cho Minh hoàng tử. Ông chậm rãi đặt tay lên chòm râu bạc phơ, rồi nhìn Minh một cách sâu sắc. Cả không gian im lặng, mọi ánh mắt đều dồn về phía ông. - Minh hoàng tử, thần không thể không thừa nhận tài năng của Ngài trong võ học, nếu Người thật sự có cả văn trị, hãy dùng một bài thơ mà cả trăm năm chưa từng nghe, khiến triều thần lay động tâm can Minh bước vào giữa điện, bái lạy lão nho gia - người được Quang Trung Nguyễn Huệ xưng tụng là bậc thầy thiên hạ. Minh cúi đầu, chậm rãi đọc: Mùa xuân Đại thắng rực cờ hoa Thống nhất Bắc Nam hiệp một nhà Tranh đấu trường kỳ đà kết thúc Hòa Bình hàn gắn buổi can qua Gia đình phân tán nay sum họp Đất nước nối liền hết cách xa Đoàn kết chung lòng cùng đổi mới Việt Nam muôn thuở vững Sơn Hà. Và Chàng tiếp tục ngâm nga bài thơ: Giờ tuổi trẻ chúng ta dựng nước Đẹp cho đời tiếp bước cha anh Giữ cho non nước yên lành Một màu hoa gấm mãi xanh hòa bình Mừng kỷ niệm quang vinh chiến thắng Ngày non sông nối thẳng nói liền Để cho con cháu Lạc - Tiên Muôn đời ghi nhớ lời nguyền cha ông. Cả điện văn thần võ tướng đứng dậy khen không ngớt lời. Gió nổi lên ngoài hiên, thổi bay từng tà áo. Nguyễn Thiếp cúi mình thật sâu: - Thiên hạ chưa từng có thơ như vậy. Không mùi Tống, chẳng khí Đường. Bội phục, bội phục Minh hoàng tử, Ngài nghĩ thế nào về việc giải quyết tranh chấp trong một đất nước lớn như Đại Việt ta? Khi đối mặt với các thế lực thù trong, giặc ngoài, Ngài sẽ làm gì để duy trì sự ổn định trong nội bộ Tây Sơn? Nguyễn Minh nhẹ nhàng trả lời: -" Phu Tử, Ta nghĩ rằng trong một đất nước lớn mạnh, không chỉ quân sự mà cả sự hòa thuận trong nội bộ mới là điều kiện tiên quyết để đảm bảo sự ổn định lâu dài. Khi có tranh chấp, nhất là trong nội bộ, cần phải dùng trí tuệ để kiểm soát cảm xúc của cá nhân, làm sao để mọi quyết định đều vì lợi ích chung của dân tộc, của giang sơn, xã tắc và của nhân dân. Quân đội là thành trì vững chắc, nhưng chắc chắn phải có lòng dân, khi lòng dân đoàn kết, không gì có thể phá vỡ được " Là Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp gật đầu, ánh mắt ông sáng lên như thể đã tìm ra điều mình muốn thấy. Ông khẽ mỉm cười, rồi chậm rãi quay về Quang Trung Hoàng đế và kính cẩn tâu trình: -" Tâu Bệ hạ, Vị Nhi tử tài trí của bệ hạ có lời nói nặng ngàn cân, hạ thần tin rằng huyết mạch của Ngài sẽ không chỉ giỏi về chinh chiến, mà còn có thể giữ được ổn định, tạo ra hòa bình thịnh thế cho Đại Việt ta". Thái tử Nguyễn Quang Toản cùng hai vị hoàng tử Nguyễn Quang Thuỳ, Nguyễn Quang Bàn run rẩy, khiếp sợ xen lẫn nể trọng tự hào, cùng các văn thần, võ tướng đồng loạt đứng dậy tâu trình: - Chúc mừng Phụ hoàng, chúng nhi thần tự biết không bì kịp Hoàng huynh, kết quả kỳ thi đã rất rõ ràng, chúc mừng Hoàng huynh Quang Minh. Vua Quang Trung ngự trên điện rồng, ánh mắt sáng rực như sao trời, râu tóc bay nhẹ theo gió mát. Ngài đảo mắt nhìn khắp triều thần, thấy quần thần quỳ lạy, lòng chan chứa nỗi tự hào không kiềm được. Ngài bật cười sang sảng, tiếng cười như sấm động: Thiên hạ thái bình, xã tắc vững bền, ắt phải nhờ những bậc anh tài như thế! Nay con cháu ta như vậy, trẫm còn gì phải âu lo nữa. Ngài phất tay áo bào, truyền lệnh: Ban yến thiết triều! Khen thưởng các vị hoàng tử, ban đặc ân cho quần thần đồng lòng tận trung vì nước. Từ nay, hãy cùng trẫm chung sức, dựng nền thái bình vững bền muôn thuở. Nhà vua ánh mắt uy nghiêm, truyền Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ tuyên chỉ, Trần Văn Kỷ đứng dậy, đón lấy chiếu chỉ của Quang Trung hoàng đế, mở rộng, giọng dõng dạc, mỗi tiếng mỗi chữ như khắc vào lòng đất trời Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết: Hoàng nhi của Trẫm, Nguyễn Quang Minh, tuổi trẻ gian truân, hiếu kính tiên tổ, tài đức vẹn toàn, văn võ kiêm bị, chí khí cao dày, lòng son vì nước. Nay phong Nam Bình Vương, cấp ấn vàng, mở phủ riêng, đứng ngang hàng với các công thần khai quốc. Từ đây phụ tá đại nghiệp, dốc lòng hộ quốc an dân, nối tiếp cơ đồ, bền vững muôn đời. Văn võ bá quan, chư quân chư dân trong thiên hạ, đều phải kính cẩn tuân theo, không được trái mệnh. Khâm thử Tiếng đọc chiếu vừa dứt, trống đồng nổi ba hồi, chiêng vàng rền vang khắp điện. Quần thần nhất tề quỳ rạp, đồng thanh hô vang: Cung chúc hoàng thượng: Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế! Cung chúc Nam Bình Vương điện hạ: Thiên tuế, Thiên tuế, Thiên thiên tuế. Tiếng hô vang dội như sấm, dậy khắp điện vàng lầu ngọc. Ngoài điện, cờ xí tung bay, trống chiêng nổi dậy, như phụ họa cho thời đại mới đang đến - thời đại của huy hoàng và thịnh trị. Nghe Trần Văn Kỷ tuyên xong chiếu thư của Nhà vua, Nguyễn Minh đứng chôn chân tại chỗ, thần sắc thất thần, hai bàn tay siết chặt đến run rẩy. Giữa bao ánh mắt chăm chú, vị hoàng tử tài hoa ấy quá đỗi bất ngờ, đột nhiên quỳ sụp xuống giữa điện vàng, ánh mắt nghiêm nghị bỗng rưng rưng. Trong tiếng trống rền vang, Nguyễn Minh nghẹn ngào bái lạy: Phụ hoàng thánh ân như biển trời, nhi thần hèn mọn, nào dám nghĩ tới vinh sủng cao dày này Vua Quang Trung từ trên ngai vàng bước xuống vài bậc, nhìn hài nhi yêu thương nhất đời của Nhà vua quỳ rạp nơi bệ ngọc, ánh mắt ngời lên niềm kiêu hãnh khôn tả. Một nụ cười hiền hậu điểm trên khóe miệng uy nghiêm. Nhà vua tiến thêm một bước, áo bào lay động trong gió, rồi khẽ cất tiếng, giọng ấm mà vang vọng khắp điện: Trẫm dõi theo con từ thuở còn thơ ấu, từng bước nhìn thấy hoàng nhi trưởng thành dưới bóng cờ đào Tây Sơn ta, giữa lửa gươm binh đao, con chính là hình ảnh kiêu hùng của thời trai trẻ trẫm từng hiến dâng cho non sông này.. Giọng Nhà vua chùng xuống, trầm mặc như những ký ức thời trai trẻ ùa về: Mẫu thân con chắc cũng đang mỉm cười, vui mừng mà ngậm cười nơi chín suối, thấy con nối chí cha ông, làm rạng danh tổ nghiệp. Ngừng lại một khắc, ánh mắt Quang Trung Đại đế như chứa chan cả trời non nước, cả máu lệ một đời: Hoàng nhi phải luôn luôn ghi nhớ, thân này của trẫm đã thuộc về giang sơn, xã tắc. Máu thịt của trẫm đã đổ xuống cho từng tấc đất, từng dòng sông này. Nay truyền cho con chí lớn phải giữ lấy cơ đồ, lấy thiên hạ làm nhà, lấy bách tính làm trọng, nhất thống sơn hà, để muôn dân an cư lạc nghiệp, thái bình thịnh thế. Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh quỳ lạy ba lạy thật sâu, trán chạm bệ ngọc, thân hình run lên vì xúc động. Chàng nghẹn lời, cổ họng như có nghìn vạn tơ vò siết chặt, mãi một hồi lâu mới dâng tiếng tâu lên, giọng chan chứa nghĩa tình: Thuở nhỏ, nhi thần tính khí hiếu động, kiến giải hạn hẹp, chưa thấu hết ân tình của Phụ hoàng, của Mẫu thân, chưa từng hiểu những đêm dài người gánh chịu canh khuya đơn độc, trăm mối quốc sự nặng trên vai. Chàng dừng lại, hít sâu một hơi, dập đầu lần nữa, đôi mắt hoe đỏ: Nay, trải qua sóng gió biến cố cuộc đời, bôn ba giữa mưa đạn gió gươm, từng chứng kiến máu đào nhuộm đất, dân chúng lầm than, nhi thần mới hiểu được tấm lòng bao la như núi non trời biển của Phụ hoàng, của Mẫu thân, và của bao thế hệ tiên tổ Đại Việt ta đã đổ máu vì giang sơn gấm vóc này. Nhi thần nguyện một đời tận trung tận hiếu, không phụ thánh ân trời biển của Phụ hoàng, một đời ghi lòng tạc dạ ân đức Mẫu thân, một đời không phụ công lao của tiên tổ Đại Việt. Nguyện đem toàn trí toàn lực, truyền đời hậu thế nhất thống sơn hà, đánh đuổi ngoại xâm, dựng xây giang sơn Đại Việt thái bình, thịnh thế! Nói rồi, Nam Bình Vương dập đầu bái lạy lần nữa, tiếng vái lạy mạnh mẽ vang vọng khắp điện vàng, khiến không chỉ văn võ bá quan mà cả những lão thần tóc bạc cũng phải đỏ hoe mắt, nghẹn ngào cảm động. Tiếng chiêng trống, tiếng hô muôn người, tiếng gió ngàn cuộn trào trong điện lớn như sóng thần tiếp sức cho lời thề son sắt ấy bay thẳng lên tầng trời cao hòa quyện cùng hồn thiêng sông núi.
Chương 3. Huyết Án Lật Mở Năm 1790, Phú Xuân, Quang Trung nguyên niên thứ ba Cơn mưa tầm tã đêm qua như rửa trôi những phiền muộn âm ỉ trong lòng Nguyễn Minh - nay đã là Nam Bình Vương kiêu hùng, vị vương gia được Quang Trung hoàng đế tin yêu nhất. Thế nhưng, đã mấy đêm liền, chàng không sao ngủ yên. Một nỗi bất an mơ hồ đè nặng lên tâm khảm. Chàng thường mơ thấy một cảnh tượng đỏ máu: Một người đàn ông vương giả, mặc cẩm bào, đổ gục trước sân điện, máu thấm ướt chiến bào. Bên tai, văng vẳng tiếng khóc ai oán của một đứa trẻ nhỏ bị đưa đi trong màn đêm mịt mùng.. Một đêm, khi trăng non mờ ảo trên đỉnh Phú Xuân, Nguyễn Minh lần theo tấm bản đồ cũ mà Nguyễn Lữ Kha - cựu thần trung thành với Hoàng tử Quang Minh năm xưa - đã bí mật giao cho. Chàng băng qua hành lang âm u, đi sâu vào mật đạo dưới cung điện Tử Quang, nơi ở của Gia quyến Quang Minh hoàng tử - đã bị niêm phong suốt nhiều năm qua, ít ai dám bén mảng. Dưới ánh đuốc dầu chập chờn, Nguyễn Minh thận trọng tiến sâu vào mật đạo đã phủ bụi thời gian. Ở tận cùng, chàng phát hiện một chiếc hộp gấm cũ kỹ, trên nắp khắc bảy chữ cổ: "Minh nhi chi huyết, vô oan bất minh." Mở hộp ra, bên trong chỉ có một chuỗi ngọc đỏ thẫm, từng hạt như đọng lại máu lửa của thời đại, cùng một bức thư tay đã mờ nhòe bởi thời gian. "1786, Điện Tử Quang - Bắc Bình Vương phủ, án oan thiên cổ Huyết mạch của ta - Quang Minh hoàng tử, Hoàng trưởng tử của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.. Nếu tử tôn ta tìm được vật này, hãy hiểu rằng: Ba tín vật - cờ đỏ, ngọc bội, huyết thư - đã được mật giao cho nhi tử duy nhất của ta, Nguyễn Quang Sơn, truyền giữ cho mai sau tìm về. Chuỗi ngọc này là ấn chứng, thư này là minh thệ, cùng ba tín vật ta truyền, chứng thực huyết mạch truyền đời dòng dõi Quang Minh hoàng tử ta, tức tử tôn của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ anh hùng Nội dung huyết thư được đề cập trong thư tay " Nếu con là huyết mạch nhà ta, hãy nhớ: Nơi ngươi rơi xuống, là nơi tổ phụ ngươi từng khởi binh. Ngọc bội là tín vật. Cờ đỏ là hồn quân. Huyết mạch ta sẽ quay lại. " Nguyễn Minh run cầm cập, cầm lấy chuỗi ngọc và thư tay. Ba tín vật - lá cờ đỏ thêu sao vàng, miếng ngọc bội khắc chữ" Quang ", bức huyết thư thấm đẫm mực son - tất cả đang nằm trong tay chàng (từ năm 2025, đã theo chàng vượt qua dòng thời gian về đây). Còn ngay đây, chàng siết chặt chuỗi ngọc Huyết Thiên trong tay và thư tay đề cập đến ba tín vật của Quang Minh hoàng tử truyền cho hậu nhân, tim đập thình thịch. Mọi nghi hoặc phút chốc tan biến. Từng mảnh ghép như ánh lên trong tâm trí: Người đàn ông trong mộng, tiếng khóc, màu máu, bội ngọc.. Chàng thì thầm trong bàng hoàng: - Ta đích thực chính là.. là hậu duệ mười tám đời của Hoàng tử Quang Minh lưu lạc nhân gian Ánh lửa ngọn đuốc lung lay, soi sáng đôi mắt Nguyễn Minh, ánh lên một ngọn lửa quyết tâm: Quang Minh kỳ sẽ lại tung bay trên bầu trời Đại Việt. Huyết mạch Bắc Bình Vương phủ sẽ trường tồn. Thế nhưng, ai là kẻ chủ mưu vụ án liên quan đến Vương phủ hiển hách chiến công của Nguyễn Huệ năm nào, Bắc Bình Vương phủ 1786? Phú Xuân, mùa xuân năm 1790 Từ ngày phát hiện hộp gấm, Nam Bình Vương Nguyễn Minh âm thầm khởi sự, không tiết lộ với ai một lời. Dưới cớ chỉnh đốn kinh thành, chấn chỉnh lại quân kỹ hoàng thành, chàng lặng lẽ cho người sàng lọc lại hồ sơ, tra xét từng gia thần từng gác ở cung Tử Quang suốt bốn năm trước. Những cái tên cũ, tưởng đã chìm vào quên lãng, nay bị gọi ra tra hỏi. Có kẻ đã chết, có kẻ lưu lạc, cũng có kẻ biến mất bí ẩn.. Những mảnh ký ức rời rạc dần lắp ghép thành bức tranh mờ nhòe: Đêm huyết án năm xưa, có một nhóm người hành động bí mật, có lệnh miệng từ một kẻ" quyền lớn ngang vua ". Song tuyệt nhiên, chưa ai dám gọi thẳng tên. Chỉ có đôi lời rỉ tai, nửa đêm ngoài ngõ: " Quang Minh hoàng tử năm xưa.. bị hại bởi người trong triều.. " " Có người che dấu, diệt khẩu, sau lại thăng chức lớn.. " Đêm ấy, trời đen đặc như mực, mưa bụi giăng giăng lạnh thấu xương. Nam Bình Vương khoác áo choàng đen, lặng lẽ lẻn vào ngục tối cũ. Ở góc tối, một lão già tóc trắng, thân thể héo úa, run rẩy như lá sắp rụng. Lão chính là một trong số đao phủ tham dự huyết án mười mấy năm trước - nay chỉ còn hơi tàn. Nguyễn Minh bước tới, giọng lạnh tanh: " Năm đó, ngươi đã thấy những gì? " Lão ngẩng mặt lên, mắt đục ngầu, miệng nhếch một nụ cười kỳ dị: " Ai cũng hỏi.. nhưng không chịu nghe sự thật đâu.. " Minh quẳng ra một túi bạc nặng trịch. Lão hít một hơi sâu, giọng như từ cõi chết vọng về: Ngoài trời năm ấy, trống thúc dồn dập, lửa đỏ rực trời. Đám đao phủ, thị vệ bao vây lấy gian điện nhỏ phía Tây Bắc Bình vương phủ - nơi ở gia quyến Quang Minh hoàng tử. Tiếng hét chém giết vang vọng. Máu loang mặt đất Trong ánh lửa cháy hừng hực, Quang Minh hoàng tử, toàn thân bê bết máu, ôm chặt con trai vào lòng. Đứa nhỏ mới sáu tháng tuổi, khóc đến khản giọng. Ngoài cửa, tiếng binh khí loảng xoảng vang lên Bỗng - Vút! Từ nóc điện, một loạt bóng đen như quỷ mị lao xuống. Áo choàng đen tung bay, ánh đao chớp nhoáng. Binh! Bốp! Vụt! Trong nháy mắt, hai tên đao phủ kia bị chặt gãy cổ, ngã vật xuống, còn ta ngất xỉu Tiếng binh khí vỡ vụn vang lên như mưa đá. Ngay lúc ấy, hai nhóm cao thủ chia làm hai cánh xông vào: Ba người áo đen, mặt nạ quỷ, lao thẳng tới phía Quang Minh hoàng tử. Một người hét lên: " Điện hạ! Mau theo bọn thuộc hạ! " Hai người còn lại, dáng người nhanh nhẹn, lập tức áp sát, giành lấy thiếu hoàng tử tên Quang Sơn. Quang Minh hoàng tử, bị trọng thương, ánh mắt đỏ bừng, gằn giọng: " Không! Không được tách ra! Hài nhi của ta! " Một hắc y nhân cắn răng: " Điện hạ, mạng ngài quan trọng! Thiếu chủ sẽ được đưa theo lối khác an toàn hơn! Mau! " Quang Minh hoàng tử lảo đảo đứng dậy, nước mắt lăn dài. Một tia sét xé ngang trời. Trong khoảnh khắc chia ly, miếng ngọc bội từ tay Quang Minh hoàng tử trượt rơi xuống đất vỡ tan, chỉ còn đúng một nửa, đám hắc y nhân vội vàng nhặt lấy, trong hỗn loạn, thiếu hoàng tử Quang Sơn nắm chặt một nửa miếng ngọc trong tay nhỏ xíu. Bên ngoài, đội quân truy sát ùn ùn kéo đến. Hai nhóm cao thủ nhìn nhau một cái dìu Quang Minh hoàng tử, lao thẳng về hướng Tây Nam, xuyên qua cánh rừng đen đặc. Nhóm thứ hai: Ôm lấy hoàng tử Quang Sơn, theo hướng Đông Bắc Phủ, men theo những đường thủy chằng chịt mất tích Nam Bình Vương trừng mắt: " Ý ngươi là.. lúc đó cả Quang Minh và Quang Sơn đều còn sống? " Lão gật đầu: " Phải. Nhưng giữa cơn mưa loạn, ai sống, ai chết, ai thoát, ai mất, bọn ta không rõ. Chỉ biết.. có hai bóng đỏ máu lao vào màn mưa, mỗi người một hướng. " Minh cảm thấy máu trong người như đóng băng. Vậy ra: Quang Minh hoàng tử và con trai Quang Sơn đều được cứu, nhưng chia làm hai ngả, không ai còn biết tung tích. Giọng lão già khàn đặc: " Sau đó khoảng hai năm sau tức 1788, có nghe đồn.. Một đứa nhỏ lưu lạc chốn thôn quê được nhóm người rất bí ẩn nuôi dưỡng, không rõ lai lịch xuất xứ.. Còn Quang Minh hoàng tử, không ai gặp lại nữa, chỉ biết có người thấy một thiếu niên dáng vẻ anh tuấn nhưng sắc mặt bệnh tật, được người dân bản địa cưu mang, song chưa kịp bình phục đã qua đời nơi sơn dã.. Nguyễn Minh nghe, lạnh lùng gật đầu, chôn sâu mọi nghi hoặc trong lòng. Những cơn gió đầu xuân dường như mang theo mùi sương cũ kỹ, vọng về từ những tháng năm máu lệ. Nam Bình Vương Nguyễn Minh ngồi lặng trước thư án, tay vuốt nhẹ chuỗi Huyết Thiên, ánh mắt trầm tư. Tấm bản đồ Phú Xuân trải rộng trước mặt, nơi những ký hiệu đỏ nhỏ đánh dấu các điểm nóng: Đông Ba, Trường Thi, Gia Hội.. Đó không chỉ là địa danh, mà là những vết tích còn sót lại của một cuộc săn lùng thầm lặng, đã từng xảy ra. Từ những mảnh tin tình báo rời rạc do "Điệp ảnh quân" - Đội quân được Nguyễn Minh xin ý chỉ của Quang Trung Đại đế lập ra, không một ai biết, hoạt động tuyệt mật với nhiệm vụ thu thập nắm bắt tin tình báo trên khắp lãnh thổ Đại Việt, chỉ nghe theo mật lệnh của Quang Trung và Nguyễn Minh - báo về mà Nguyễn Minh nhận được, bức tranh bi hùng dần hiện ra trước mắt vị vương gia trẻ tuổi: Vào giai đoạn 1786-1788, giữa lúc cơ nghiệp Tây Sơn còn chìm trong loạn lạc, đã có một thế lực ngầm cho người tỏa đi khắp cả nước tìm kiếm những điều kỳ lạ, tất cả cách thức hoạt động đều rất bí ẩn, lặng lẽ: "Bất cứ đứa trẻ nào vừa chào đời đến chừng hai, ba tuổi, có dung mạo khôi ngô khác thường, hoặc trên người mang dấu vết một miếng ngọc khắc chữ, cờ đào Tây Sơn.. đều bị âm thầm đưa về" Cái cớ đưa ra chỉ giản đơn "Nhận lại tông thân thất lạc do chiến loạn" Nhưng những kẻ gia nô tận mắt chứng kiến chỉ thì thầm với nhau: "Kẻ ra lệnh tìm kiếm kia không phải vì tình thân, mà vì sợ hãi.." Sợ điều gì? Không ai dám nói. Chỉ biết, những đứa trẻ được mời đi, không phải đứa nào cũng trở về. Rồi, năm 1789, khi chiến cờ Tây Sơn cuồn cuộn, khi Nguyễn Minh - người mang ba tín vật năm xưa, bất ngờ từ cõi chết quay về trong ánh chớp kinh hoàng, thì tất cả đột nhiên im bặt, không ai còn nghe thêm được điều gì nữa.. Cơn gió thổi qua hành lang điện Tử Quang, lạnh lẽo như những bóng ma của quá khứ. Nguyễn Minh ngồi trầm ngâm bên ánh đèn dầu, tay lần giở những tài liệu bí mật thu thập được. Những mảnh ghép vụn vỡ dần xếp lại thành bức tranh ghê gớm: Trong những năm 1786-1788, giữa thời kỳ rối ren, đã từng có một thế lực quyền quý âm thầm sai người lùng sục khắp Phú Xuân, Đông Ba, Gia Hội, Trường Thi.. Chỉ cần phát hiện một đứa trẻ sơ sinh hay độ hai, ba tuổi, mang trên người kim bài chạm rồng, hoặc ngọc bội khắc chữ 'Quang', lập tức được bí mật đưa đi, dưới danh nghĩa 'nhận họ hàng. Nhưng khi năm 1789 tới nay, Khi Nguyễn Minh bước ra từ cõi chết, hiên ngang đứng trước điện Cần Chính, thì tất cả những cuộc truy lùng chấm dứt. Tựa như một bàn tay đã buông vũ khí, từ bỏ hy vọng nắm bắt bóng ma quá khứ. Từ đó, những kẻ giấu mặt kia không còn tìm kiếm nữa. Chúng chỉ lặng lẽ quan sát, dò xét, và.. chuẩn bị. "Kẻ đứng sau cuộc truy lùng năm xưa.." - Nguyễn Minh thầm nghĩ - "hẳn giờ đây đã chuyển mối lo sợ từ đứa bé thất lạc.. sang thẳng chính ta, vì suy cho cùng ta bây giờ chính là Nguyễn Quang Minh hoàng tử trở về, bọn loạn thần chủ mưu huyết án năm xưa ắt hẳn đứng ngồi không yên.." Nam Bình Vương trầm ngâm suy nghĩ và Ngài đã tường tận mọi chuyện, những câu hỏi trong đầu Ngài bây giờ đã có câu trả lời rất rõ ràng: Tín vật trong tay hoàng tử Quang Sơn bị vỡ một nửa, sao bản ta có trong tay lại nguyên vẹn? Quang Minh hoàng tử, cùng con trai được cứu thoát năm 1786, và trước khi ta xuyên không về 1789, Quang Minh hoàng tử chắc chắn là đã qua đời ở đâu đó do vết thương quá nặngg, truyền lại tín vật và bí mật cho Quang Sơn hoàng tử.. rồi truyền nhiều đời đến ta ở 2025, vậy khẳng định Quang Sơn hoàng tử vẫn còn sống, lưu lạc đâu đó, Dòng thời gian làm sao có hai tín vật, hoặc hai người cùng tồn tại, điều đó chỉ có thể tiếp tục khẳng định, tín vật của ta là bản do hậu nhân hoàng tử Quang Sơn dựa theo nửa bản cũ, phục chế nguyên trạng và truyền đến ta ở 2025, tín vật của ta chắc chắn là bản phục chế có đặc điểm và hình dạng y như bản gốc, nhưng không phải bản gốc kia.. Chàng siết chặt chuỗi Huyết Thiên trong tay. Máu đổ bốn năm trước, hồn phách thất tán.. Đã đến lúc phải lần ra sự thật. Bằng bất cứ giá nào, một kế hoạch táo báo nảy ra.. Trời Phú Xuân vào thu, mây bạc giăng ngang đỉnh Ngự Bình. Tin đồn xuất phát từ quán nước gần kinh đô lan ra như ngọn lửa âm ỉ trong rừng khô: Nam Bình Vương đã nắm đủ bằng chứng về huyết án bốn năm trước, chuẩn bị kết án gian thần Những ngày gần đây, Nam Bình Vương liên tiếp bí mật cho người dò xét trong cung, bãi săn, chợ lớn Đông Ba, bến đò Trường Thi.. như thể tìm kiếm thứ gì đã thất lạc từ lâu. Tin ấy như một quả bom âm thầm nổ tung khắp hậu cung và triều đình. Những kẻ vô can thì chẳng buồn bận tâm, còn kẻ có tật.. bắt đầu lộ vẻ bất an. Đôi mắt hoảng hốt, mặt mày trắng bệch như tro tàn trong những buổi thiết triều. Những cuộc gặp gỡ kín đáo, vội vàng. Những phong thư ngắn ngủi, gấp gáp, trao tay trong bóng tối. Chính lúc đó, một phong thư kỳ lạ bị "Điệp ảnh quân" thu giữ. Đó là một tờ lụa nhỏ, chỉ vài dòng ngắn ngủi: "Mật lệnh: Các nhánh tìm thời cơ trừ diệt thủ lĩnh Nam Bình quân, thu giữ toàn bộ ấn tín, chứng cứ về huyết án năm xưa, để lại chứng cứ tại hiện trường là quân Gia Định, xác nhận kẻ ấy tuyệt hậu, thiên hạ mới yên. Mùa xuân năm 1790, Nam Bình Vương Nguyễn Minh thân chinh rời điện Nam Bình cùng gia thần đi săn ở Trại Thượng Sơn. Đoàn người ngựa mới ra khỏi rừng, thì một cơn mưa tên từ trên cao bất ngờ bắn xuống. Ám sát Vương gia, có thích khách, có thích khách! Gia nô hoảng loạn hét lớn! Nhưng.. Nam Bình Vương, thân mang Hộ khiên chú, đã sớm có phòng bị. Đội cấm quân dưới trướng tả hữu Hộ vệ thuộc nhánh quân Nam Bình mang theo súng ngắm hiện đại đã giăng lưới trận từ trước. Chỉ sau nửa canh giờ, bọn thích khách bị bắt gọn. Khám xét trong người phát hiện rất nhiều phi tiêu, giấy tờ của Gia Định quân của Nguyễn Ánh.. Trong số đó, một tên nội thị trẻ run rẩy quỳ mọp xuống, bên người có mảnh mật thư, miệng còn ngậm tờ giấy nhỏ như lá trầu - cố nuốt mà không kịp. Tờ giấy được lấy ra, trải trên án: " Trại Thượng Sơn, dứt hậu họa. Ký hiệu: Thanh Long Sơn. Không tên. Không dấu. Chỉ một dòng chữ. Dưới cùng, ấn một ký hiệu lạ: Một con rồng xanh quấn quanh mặt trời đỏ. Mật thư ghi: Thanh Long Sơn mật lệnh. Kẻ mang huyết thống đã nắm chứng cứ, hiểm họa không thể để lan rộng. Lệnh cho các nhánh: Lập tức hành động theo kế hoạch, không được chậm trễ. Thất bại, giấu mình tại Chùa Long Phụng. Ký hiệu: Thanh Long Sơn. Kèm theo phong thư, còn một miếng ngọc nhỏ vỡ đôi, bên trên có khắc nửa con rồng xanh quấn quanh mặt trời đỏ. Nguyễn Minh nhìn những chứng cứ thu được, mắt lạnh như băng.. ra lệnh tên nội thị đó truyền tin cho Chủ nhân Thanh Long Sơn theo ý mình, không sẽ tru di cửu tộc, tên nội thị mặt cắt không còn giọt máu, răm rắp nghe theo liền viết mật thư rồi huýt sáo gọi bồ cầu truyền tin, mật thư được buộc chặt vào chân chim, phóng đi trong đêm Kẻ đó bị thương nặng, thành công một nửa, đã để lại hiện trường toàn bộ liên quan Gia Định quân, biệt đội an toàn, không để dấu vết, tạm ẩn mình tại bản doanh Long Phụng chờ lệnh Hồi sau, Nam Bình Vương vỗ tay ba tiếng làm tín hiệu, giơ cao lệnh kỳ, Hắc Ưng xuất hiện. Mật lệnh Điệp ảnh quân loan tin toàn thành, Nam Bình Vương thương nặng do quân Gia Định làm, toàn quân chuẩn bị, đại chiến Nguyễn Ánh Ánh sáng mờ ảo của ngọn nến trong Ngự thư phòng chiếu lên khuôn mặt vương giả, làm nổi bật vầng trán cao, ánh mắt sáng ngời của Hoàng đế Quang Trung. Trước mặt Nhà vua, một tấm bản đồ chiến lược đã được trải ra. Hoàng đế đã nghe tin tức mật báo về hành động của Nam Bình Vương Nguyễn Minh và dòng tin do "Điệp ảnh quân" báo cáo toàn bộ trong đó có đoạn Nhà vua chú ý: "Tuyệt diệt thủ lĩnh Nam Bình quân. Cướp lấy chuỗi Huyết ấn, để lại chứng cứ quân Gia Định" và toàn thành đang xôn xao Nam Bình Vương bị Nguyễn Ánh thích sát.. Một nụ cười hiện lên trên gương mặt sắc sảo của Nhà vua. Hoàng đế thì thầm một mình, đôi mắt sáng lấp lánh như sự tương thông giữa hai suy nghĩa thiên tài. Ông khẽ đặt nội dung tin tức tấu báo xuống án thư, lòng thì thầm: Rắn đã ra khỏi hang, huyết án Bắc Bình Vương phủ 1786 năm xưa sắp có lời giải. Hoàng nhi của Trẫm đã để Chủ mưu tự bại lộ.. Kế hoạch táo bạo không hề đơn giản, dấu vết mờ nhạt nhất, Nhi tử của Trẫm đã lôi ra mọi bí mật, nhưng điều quan trọng hơn cả là.. Hoàng nhi đã kéo được bọn loạn thần vào chính trận chiến này, không có đường lui, dù chúng cũng khá giảo quyệt, đổ hết dấu vết cho Gia Định quân.. Một nụ cười mỉm thoáng hiện trên gương mặt Hoàng đế, ánh mắt sáng ngời, vừa đầy sự thấu hiểu, vừa mang một niềm tự hào sâu sắc. Nam Bình Vương, hoàng nhi của Trẫm quả là kỳ nhân Cũng tại một mật thất sâu kín khác, ánh đèn lồng leo lét soi lên những bức tường đá phủ đầy rêu phong. Bên trong, một người đàn ông vận trường bào đen thẫm, mặt che nửa bởi chiếc mặt nạ ngọc, đang khoanh tay đứng trước án thư. Một tiếng cười khẽ bật ra, lan trong không gian u ám như tiếng cú rít đêm khuya: - Thằng nhóc Quang Minh thương nặng, chuẩn bị động binh Gia Định.. đã mắc mưu ta rồi. Giọng nói hắn khàn khàn như thể trộn lẫn với mùi máu và khói lửa. Trong tay, hắn siết chặt nửa mảnh ngọc còn lại - nửa con rồng xanh quấn quanh mặt trời đỏ. Ánh mắt lóe lên như mắt rắn nhìn mồi. Tiết xuân 1790, Nam Bình Vương phủ Từ lá thư kỳ dị ấy, từ kẻ nội thị bị bắt, từ những lời khai rời rạc, từ những dấu vết trong bóng tối.. Dưới ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu, thư phòng Nam Bình Vương Nguyễn Minh chìm trong tĩnh mịch, như nín thở trước cơn bão lớn. Tuy lòng dạ kiên cường như sắt đá, nhưng hôm nay, một nỗi bất an mơ hồ len lỏi trong tim Nguyễn Minh, khó lòng gột rửa. Những sự kiện rời rạc, những bức thư cũ kỹ tưởng như đã bị lãng quên, giờ đây dần dần hiện về, kết thành một mạng lưới âm mưu sâu thẳm, giăng bẫy trong bóng tối.. Ba bức mật thư như mũi giáo tẩm độc, đang cắm sâu vào ký ức của Nguyễn Minh. Bức thư đầu tiên, gửi đi vào đúng năm 1786, trước cả ngày Minh từ cõi chết trở về Phú Xuân, mang theo ký hiệu kỳ bí: Thanh Long Sơn. Một dấu hiệu không tên, không người nhận, nhưng chứa đựng mùi máu tanh phản bội. Bức thư này được tìm thấy trong một ngôi mộ cổ bị lãng quên trong khuôn viên của một đền thờ hoang vắng ở ngoại ô Phú Xuân. Mộ phần này, được cho là của một đại thần từng thân tín của Nguyễn Nhạc, đã qua đời từ nhiều năm trước. Trong ngôi mộ, phát hiện thư này cũng mang dấu hiệu đặc biệt của một tổ chức bí mật, có ký hiệu rõ ràng: Thanh Long Sơn, còn một miếng ngọc nhỏ vỡ đôi, bên trên có khắc nửa con rồng xanh quấn quanh mặt trời đỏ. Nội dung nhắc tới một âm mưu kinh thiên: Tung tin thất thiệt, nhân lúc Bắc Bình Vương Bắc tiến đánh thẳng Bắc Hà không nghe lệnh Thái Đức hoàng đế, tấu xin lệnh Nguyễn Nhạc, rồi hành hình trong đêm tối - mục tiêu không ai khác ngoài Quang Minh Hoàng tử, vị hoàng trưởng tử của Bắc Bình vương Nguyễn Huệ anh hùng. Mật thư thứ hai, như nhát dao trí mạng: Một mật lệnh trực tiếp chỉ đạo các nhánh thích khách tìm cách diệt trừ Nam Bình Vương vì lo sợ một ngày Vương gia lật mở toàn bộ màn kịch dối trá năm xưa, đổ cho quân Gia Định, nước đi khá cao minh, thâm sâu. Và mật thư thứ ba chính là lúc chàng đem thân mình làm mồi nhử lúc đi săn, thu được từ tên nội thị trẻ tuổi trong đám thích khách kia.. Trong khoảnh khắc đó, Nguyễn Minh biết rằng mình không chỉ phải đối mặt với một cuộc chiến tranh giành quyền lực, mà còn phải chiến đấu với những âm mưu sâu xa hơn, những kẻ thù ẩn mình trong bóng tối, luôn sẵn sàng giết chóc để đạt được mục đích. Chàng siết chặt chuỗi ngọc Huyết Thiên trong tay, tự nhủ rằng quyết tâm của mình đã vững như bàn thạch. Không có gì có thể ngăn cản được bước đi của một người mang dòng máu hoàng gia, nhất là khi sự thật về âm mưu đã dần dần hé lộ. Ánh trăng mờ ảo buông xuống những mái ngói đỏ tươi của cung điện, phủ bóng dài trên mặt đất vắng lặng. Phú Xuân vào thu, không khí trở nên se lạnh, chỉ có tiếng côn trùng kêu rả rích. Nguyễn Minh, Nam Bình Vương, khẽ bước trên hành lang tối om, lòng căng thẳng nhưng không một chút sợ hãi. Hành trình truy tìm sự thật đã đưa chàng đến gần hơn với những bí mật bị che giấu suốt bao năm. Chàng đã nắm trong tay tất cả các manh, mỗi thứ đều như một mảnh ghép của một bức tranh khổng lồ. Và giờ, chỉ còn một bước nữa, mọi thứ sẽ sáng tỏ, đó chính là: Nửa còn lại của miếng ngọc huyết có khắc nửa con rồng xanh quấn quanh mặt trời đỏ, chắc chắn kẻ chủ mưu, một quyền thần quyền nghiêng chiều giả, cũng là Chủ nhân của Thanh Long Sơn đang giữ Nguyễn Minh chăm chú đọc từng dòng báo cáo. Đến đoạn: "Thất bại, giấu mình tại Chùa Long Phụng" Chàng khẽ cười, bước ra ngoài. Một quả pháo hiệu xé toạc màn đêm, phụt sáng rực trên bầu trời. Không lâu sau, hai chiến tướng vận áo bào đen như thần tướng xuất hiện, quỳ một gối trước mặt. Nam Bình Vương giơ cao hổ phù, truyền lệnh: Điệp Ảnh Quân nghe lệnh. Mật kiểm Chùa Long Phụng. Phạm vi bán kính trăm dặm, không để sót một dấu vết. Hai tướng đồng thanh: Hạ thần tuân mệnh! Nam Bình Vương điện hạ thiên tuế! Lệnh ban ra, bóng hai tướng tan vào màn đêm. Đó là đêm trăng lạnh, tháng Giêng năm 1790. Ánh trăng tháng Giêng nhợt nhạt trải xuống Chùa Long Phụng, phủ một tầng sáng lạnh lẽo lên mái ngói rêu phong. Gió đêm thổi qua những hành lang đá cổ, mang theo tiếng tụng kinh trầm thấp như lời thì thầm vọng về từ cõi u linh. Trong bóng tối dày đặc, mười hai bóng đen lặng lẽ luồn mình giữa những rặng trúc rậm rạp - Điệp Ảnh Quân, những chiến binh tinh nhuệ nhất dưới trướng Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh. Nhận được mật lệnh, họ lập tức phong tỏa khu vực bán kính trăm dặm quanh Chùa Long Phụng. Từng bụi cỏ, từng hòn đá, từng vạt đất đều được rà soát tỉ mỉ như lật tìm từng sợi tóc. Đến canh ba, một đội viên báo cáo dấu vết khả nghi: Trong cánh rừng trúc phía tây bắc chùa, dưới một phiến đá lớn, phát hiện một khoảng đất lún bất thường. Hắc Ưng dẫn đầu tổ chủ lực đến kiểm tra. Gạt lớp rêu dày và bụi đất, họ phát hiện bên dưới phiến đá là miệng hầm nhỏ, vừa đủ cho một người chui lọt. Miệng hầm thở ra luồng khí lạnh, mang theo mùi ẩm mốc nồng nặc. Quanh đó còn vương vãi vài dấu chân mờ nhạt, như thể vừa có người ra vào không lâu. Không một lời thừa, Hắc Ưng ra hiệu. Đèn dầu lửa xanh đặc chế được thắp lên. Một nửa đội hình lập tức tiến nhập, một nửa ở lại cảnh giới. Mật đạo hẹp và tối, lòng hầm trơn trượt do nước ngầm thấm qua vách đất. Càng đi sâu, không khí càng lạnh và ngột ngạt. Ước chừng đi được hơn trăm trượng, mật đạo bất ngờ rẽ nhánh. Một nhánh hướng về phía sâu trong lòng núi, một nhánh khác dốc nhẹ, thoảng mùi gió ẩm từ xa vọng lại. Không lâu sau, họ dừng lại trước một cánh cửa đá kín mít. Dưới ánh đèn dầu, một vật nhỏ lóe lên nơi khe cửa - một mảnh bội ngọc vỡ đôi. Hắc Ưng cúi xuống, nhặt lấy. Nửa miếng bội khắc hình thanh long uốn lượn, bên dưới có dấu ấn kỳ lạ: Ba chữ nhỏ như rồng bay phượng múa - "Thanh Long Sơn". Cả đội đều biến sắc. Thanh Long Sơn - danh xưng một tổ chức thần bí, từng xuất hiện trong vụ loạn chốn kinh thành. Sau này mất tích không ai biết. Hắc Ưng siết chặt nửa miếng bội, ra hiệu phá cửa. Ầm - tiếng cơ quan đá chuyển động ầm ì trong lòng đất. Ước chừng đi sâu hơn trăm trượng, mật đạo mở rộng. Cuối đường, một cánh cửa đá đồ sộ chặn lối. Khéo léo mở ra, trước mắt họ hiện ra một hành lang lát đá xanh rộng rãi, thẳng tắp dẫn tới một khu phủ đệ nguy nga, tường cao vây kín, mái ngói chạm trổ lộng lẫy, ánh đèn lồng lập lòe trong đêm. Cả đội dừng lại, không ai dám tiến thêm nửa bước. Hắc Ưng thầm rúng động. Một cơ ngơi thế này, tuyệt không phải của hạng thường nhân. Chắc chắn chủ nhân phải là một quyền thần chốn triều đình. Nhưng đây là Phú Xuân, là kinh đô. Một sai sót nhỏ cũng có thể châm ngòi cho cơn sóng lớn nuốt chửng tất cả. Hắc Ưng siết chặt tay ra hiệu: Rút lui. Điệp Ảnh Quân âm thầm lùi lại, khéo léo che dấu mọi dấu vết. Đến khi quay trở về đại doanh, trăng đã xế về tây. Hắc Ưng ghi lại sơ đồ tạm thời, lập tức cho người phong tỏa mật đạo. Tin tức được bí mật gửi về đại doanh, trình lên Nam Bình Vương. Trong ánh đèn mờ, Nam Bình Vương trầm ngâm. Ánh mắt chàng sâu thẳm như biển đêm. Một quyền thần.. một mật đạo nối ra ngoài thành.. Cơn sóng ngầm, đã bắt đầu lộ những gợn đầu tiên. Tin tức về mật đạo được Hắc Ưng trình lên ngay trong đêm. Nguyễn Minh trầm ngâm hồi lâu trước ánh đèn dầu lặng lẽ cháy. Nam Bình Vương khẽ nhếch môi, nụ cười lạnh lẽo hiện lên trong ánh mắt sâu thẳm. Chàng giơ tay, gõ nhẹ ba tiếng lên mặt bàn. Ngoài cửa, một bóng đen quỳ rạp xuống - Hắc Ưng. Nguyễn Minh truyền lệnh, giọng thấp và chắc như lưỡi dao xuyên vào màn đêm: Tiếp tục âm thầm giám sát. Không được kinh động. Mật đạo, mỗi mươi bước đặt một ký hiệu ẩn. Ai ra vào, nhất nhất ghi lại. Không để sót. Hắc Ưng dập đầu, nhận lệnh. Ngoài sân, tiếng gió lạnh gào rú như tiếng oan hồn. Trăng tháng Giêng mỏng như lưỡi kiếm, treo cao trên bầu trời u tối. Cuộc săn lớn, đã bắt đầu. Điệp Ảnh Quân lập tức thay đổi phương án. Không động binh, không đột nhập. Thay vào đó, họ hóa trang thành dân phu, tiều phu, người bán hàng rong.. âm thầm giăng một mạng lưới kín đáo quanh phủ đệ. Ngày này qua ngày khác, từng gương mặt ra vào, từng chuyến xe chở vật phẩm, từng toán võ sĩ canh giữ.. đều được ghi lại tỉ mỉ. Sau hai mươi ngày đêm giám sát, một cái tên dần nổi lên từ những lời đồn đãi bí mật trong chốn kinh kỳ. Trong mật báo cuối cùng, Hắc Ưng ghi: Phủ đệ có mật đạo thông với mật đạo cách Chùa Long Phụng 5 dặm. Đã biết Chủ nhân Phủ đó, trình báo trực tiếp. Tình hình lực lượng: Ước chừng năm trăm gia binh. Cơ mật, kín đáo. Giao thiệp rộng với các quan viên nội triều Sau khi nghe Hắc Ưng và Điệp ảnh quân tấu báo trực tiếp toàn bộ, Nam Bình Vương siết chặt bản tấu, ánh mắt tối lại như vực sâu không đáy.. Thì ra chính là các ngươi, người đã truy cùng giết tận thân quyến, gia thuộc Hoàng trưởng tử của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ năm xưa.. Đêm Phú Xuân, trời không trăng, mây đen vần vũ như dự báo một biến động lớn. Trong đại điện lặng ngắt, ánh nến lung lay soi bóng hai cha con lên bức tường đá cổ kính. Nam Bình Vương, vận trọng giáp thâm lam thêu phù hiệu hổ phù, quỳ thẳng giữa chính điện. Trước bệ ngọc, Hoàng đế Quang Trung ngồi uy nghi, ánh mắt sắc như đao, lặng lẽ nhìn đứa con tài tuấn của mình. Trong tiếng gió rít xuyên mái ngói cổ, Nguyễn Minh trịnh trọng dâng bản mật tấu, giọng chàng vang lên trầm ổn nhưng mỗi chữ như chém xuống đất: - Phụ hoàng, sau khoảng thời gian điều tra những việc khả nghi, thần nhi đã lần ra toàn bộ âm mưu năm xưa. Huyết án Bắc Bình Vương phủ năm 1786 - kẻ chủ mưu chính là.. một quyền thần đương triều Không gian như nín thở. Ánh nến đỏ bừng phản chiếu gương mặt nghiêm lạnh của Hoàng đế. Nguyễn Minh tiếp lời, mắt sáng như băng tuyết: - Hắn giấu mình dưới lớp áo trung lương, ngấm ngầm tụ tập gia binh, vận dụng mật đạo, điều khiển nội thị, từng bước thanh trừng những ai trung với Tây Sơn ta. Hắn cũng chính là chủ nhân tổ chức Thanh Long Sơn, rất bí hiểm và không loại trừ nguy cơ chính biến phản loạn, dùng danh nghĩa giả mạo, gieo rắc huyết lệ để diệt trừ hoàng mạch, tuyệt diệt gia quyến của Hoàng trưởng tử Bắc Bình vương năm xưa. Chàng siết chặt tay, lời nói như trút nỗi căm phẫn dồn nén bao năm: - Mọi chứng cứ đã được thu thập. Người, vật, mảnh ngọc huyết, mật thư.. đều đủ cả. Xin phụ hoàng thẩm xét. Tấu báo xong, Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh cung kính trình toàn bộ hồ sơ huyết án Bắc Bình Vương phủ năm 1786 lên Quang Trung Hoàng đế. Ánh mắt hai vị hùng chủ gặp nhau, một dòng điện ngầm mang tên căm hận và quyết tâm như bùng nổ dưới vòm trời đêm Phú Xuân. Ánh nến trong Ngự thư phòng chập chờn như thoi đưa linh hồn những oan khuất ngàn xưa. Quang Trung hoàng đế, sau khi nghe tấu, đọc kỹ từng trang hồ sơ máu lệ, sắc mặt đại biến. Một cơn chấn động dữ dội, tựa cuồng phong quét qua thân hình uy mãnh của bậc anh hùng thiên cổ. Ngài bật dậy khỏi ngai vàng, tay siết chặt long ấn, ánh mắt đỏ rực như lửa thiêu trời: - Là ngươi! Chính là ngươi, tên phản thần tặc tử hèn hạ! - Thuở còn là Bắc Bình Vương, rồi sau này đăng cơ, Trẫm đối đãi ngươi không bạc! - Vậy mà ngươi.. ngươi lại dám tru diệt toàn bộ gia quyến Hoàng trưởng tử của Trẫm, chỉ để thỏa lòng tham vọng đê tiện! Tiếng nói như sấm rền, vang dội khắp điện ngọc trống trải. Nhà vua ngửa mặt lên trời, một dòng lệ uất nghẹn không kìm được, tuôn ra, hòa tan vào bóng đêm vô tận. - Thiên lý ở đâu? Quốc pháp ở đâu? - Quang Trung hoàng đế ta, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ năm xưa, một đời anh hùng diệt Trịnh, Bình Nguyễn, đại phá Xiêm Thanh, thống nhất sơn hà, dựng nghiệp cho lê dân. - Vậy mà chỉ trong một đêm đẫm máu, thân quyến Hoàng nhi của Trẫm chết sạch! Quang Trung ngừng lại, ánh mắt đẫm lửa quay sang Nguyễn Quang Minh, từng lời như chém sắt: - Chỉ còn Hoàng nhi của Trẫm, Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh, còn gắng gượng quay về bên Trẫm Tiếng thét xé tan màn đêm, khiến đàn chim đêm ngoài Ngự thư phòng kinh hãi bay tán loạn như vỡ tổ, đám nội thị quỳ rạp, mặt mày nhợt nhạt, mồ hôi đổ ướt áo. Trong cơn phẫn nộ trào dâng, Quang Trung Đế bước xuống bệ ngọc, siết chặt vai Nguyễn Minh như muốn truyền trọn cả một trời hận thù và tình thương: - Minh nhi.. vất vả cho Hoàng nhi của Trẫm rồi. Giọng Quang Trung hoàng đế trầm xuống, tựa như tiếng chuông nặng nề từ thẳm sâu đất trời: - Trẫm thề! - Dù bọn chúng là ai, thế lực ra sao, dù phải đào ba tấc đất, lật trời xới biển, Trẫm cũng sẽ tru di cửu tộc bọn phản thần và bè đảng cấu kết. - Không để một mầm họa nào còn sót lại giữa trời Nam này! - Trẫm sẽ trả lại cho gia quyến con, cho Bắc Bình Vương phủ, cho lê dân Đại Việt này một lời xin lỗi Trong bóng tối dày đặc, lời thề của bậc đế vương lồng lộng vang lên, như một đạo sắc lệnh khắc sâu vào vận mệnh giang sơn.
Chương 4. Nam Bình Vương Đại Phá Tam Tướng Gia Định Đại điện Phú Xuân - Mùa hạ tháng 4 năm Canh Tuất 1790 Tiếng trống hội ba hồi vang rền. Ánh nắng đầu xuân chan hòa khắp Phú Xuân, từng rặng liễu, bãi lau như khoác lên mình lớp áo mới tinh khôi. Hôm ấy, trong Điện Cần Chính, Quang Trung hoàng đế mở đại triều. Bá quan văn võ chỉnh tề triều phục, từng hàng ngay ngắn chầu hai bên. Không khí vừa trang nghiêm vừa hừng hực khí thế thời mở nước. Trên ngai vàng, Quang Trung hoàng đế mặc long bào màu đại hồng thêu hình rồng bay cuộn mây, thần sắc uy nghi mà gần gũi. Bên dưới, Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh đứng bên hữu, uy phong lẫm liệt, ánh mắt như lưỡi kiếm sáng. Giữa lúc quần thần đang đồng thanh chúc tụng "Hoàng thượng vạn tuế, quốc vận trường tồn", thì bỗng nhiên, từ ngoài Ngự môn, một viên nội thị hớt hải chạy vào, hai tay dâng mật hàm: Khải tấu bệ hạ! Tin khẩn từ trấn Bình Thuận! Không khí trong điện lập tức lắng đọng lại. Quang Trung đế nhíu mày, tay khẽ phẩy: Dâng lên! Nội thị quỳ dâng mật hàm. Quang Trung cầm lấy, ánh mắt lướt nhanh qua từng dòng. Chỉ trong khoảnh khắc, sắc mặt Ngài tối sầm lại như trời nổi giông. Một tiếng "bốp" vang lên khi long ấn trong tay nhà vua nện mạnh xuống án thư. Ngài trầm giọng, như tiếng sấm đầu mùa: Nguyễn Ánh, thằng giặc ấy, đang tập trung binh mã ba vạn, chuẩn bị đánh thốc vào Bình Thuận, các tướng Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh xin cứu viện.. Toàn bộ bá quan ồ lên, Thượng thư Bộ Binh, Tả Hữu đô đốc.. đều nghiêm mặt. Bình Thuận nếu mất, Phú Xuân sẽ nguy ngập như ngọn nến trước gió. Quang Trung siết chặt tay, mắt đỏ rực, như đấu tranh giữa mối thù riêng rực cháy và đại cục giang sơn trước mắt. Giữa bầu không khí đặc quánh, Quang Trung hoàng đế siết chặt tay áo, mắt đỏ rực tựa chiến thần nổi giận. Ngài quay nhanh sang phía Nam Bình Vương, giọng dội vang giữa điện: Minh nhi! Có tấu báo gì trọng yếu nữa không? Nguyễn Quang Minh quỳ thấp, trán chạm đất, đôi mắt chợt lóe lên ánh lửa hận thù, nhưng rồi lập tức thu lại, trấn định như mặt hồ sâu thẳm. Chàng dập đầu kính cẩn: Bẩm phụ hoàng, hiện thời, giặc Nguyễn Ánh đang manh động tại Bình Thuận, nguy cấp trước mắt. Nhi thần nguyện xin lĩnh binh thân chinh, phá tan giặc thù trước để ổn định đại cục, cứu nguy Bình Thuận. Trong thâm tâm, Nam Bình Vương hùng tài hiểu: Huyết án Bắc Bình Vương phủ là vết thương chưa lành, nếu tấu trình lúc này, sẽ làm kinh động toàn triều, không có lợi cho việc đánh sập bè lũ Thanh Long Sơn.. Quang Trung hoàng đế chăm chú nhìn con trai, ánh mắt nhuốm đầy yêu thương và kiêu hãnh. Ngài trầm giọng: Tốt! Đại nghĩa đặt lên trên hết, mới xứng làm rường cột nước nhà Rồi ngài phất tay áo long bào, hạ chiếu: Lệnh Nam Bình Vương thống lĩnh hai vạn tinh binh, kỵ binh và hỏa pháo, thần tốc đánh thẳng cứu nguy Bình Thuận! Nguyễn Minh quỳ xuống, thanh âm như sóng trào: Nhi thần lĩnh chỉ, tạ ơn hoàng thượng! Tiếng hô "Tuân chỉ!" của toàn bộ bá quan vang dội khắp đại điện, làm chấn động cả thành Phú Xuân. Gió hạ nổi lên như điềm báo trận phong ba sắp ập tới miền Trung. Vua Quang Trung Nguyễn Huệ khoác long bào, bước từng bước dứt khoát xuống điện. Trước mặt ông, Nam Bình Vương vận chiến bào đen lam, tay đeo bao tay da, vai đeo vũ khí lạ, đầu ngẩng cao, mắt sáng như dải ngân hà. Ánh mắt vị đế vương giàu lòng nhân ái nhưng dày dạn máu lửa không giấu nổi tự hào: "Minh nhi, hôm nay Hoàng nhi ra trận, không phải như một tướng. Mà như một ngọn cờ. Hoàng nhi mang trong người thứ ánh sáng chưa từng thấy. Vậy thì thắp nó lên đi! Dùng chính thứ lửa con mang theo, thiêu rụi mộng bá đồ vương của Nguyễn Ánh!" Quang Trung rút Bình Nam kiếm khỏi vỏ, ánh thép lóe lên như một lời tuyên cáo giữa trời: "Thanh kiếm này đã theo Trẫm Nam chinh Bắc chiến, đã rửa hận Đống Đa, đánh bại Mãn Thanh. Giờ nó là của con" Nguyễn Minh quỳ gối, giọng chắc như đinh đóng cột: "Tâu Bệ hạ, thần không dám hứa sẽ toàn thắng, nhưng thần xin thề: Sẽ không để giặc Ánh tiến thêm một bước!" Quang Trung đặt tay lên đầu nhi tử yêu quý của Nhà vua, mắt ánh lên niềm hy vọng chưa từng hé lộ với bất kỳ ai: "Đi đi. Phía trước Hoàng nhi là chiến trường. Sau lưng con là vận mệnh một triều đại." Ngay hôm ấy, đạo quân đặc biệt do Nguyễn Minh chỉ huy rời Phú Xuân, chỉ trong ba ngày ba đêm, dùng ngựa chiến được huấn luyện theo chiến pháp mới, mang theo vũ khí bí mật chế tạo tại xưởng Phượng Hoàng Sơn - nơi Minh âm thầm chỉ huy thợ rèn và binh lính trung tín làm theo thiết kế hiện đại hóa. Đến Diên Khánh, Minh nhận được tin do Điệp Ảnh quân tấu trình: - Bẩm Nam Bình Vương điện hạ: Võ Tánh dẫn quân vượt Phan Rí từ hướng biển, Lê Văn Quân tiến theo đường quốc lộ từ phía Bắc, Nguyễn Văn Thành hành quân vòng qua phía Tây hòng đánh úp từ sườn núi. Phòng thủ phi truyền thống - Trận Phan Rí rung chuyển trời Nam Tại Bình Thuận, Nguyễn Minh chia quân thành ba mũi đối xứng hình cánh cung, đào sẵn công sự sâu, rải mìn hỏa pháo kiểu ống dẫn nổ cơ học do chàng cải tiến từ nguyên lý thuốc súng. Ở ba ngọn đồi chiến lược, Minh cho dựng tháp cao lắp kính viễn vọng - lấy từ vật dụng mang theo khi xuyên thời gian, để theo dõi toàn bộ địa hình từ hơn ba dặm. Quân Tây Sơn ngơ ngác không hiểu, nhưng Minh không giải thích - chỉ ra lệnh rèn luyện theo cách chưa từng thấy: Hành quân theo đội hình rút-lưới, thay đổi thế trận theo hiệu lệnh đèn lửa ban đêm, pháo hiệu và chuông đồng ban ngày. Đêm ngày 13 tháng 4 năm Canh Tuất, 1790 ba cánh quân Nguyễn Ánh đồng loạt đánh vào Phan Rí. Nhưng ngay khi vừa tiến vào thung lũng, trận địa lôi được kích hoạt bằng hệ thống chốt đạp cơ học, khiến lửa bùng lên như trời giáng, hàng ngàn quân giặc bỏ mạng. Phía đồi, hỏa tiễn thô sơ do Minh thiết kế - dùng cơ cấu kéo-bật bằng bánh răng, phóng ra từng loạt lửa rực đỏ, tạo ảo giác như pháo binh thật sự. Võ Tánh bị thương nơi đùi. Lê Văn Quân hoảng loạn rút chạy, nhưng bị phục binh Tây Sơn do Lý Văn Bưu chặn đánh giữa rừng mai. Trận Phan Rí - Bẫy thiên địa, lưới tử thần Nguyễn Minh đứng trên đỉnh núi Cà Ná, gió biển thổi phần phật áo chiến. Dưới chân chàng, trận đồ ba tầng cánh cung đã giăng xong. Hơn ba vạn quân Nguyễn Ánh đang tiến vào một vùng đất tưởng chừng trống trải - nhưng thật ra là bãi tử địa Minh đã bố trí suốt ba ngày ba đêm, bằng chiến thuật "mê lộ - lôi trận - hỏa châu". "Địch đông, nhưng tâm loạn. Ta ít, nhưng trí sáng. Trận này, chỉ cần một phát súng - ba con cờ đổ." Ban đêm - Minh dùng kính viễn vọng xác định vị trí ba tướng địch. Ban ngày – đội cảm tử đào hầm hỏa lôi, cắm cọc tre tẩm nhựa thông, xếp thuốc súng theo cấu trúc từng học trong sách vật lý quân sự hiện đại. Ngày 14 tháng 4 năm Canh Tuất, lúc 05 giờ sáng, khi ánh rạng đông còn mờ trên triền cát đỏ, ba vạn quân Nguyễn Ánh rầm rập kéo qua thung lũng Phan Rí, toan đánh thốc vào Bình Thuận. Không ngờ, nơi tưởng như địa hình trống trải lại là một mê trận bẫy chờ sẵn Nguyễn Minh lặng đứng sau chiến lũy, ánh mắt sắc lạnh. Gió biển quét rát da thịt. Khi giặc lọt trọn vào thung lũng, chàng hô to: "Kích hỏa! Rút lưới!" Chớp mắt, lửa bốc lên rừng rực, mìn nổ vang trời, khói bụi che kín trời. Quân Nguyễn hoảng loạn, hàng ngũ rối loạn trong biển lửa và bẫy chông. Ngay lúc đó, tín pháo đỏ từ phía bắc bắn lên trời - tín hiệu mở thành. Từ hướng Bình Thuận, cổng thành phía nam bật mở. Cánh quân do Nguyễn Văn Danh chỉ huy, mặc giáp nhẹ, cưỡi ngựa nhanh, kéo ra như vũ bão. Danh cầm đại đao, hét vang: "Tuân lệnh Nam Bình Vương! Chia lửa cùng chủ soái! Diệt sạch giặc Nguyễn Ánh!" Chỉ trong chớp mắt, toàn bộ thung lũng biến thành địa ngục trần gian. Lửa bùng lên ngùn ngụt từ các bẫy hỏa tiễn giấu dưới cát, khói đen đặc cuồn cuộn bốc cao che lấp cả bầu trời, mùi thịt cháy lan trong không khí ngột ngạt. Quân giặc hoảng loạn, bị chia cắt, rối đội hình giữa biển lửa và hầm mìn. Tiếng la hét, tiếng ngựa hí, tiếng binh khí va chạm vang rền như sấm dậy. Chính giữa khu địa đạo được đào sẵn, Nguyễn Minh cưỡi trên chiến mã, vác cây súng bắn tỉa M700 Remington được chàng cải tiến, lắp kính ngắm quang học. Dưới ánh lửa phản chiếu, chiến bào đẫm sương đêm, dáng chàng như vị chiến thần giáng lâm. Tay ghì súng chặt vào vai, Nguyễn Minh ngắm lạnh lùng: "Kẻ trước tiên – Võ Tánh. Lão là trụ cột của chúng." PẰNG! Tiếng súng như tiếng sét xé toang không gian. Võ Tánh trúng đạn vào vai phải, gục khỏi yên ngựa, máu phun ra thành dòng. Chưa kịp ai cứu, Nguyễn Minh đã chỉnh súng, ngắm tiếp: "Lê Văn Quân – tâm tham, thân trọng. Khi sợ hãi mới lộ sơ hở!" PẰNG! Lê Văn Quân bị bắn gãy cánh tay. Đám quân lính lao tới cứu, dẫm trúng mìn, cả đội hình nổ tung trong lửa và cát. Nguyễn Minh siết cò một lần nữa: "Nguyễn Văn Thành – thông minh nhưng bất đắc chí. Để xem trí khôn nhà ngươi có cứu nổi mạng không!" PẰNG! Thành trúng đạn vào bắp chân trái, ngã lăn xuống gò đất, quằn quại. Không còn người chỉ huy, quân Nguyễn Ánh tan vỡ như đàn ong vỡ tổ. Gần hai vạn quân tử trận, số còn lại hoặc đầu hàng hoặc bị bắt sống. Cờ trắng giăng kín những dải cát cháy đen. Ba tướng trụ cột gục ngã, quân Nguyễn vỡ thế, không còn sức phản kháng. Từ hai cánh Nam Bình quân và quân Bình Thuận khép vòng, biến thung lũng Phan Rí thành cối xay máu. Tiếng hô chém giết, tiếng ngựa hí, tiếng pháo nổ hòa thành khúc khải hoàn đẫm máu. Chỉ trong nửa buổi sáng, hai vạn quân địch bỏ mạng, hàng nghìn đầu hàng, cờ trắng giăng đầy trên cát cháy. Nguyễn Văn Thành, kẻ từng can gián Nguyễn Ánh không nên mở chiến dịch này, giờ bị quân cảm tử Nam Bình quân bao vây. Chính Nguyễn Minh, mình bận chiến bào xanh thẫm, cưỡi chiến mã, rút thanh kiếm gương sáng chói, thúc ngựa lướt như sét đến trước mặt Thành. Ánh thép lóe lên, Minh thét lớn: "Bỏ vũ khí, Thành! Ngươi bại rồi!" Giữa ánh lửa đỏ rực và tiếng hò reo chiến thắng của Tây Sơn binh, Nguyễn Văn Thành rã rời, buông kiếm, quỳ xuống trước ánh mắt kinh hoàng của hơn ba nghìn quân còn sống. Thành Bình Thuận, giờ Thìn, ngày 15 tháng 4 năm Canh Tuất 1790. Trời trong xanh, mùi khói súng còn vương trên cát. Cổng thành phía bắc mở rộng, cờ xí rợp trời, trống đồng dồn dập, chiêng đồng ngân vang như đón thiên tử. Dẫn đầu đoàn quân khải hoàn là Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh, thân khoác chiến bào nhuốm bụi đỏ và vệt máu, oai phong cưỡi chiến mã bạch sắc, sau lưng là kỵ binh Nam Bình chiến thắng trở về. Ánh mặt trời chiếu lên áo giáp, phản chiếu ánh kim rực rỡ. Nguyễn Văn Danh và Nguyễn Văn Huấn đã quỳ sẵn trước cổng thành, đầu đội mũ trụ, áo giáp chỉnh tề. Thấy bóng Vương từ xa, hai tướng liền cùng hô lớn, giọng vang vọng cả thành trì: "Chúng thần Danh, Huấn kính nghênh Nam Bình Vương điện hạ khải hoàn!" Nguyễn Minh xuống ngựa, tiến đến, đỡ hai tướng dậy, mắt ánh lên niềm xúc động: "Trận này là nhờ các khanh giữ vững thành, phối hợp thần tốc. Danh, Huấn đều là trụ cột quốc gia. Bổn Vương cảm kích." Tiếng reo hò vang dội. Người dân Bình Thuận, già trẻ lớn bé, ùa ra từ các con phố, tay cầm hoa, cờ vải, reo vang: "Quang Trung hoàng đế vạn tuế, Nam Bình Vương thiên tuế! Quan quân Tây Sơn đại thắng!" Bà lão tóc bạc rưng rưng nước mắt, dâng lên Vương khay nước dừa và bánh tét: "Ơn Vương cứu dân, cứu thành, đời đời không quên!" Trẻ nhỏ chạy theo kỵ binh, hò hét vui mừng. Cờ Tây Sơn tung bay khắp nơi, nhuộm đỏ cả thành trì. Nguyễn Minh nhìn khắp cảnh tượng, lòng rưng trào. Chàng quay sang dân chúng, cất cao giọng dõng dạc: "Bình Thuận đã giữ. Phan Rí đã bình. Giờ là lúc ổn định lòng dân, lệnh hai tướng Danh, Huấn cùng dân sửa sang thành trì, dọn dẹp tàn tích, phát gạo cứu dâng, vài ngày sau Bản vương sẽ về kinh bẩm báo Phụ hoàng.." Tiếng hò reo vang rền như sấm. Khí thế cả thành như muốn cuộn sóng. Bình Thuận - ngọn lửa đầu tiên của đại thắng nam chinh - đã được khơi lên. Ngày 15 tháng 5 năm Canh Tuất 1790, quân chiến thắng rầm rộ hồi Phú Xuân. Trên lưng ngựa, Nguyễn Minh dẫn đầu, sau lưng là hơn 5.000 tù binh - trong đó có cả Võ Tánh, Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành bị thương đã được cứu chữa, cả Phú Xuân như rực sáng bởi cờ hoa, trống nhạc, và tiếng người vang trời. Quang Trung Đại đế cưỡi voi bạch tượng dẫn đầu, uy nghiêm như thiên thần giáng thế. Phía sau là Nam Bình Vương hoàng tử áo giáp đen, ánh mắt sáng như lửa, tay cầm chiếc máy hình hiện đại, chẳng giống ai trong đám đông Đoàn quân Tây Sơn tiến hành duyệt binh một cách lẫm liệt, đội ngũ chỉnh tề, trống kèn rền vang, cờ xí bay phấp phới. Tiếng hò reo và tiếng chúc mừng của dân chúng vang lên khắp nơi, họ đứng hai bên đường, không ngừng tung hoa lên trời, như mưa ngọc chảy tràn khắp mặt đất. Dân chúng từ Quảng Trị, Quảng Nam, đến Thừa Thiên kéo về Phú Xuân như thác đổ. Ai cũng mang theo hoa, bánh trái, cả thơ văn tự làm để ca tụng Nhà vua và Nam Bình Vương Lời ca của dân chúng vang tận ngọ môn: "Chiến thần trở gót về kinh Non sông nguyên vẹn, lòng dân nguyện thờ Trời cho đất có anh hùng Là vua Nguyễn Huệ, là rồng Minh nhi!" Cảnh tượng ấy, người già kể lại cho cháu, kẻ viết sách chép vào sử. Dân ca lưu truyền đời đời, như một thiên anh hùng ca của một triều đại sinh ra từ nhân dân, chiến thắng vì nhân dân, và được nhân dân muôn đời khắc cốt ghi tâm. Mọi ánh mắt đều hướng về Nam Bình Vương, người con kiệt xuất của Quang Trung, như một vị anh hùng mới của đất nước. Nhưng điều khiến dân chúng càng thêm kinh ngạc là khi Nguyễn Minh bước xuống từ chiến mã, cầm trong tay chiếc máy hình - thứ mà họ chưa từng thấy. Minh đưa chiếc máy lên, nhắm đúng ba tướng bại trận đang đứng xa xa cùng các tướng lĩnh Tây Sơn – ánh sáng lóe lên trong khoảnh khắc, và tiếng "click" của máy ảnh vang lên như một âm thanh lạ lẫm giữa không gian lịch sử, khiến mọi người đờ ra, không hiểu chuyện gì xảy ra. Từng người lính Tây Sơn đều dừng bước, ngơ ngác nhìn nhau, không biết chuyện gì vừa xảy ra. Họ xôn xao bàn tán về chiếc "hình thụy" kỳ lạ mà Nam Bình Vương vừa sử dụng. "Chuyện gì thế? Nó làm gì vậy? Thứ này có thể ghi lại hình ảnh sao?" Màn duyệt binh kết thúc trong tiếng hò reo rộn ràng, nhưng ánh mắt của Quang Trung và Nam Bình Vương vẫn sáng ngời, như một biểu tượng vĩ đại cho những gì đất nước có thể đạt được, không chỉ bằng chiến tranh, mà còn bởi sự đổi mới và trí tuệ vượt thời gian. Đại điện Thái Hòa chật kín bá quan. Quang Trung ngự ngai rồng, thần sắc rạng ngời nhưng ánh mắt chỉ chăm chăm dõi theo Minh nhi. Nguyễn Minh quỳ xuống, dâng sớ báo công: "Tâu Bệ hạ, quân ta đã đập tan ba đạo quân xâm lược, bắt ba tướng, giữ vững Bình Thuận. Dân chúng an ổn, thành lũy đã được gia cố. Xin giao tù binh cho triều đình phán xét." Quang Trung bước xuống, không giữ hình tượng bậc đế vương, nâng người con yêu quý của Nhà vua dậy giữa đại điện. "Minh nhi, Hoàng nhi không chỉ giữ đất, đã giữ luôn cả hồn nước. Một mình đánh tan ba đạo quân, bắn thương ba tướng bằng vũ khí chưa từng thấy, lập nên chiến công vang dội ngàn năm chưa ai từng làm nổi!" Cả triều vang tiếng: " "Quang Trung hoàng đế vạn tuế, Nam Bình Vương thiên tuế! Tây Sơn đại thắng!" Giữa đại điện Phú Xuân, ba tướng Võ Tánh, Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành đang quỳ phục trước sân rồng. Ánh mặt trời tháng Tư chiếu qua lớp mây mỏng, soi rõ mồ hôi lạnh rịn khắp trán ba người. Không ai lên tiếng, chỉ có tiếng bước chân Nguyễn Minh, nhẹ nhưng vang như sấm trong lòng họ. Nguyễn Minh dừng lại giữa đại điện, nhìn thẳng vào ba tướng, giọng trầm ấm nhưng lạnh lẽo như thép mài qua sương: "Ba vị - là trụ cột dưới trướng Nguyễn Ánh, từng khiến bao trận Tây Sơn phải nhọc lòng. Hôm nay bại dưới tay ta, không phải vì các ngươi yếu.. mà vì vận nước đã đổi." Võ Tánh cúi đầu, nghiến răng nhưng không phản kháng. Nguyễn Văn Thành khẽ thở dài. Chỉ riêng Lê Văn Quân, cố vớt chút sĩ diện: "Nếu là Nguyễn Vương, có bắt được các tướng như Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu.. e rằng.. chẳng ai còn đầu mà về." Nguyễn Minh bật cười, một nụ cười sắc lạnh như gươm tuốt khỏi vỏ: "Các ngươi nói đúng. Nguyễn Ánh - nếu có quyền, sẽ tận pháp trừng trị. Ông ta giết không tha, dù đó là nữ tướng hay hài nhi còn bú mẹ. Nhưng ta.. không phải Nguyễn Ánh." Cả triều lặng đi. Võ Tánh bất giác ngẩng đầu – ánh mắt y ánh lên nỗi sợ, không phải vì Minh, mà vì lời hắn nói – như thể người này đã đọc được tương lai! Nguyễn Minh bước tới trước ngai rồng, quỳ xuống, tay cầm kiếm đặt ngang trán, tâu lớn: "Tâu Bệ hạ! Ba tướng tuy là kẻ địch, nhưng dám xông pha trận mạc, giữ lòng trung với chủ. Lại biết cúi đầu khi thua, không ngụy trá. Thần xin Bệ hạ rộng lượng ban cho một chữ 'tha' - để lấy chính nghĩa mà cảm hóa thiên hạ!" Quang Trung hoàng đế vuốt râu, nhìn nhi tử của Nhà vua bằng ánh mắt hài lòng. Bao năm chinh chiến, ông hiểu: Tha một kẻ địch, đôi khi còn mạnh hơn vạn lưỡi gươm. Ông đứng dậy, rút Thanh Long bảo kiếm, gõ xuống sàn ba tiếng: "Ba tướng, vì Nam Bình Vương mà ta ban lệnh tha. Nhưng hãy nhớ: Hôm nay ta tha là vì giữ nghĩa. Ngày sau nếu còn tái phạm, chính tay trẫm sẽ không dung tha!" Ba tướng dập đầu, không dám ngẩng mặt. Mồ hôi trên lưng họ đã lạnh đến tận xương sống. Đêm hôm đó, trên lầu Ngự Lan, ánh trăng vàng rọi xuống hai bóng người - một mặc long bào thêu rồng đỏ, một giáp đen ánh bạc, vai còn vết máu trận. Quang Trung đứng bên lan can, rót rượu, đưa cho cháu: "Minh nhi.. trận này con thắng bằng trí, bằng tâm, bằng đạo. Lúc đánh Thanh, trẫm một thân một kiếm, giờ có hoàng nhi.. thấy lòng an định biết bao." Nguyễn Minh kính cẩn nâng chén, mắt ánh lên kiên định: "Tâu Bệ hạ.. Thần nguyện cùng người dựng cột nước từ Phú Xuân tới tận Gia Định, mang ánh sáng Tây Sơn phủ khắp sơn hà." Hai chén chạm nhau - một tiếng vang lan xa trong đêm, vọng tới tận lòng dân chúng. Sau khi được tha tội, ba tướng Võ Tánh, Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành được giam lỏng tại Phú Xuân, chờ định đoạt tương lai. Một ngày, Nguyễn Minh thân chinh đến thăm, không phải để tra hỏi, mà để trò chuyện. Trong phòng khách giản đơn, Minh khoanh tay sau lưng, nhìn ba tướng nói bằng giọng vừa hòa nhã, vừa buốt lạnh như gió bấc: "Ta nể các người - sống có trung, chết có tiết. Nhưng tiếc thay.. trung sai chỗ, tiết đặt nhầm người." Võ Tánh nghiêm mặt, thẳng thắn đáp: "Nguyễn Vương là người có đức có tài, giữ lòng vì dân. Chúng tôi theo Ngài là thuận trời." Minh nhếch môi, ánh mắt như soi thấu tâm can họ: "Người các vị gọi là 'Nguyễn Vương', chính là kẻ từng hai lần cầu viện ngoại bang - trước là Xiêm, sau là Pháp. Trận Rạch Gầm - Xoài Mút, mấy chục ngàn quân Xiêm bị Tây Sơn đánh tan tác, là tội ai? Chẳng phải chính Nguyễn Ánh rước voi dày mả tổ, khiến trăm họ miền Tây chết chìm trong máu? Đó là 'vì dân' sao?" Ba tướng lặng người. Lê Văn Quân thở dài: "Nguyễn Vương làm vậy.. vì thế yếu, phải mượn thế để tồn." Minh gằn giọng, bước tới sát bàn: "Thế yếu ư? Nếu ai cũng yếu thì được quyền bán nước, thì tổ tiên chúng ta giữ non sông này để làm gì? Lịch sử không tha thứ cho kẻ nào cõng rắn cắn gà nhà. Và con cháu kẻ ấy - cũng sẽ mang tiếng nghìn đời." Nguyễn Văn Thành mặt tái đi, Võ Tánh cụp mắt, không dám cãi thêm. Trong họ, dường như một phần niềm tin lung lay trước lời Nguyễn Minh - người tuổi còn trẻ, nhưng lời như đinh đóng cột, hào khí rực lửa của Quang Trung thuở nào. Nguyễn Minh dừng lại, giọng chậm rãi: "Các người thua - không phải vì vũ khí hay binh lực. Mà vì đi ngược lòng dân". Còn Tây Sơn, dưới tay Hoàng đế Quang Trung - Đại đế của trăm họ, người mà sử sách sau này sẽ tôn là bậc vĩ nhân trấn quốc - Chúng ta sẽ nhất thống sơn hà, dựng một Đại Việt không còn chia rẽ bởi họ Trịnh hay Nguyễn, không còn máu đổ vì lòng riêng. " Ngoài cửa, một cơn gió thổi qua. Lá vàng bay theo gió như ngả mình trước đạo lý. Sau khi phơi bày chuyện Nguyễn Ánh từng rước quân Xiêm, Nguyễn Minh ngẩng đầu nhìn ba tướng, giọng trầm hẳn lại: " Võ Tánh - ngươi nổi tiếng dũng mãnh, đánh đâu thắng đó. Nhưng nếu ta đoán không sai, sau này ngươi sẽ chết khi thủ thành, vì bị vây đến cùng đường. Ngươi có muốn biết.. cái chết ấy sẽ đau đớn thế nào không? " Võ Tánh trừng mắt, nhưng đồng tử bất giác co lại. Minh vẫn bình thản: " Lê Văn Quân - là tướng thân tín, có công đầu từ thuở Nguyễn Ánh còn lưu vong. Nhưng cuối đời.. Ngươi sẽ chết tức tưởi, thân thể chẳng toàn, máu nhuộm đất Gia Định. Tin không? " Lê Văn Quân tái mặt, toát mồ hôi, không dám trả lời. Minh tiến tới chỗ cuối cùng - Nguyễn Văn Thành - người nổi tiếng học rộng, văn võ song toàn. Minh nói chậm rãi, từng từ như mũi kim đâm thẳng vào tim: " Ngươi - người mà sử sách gọi là cẩn trọng, nghiêm minh, thế nhưng.. Sau này sẽ chịu oan, con trai chết, ngươi bị ép uống thuốc độc tự tận. Và kẻ bức tử ngươi.. không ai khác, chính là 'con cháu' của Nguyễn Ánh! " Nguyễn Văn Thành run rẩy, sắc mặt trắng bệch. Cả ba không ai dám hỏi vì sao Nam Bình Vương đoán biết vậy, chỉ thấy trước mắt mình là một thiếu niên mới vừa tròn mười chín tuổi mà ánh mắt như đã sống qua cả trăm năm lịch sử, lạnh lùng, sâu thẳm. Nguyễn Minh lặng một lúc, rồi quay đi, buông một câu cuối: " Ta tha các ngươi không phải vì thương, mà để các ngươi còn sống mà thấy.. Ai mới là người thật sự dựng nước, giữ nước. " Tiếng bước chân của Minh vang xa, hòa trong tiếng chuông chùa vọng từ xa - như gõ một hồi trống cảnh tỉnh giữa thời loạn. Ba tướng - kẻ toát mồ hôi, người gục đầu, kẻ thở dốc. Không phải vì thua trận, mà vì đã đứng trước một vị" hậu nhân "- còn nguy hiểm và sắc sảo chẳng kém gì Quang Trung năm xưa. Gia Định, tháng năm Canh Tuất 1790. Tại dinh Bảo Long, Nguyễn Ánh ngồi trên sập gụ, sắc mặt tối sầm. Trước mặt ông, ba đại tướng vừa trở về từ Bình Thuận quỳ rạp, thân thể vẫn còn vết thương, ánh mắt hằn rõ sự thất thần. Võ Tánh là người đầu tiên cất lời, giọng khàn khàn như vừa sống sót từ cõi chết: " Khải tấu.. Thất bại là do ta. Địch quân.. không giống người thường. Chúng biết trước lộ trình hành quân, địa hình mai phục, thậm chí cả chiến pháp mà ta chưa dùng tới. " Nguyễn Ánh cau mày:" Ngươi nói.. Tây Sơn đoán trước cả mưu của ngươi? " Nguyễn Văn Thành cắn răng, nói tiếp: " Không phải đoán.. mà như thể hắn biết từ trước. Người cầm quân tên là Nguyễn Minh – cháu ruột Quang Trung. Mới mười chín tuổi mà thao lược sâu không đáy. Hắn dùng loại vũ khí bắn xa hàng trăm bước, sát thương kinh hồn, lại còn ra lệnh thông qua loại ống phát thanh không dây - Thần chưa từng thấy thứ gì như thế! " Nguyễn Ánh giật mình:" Con ruột.. Quang Trung? " Lê Văn Quân giọng run run: " Bẩm.. Vâng. Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh. Người dân gọi là Tiểu Chiến thần Tây Sơn Trên chiến trường, hắn bắn thương cả ba chúng thần chỉ trong nháy mắt. Không một ai kịp phản ứng. Quân Tây Sơn khi nhắc đến hắn.. kính phục y như Quang Trung Nguyễn Ánh ngả người ra sau, trán rịn mồ hôi. Từ Rạch Gầm Xoài Mút đến trận Thăng Long năm Kỷ Dậu, cái tên Quang Trung đã trở thành bóng ma ám ảnh trong tâm trí ông rất nhiều năm qua. Giờ đây, lại thêm một cái tên mới – Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh - kẻ còn trẻ nhưng trí dũng và sát khí khiến ba tướng lừng danh của ông phải run rẩy trở về, thì.. cơ đồ còn giữ được bao lâu? "Trời ơi.." - ông lẩm bẩm - "Chẳng lẽ.. trời sinh Quang Trung chưa đủ, lại còn sinh thêm Nam Bình Vương?" Ông nắm chặt tay, nhưng lòng lạnh buốt. "Nếu Quang Trung là thiên lôi trấn bắc, thì Nguyễn Minh chính là lưỡi kiếm xoáy thẳng vào Nam. Chưa đánh đã biết thua.. chẳng lẽ Đại Việt thật sự đã có người nối gót Tổ Hùng Vương thống nhất sơn hà?" Một tuần sau đại thắng Bình Thuận. Trong sân điện Võ Thành ở Phú Xuân, nghi trượng rợp trời, trống chiêng vang dội. Hàng ngàn quân Tây Sơn xếp hàng chỉnh tề, cờ hiệu bay phấp phới. Ba tướng bại trận nhà Nguyễn - Võ Tánh, Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành - bị áp giải ra trước sân, mặt mày sạm nắng, áo giáp rách nát, sắc mặt vẫn chưa hết ngỡ ngàng sau trận thảm bại. Thay vì hành quyết, Nam Bình Vương bước ra, toàn thân uy nghi trong chiến phục đen tuyền, đeo song kiếm sau lưng, vai choàng bảo sa đỏ thẫm – uy thế như thiên tướng giáng trần. "Ba vị tướng là bậc anh tài, chí khí ngang trời. Dẫu là địch, vẫn xứng là quân tử. Nay ta, theo ý chỉ Phụ hoàng, đặc xá cho cả ba, cấp ngựa tốt, vàng bạc, và lễ vật, để hồi cố quốc." Quần thần sửng sốt. Nhưng Nguyễn Minh chưa dừng ở đó. Nam Bình Vương bước lên, trao cho từng người một thẻ bài bằng đồng khắc chữ Hán cổ, dặn nhỏ: "Vật này là của Bệ hạ truyền, chỉ trao cho người tri kỷ. Khi lâm nguy, mở ra sẽ biết." Lễ xong, Nam Bình Vương ra hiệu triệu tập Điệp ảnh quân: "Điệp ảnh quân nghe lệnh truyền tin cả nước: Ba tướng nhà Nguyễn cảm phục uy vũ và đức độ của Quang Trung hoàng đế, xin hàng mà chưa được. Nay Hoàng đế rộng lượng tha mạng, trọng đãi như tân khách, tiễn về để gieo nhân thiện lành, cảm hóa thiên hạ." Tin ấy lan đi khắp miền Nam như gió cuốn. Dân chúng ngưỡng vọng Tây Sơn, còn triều đình Gia Định thì rúng động. Gia Định - Một cơn địa chấn chính trị Khi ba tướng trở về, Nguyễn Ánh không mở yến tiệc như lệ thường. Trái lại, ông cho giữ lại trong nội điện kín đáo, chỉ tiếp riêng từng người. Cả ba đều nói giống nhau: Được tha vô điều kiện, lại được trọng thưởng và ban thẻ bài "bí ẩn". Nguyễn Ánh cầm thẻ đồng, sắc mặt tái mét. "Một người bại trận, còn được cho ngựa. Ba người bại trận, lại có thưởng lộc và lễ vật. Quang Trung dùng người hay dùng kế? Còn thẻ này.. là thư chiêu hàng hay là bằng chứng phản trắc?" Đêm ấy, ông mất ngủ. Ngồi bóp trán trước án thư, Nguyễn Ánh nói với Trịnh Hoài Đức: "Bọn chúng.. có thực trung thành chăng? Hay đã bị mua chuộc? Ta còn dùng được họ, hay nên âm thầm thay thế?" Từ đó, Nguyễn Ánh chia ba tướng về ba nơi, tước bớt binh quyền, ngầm cho người theo dõi. Ba người tuy được thả, luôn bị nghi kỵ, chẳng còn được trọng dụng như xưa. Phú Xuân - Đêm trăng đầu mùa thu 1790 Trong thư phòng, Nguyễn Minh quỳ dưới ánh đèn, thưa với Quang Trung: "Tâu Bệ hạ, độc dược mạnh nhất.. không cần uống, chỉ cần nhìn. Một giọt ngờ vực gieo vào lòng địch, cũng hơn ngàn quân tinh nhuệ." Quang Trung cười lớn, nâng chén rượu, nghiêng người về phía con: "Hoàng nhi, kế ấy.. như gươm trong gấm, như châm trong gối. Hoàng nhi quả là đứa con trời ban, nếu ta không có con, chỉ sợ thiên hạ thống nhất vẫn còn xa lắm." Nhà vua và Nam Bình Vương cùng ngẩng nhìn trăng sáng, trên không trung, lá cờ đào Tây Sơn bay phấp phới, như khẳng định một điều không thể thay đổi: Đại Việt sẽ thống nhất, và không ai có thể ngăn cản bước tiến của những người anh hùng.
Chương 5. Kinh Thiên Thị Nại, Thần Tướng Giáng Trần Khung cảnh đêm tĩnh mịch đến rợn người, chỉ còn tiếng gió rít qua khe cửa, hòa cùng tiếng lách tách dầu sôi trong ngọn đèn leo lét. Bóng của Chủ nhân Thanh Long Sơn đổ dài trên vách, như phản chiếu nội tâm u uất và đầy toan tính. Gã ngước nhìn tấm bản đồ trải rộng trước mặt, ánh mắt sâu như giếng cạn. "Đánh bại Tam tướng Gia Định tại Bình Thuận trong vài ngày.." - giọng hắn khàn đặc, như tự nói với mình mà cũng như muốn truyền lệnh cho những kẻ vô hình quanh đó. "Nam Bình Vương.. kẻ này không đơn giản. Chỉ e hắn đang nắm trong tay quá khứ - nơi chôn giấu bí mật của ta." "Phải ra tay trước khi quá muộn" Chủ nhân Thanh Long Sơn khẽ khàng đứng dậy, bước ra ngoài hiên, nơi gió thốc từng cơn lạnh buốt. Xa xa, dưới chân núi, đèn trại lác đác như sao tàn. Sau chiến thắng mùa xuân Kỷ Dậu, đại thắng Bình Thuận - Khởi đầu kỷ nguyên Việt Nam hùng cường dưới thời Quang Trung Đại Đế Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), dưới ngọn cờ đại nghĩa, vua Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược, cứu nguy non sông, khôi phục giang sơn, mở đầu một thời đại huy hoàng. Ngay sau đó, cùng với đại thắng Bình Thuận - nơi Nam Bình Vương lập công hiển hách, đánh tan thế lực Nguyễn Ánh ở miền Nam, triều đại Tây Sơn hiên ngang bước vào giai đoạn kiến quốc. Và chính trong thời khắc đất nước vừa ngưng tiếng súng, vua Quang Trung - vị thiên tài kiệt xuất – đã chứng minh rằng ngài không chỉ là bậc kỳ tài quân sự, mà còn là nhà chính trị lỗi lạc nhất trong lịch sử Việt Nam. Với tầm nhìn xa trông rộng, nhà vua bắt tay ngay vào công cuộc cải tổ quốc gia. Ngài chia lại hành chính Bắc Hà, tổ chức thành các đơn vị quản lý hiệu quả. Ngài tiến hành cải cách thuế khóa, điều chỉnh lại chế độ ruộng đất, khuyến khích sản xuất, phục hồi kinh tế. Nhà vua thực thi nền giáo dục phổ thông. Trường học được mở khắp thôn xã; nơi nào không đủ điều kiện, ngài cho tận dụng đình chùa làm lớp học. Đặc biệt, Nhà vua đã khởi xướng cuộc cách mạng ngôn ngữ khi ra lệnh dùng chữ Nôm trong toàn bộ chiếu biểu, văn thư hành chính. Đây là cuộc khẳng định hùng hồn về bản sắc dân tộc, đưa tiếng Việt thoát khỏi ách Hán văn, đặt nền móng cho quốc ngữ sau này. Quân đội Tây Sơn được tổ chức bài bản thành 05 đạo quân chủ lực. Trang bị đầy đủ vũ khí, tinh thần gan dạ và khả năng thiện chiến đặc biệt nhất là trong việc dùng vũ khí mới, hỏa hổ và phục binh. Nhà vua không thân chinh đi đón sắc phong, hủy bỏ hủ tục cống người vàng từ thời Lê.. Cuối đông năm Kỷ Hợi (1791), khi sắc trời phương Nam nhuộm vàng như ánh tà dương sau một ngày rực lửa, cũng là lúc ánh sáng chói lọi của một đế vương vĩ đại bắt đầu nhạt dần trong lặng lẽ. Giữa chốn Phú Xuân lộng gió, người anh hùng từng khiến thiên triều run rẩy, từng nhuộm đỏ cờ vàng giữa bão lửa Thăng Long và Bình Thuận, nay bắt đầu bước vào một trận chiến thầm lặng - cuộc chiến với chính thời gian và thân thể mỏi mòn. Quang Trung - vị thiên tử áo vải của dân tộc - dẫu mang trong mình những dấu hiệu bệnh tật, vẫn chưa từng một lần để lộ trước triều thần. Từng cánh tay đã vung gươm bạt núi, từng bàn chân vượt trùng thiên hiểm địa, nay vẫn miệt mài lật bản đồ trong bóng đêm, tính từng nước cờ dựng đô, chuẩn bị thế trận Bình Nam, chinh Bắc đoạt lại Lưỡng Quảng. Trong mắt ngài, chí lớn vẫn cháy hừng hực. Trên điện Cần Chính, lửa trong lư trầm đã tàn, mà bóng người vẫn bất động bên án thư. Nam Bình Vương và nội giám thân cận của Nhà vua quỳ xuống nghẹn ngào: "Phụ hoàng.. xin Người giữ gìn long thể. Thiên hạ đã yên, cõi bờ đã vững, nhân dân đang từng ngày ấm no dưới trời mới.. Xin người hãy nghỉ ngơi, dưỡng sức cho nghiệp lớn trường tồn." Nhà vua không ngoảnh mặt, tay vẫn lần theo cuộn bản đồ đang mở dở. Ngón trỏ gầy gò run nhẹ, nhưng vẫn kiên định di theo đường núi Trường Sơn, băng qua sông Hồng, tới tận biên viễn Lưỡng Quảng. Một hồi lâu sau, tiếng người như vọng từ đáy vực của lịch sử: "Trẫm không mỏi.. Chỉ là đất nước chưa thể dừng. Phương Nam còn nhiều nỗi lo. Lưỡng Quảng chưa quy cố quốc. Một ngày trẫm còn thở, thì một ngày còn phải lo cho giang sơn, cho muôn dân" Nam Bình Vương và Nội giám dập đầu sát đất, không dám nói thêm. Đôi vai run rẩy, Nguyễn Minh hiểu rõ: "Người trước mặt không chỉ là một Hoàng đế, mà là linh hồn của cả một dân tộc đang vươn mình trong cơn chuyển vận" Đầu hạ Nhâm Tý (1792) Trời đất Phú Xuân như rùng mình trước tin giặc Nguyễn Ánh bất ngờ xuất quân đánh úp Thị Nại. Tin báo từ Điệp ảnh quân truyền về dồn dập: Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Trương, Phạm Văn Nhân đã dẫn đại quân và hạm đội từ cửa Cần Giờ, lợi gió nam tấn công thủy trại Tây Sơn. Trên điện Kính Thiên, Quang Trung Đại đế đứng lặng trước tấm bản đồ trải rộng. Mắt ngài không còn sáng như xưa, ho từng cơn kéo dài. Nhưng trong trái tim, ngọn lửa Tây Sơn vẫn chưa tắt. Bên cạnh, Nam Bình Vương - vị hoàng tử yêu quý của Nhà vua, mặc chiến bào đen, đeo kiếm tổ Bình Nam, cúi mình chờ lệnh. Trên người Minh còn có chiếc túi da nhỏ - bên trong là những nghiên cứu dở dang về y học, mang theo tâm huyết suốt ba năm trời trong mật thất của Ngài. Nhà vua trao cho Nguyễn Minh Kim bài lệnh tướng, đôi tay run khẽ nhưng ánh mắt vẫn uy nghi như thần linh: "Minh nhi, ta biết Thị Nại là trận sống còn. Lần này hoàng nhi xuất chinh, không chỉ vì giang sơn, mà còn để thay Trẫm gióng trống giữ thành. Trẫm.. có thể không còn đủ sức để cưỡi ngựa xông pha như xưa nữa." Nam Bình Vương siết tay, quỳ gối, dập đầu ba cái, nhận kiếm quỳ lạy: "Tâu Bệ hạ, nhi thần thề đội trời đạp sóng, nhuộm đỏ biển Thị Nại bằng máu nghịch thần! Chiến thắng lần này, không chỉ giữ bờ cõi, mà còn ghi danh Đại Việt ngàn thu!" Nam Bình vương ôm chặt nhà Vua giữa đại điện. Lần đầu tiên, những giọt nước mắt rơi trên má Nguyễn Minh - không phải vì sợ, mà vì biết: Đây có thể là lần chia tay định mệnh. Đầm Thị Nại - Hải Hạc Đàm, một đầm nước mặn nằm phía Đông Bắc Bình Định, có diện tích khoảng 5.000 ha, chạy dài hơn 10 cây số, bề rộng khoảng 4 cây số . Thị Nại là đầm lớn nhất của Bình Định, sông Côn, sông Hà Thanh đều chảy về đây. Sa bồi tụ dần theo năm tháng khiến cho đầm mỗi ngày một đầy thêm. Khi nước triều lên thì mặt đầm nước mênh mông, vào những hôm trời gió, sóng dập dờn như mặt biển . Những lúc triều xuống, nước rút cạn để trơ lòng đầm, sình lầy lai láng.. Nước đầm thông với biển bằng một cửa hẹp có tên là cửa Giã. Sáng mờ sương trên đỉnh Ngọc Hồi Sơn nhìn xuống đầm Thị Nại, sóng biển vỗ bờ như tiếng trống thúc quân từ lòng đất vọng về. Giữa doanh trại Tây Sơn, mười vạn quân đứng chỉnh tề, áo giáp sáng rực dưới ánh dương đầu ngày. Cờ đào Tây Sơn bay cao trên vọng lâu trung tâm, nơi Nam Bình Vương đứng sừng sững như một pho tượng đồng khắc từ khí phách trời Nam. Người vận chiến bào đen thêu rồng bạc, mắt sáng như sao Hôm, tay đặt lên hộ tâm khiên - tấm giáp hộ mệnh đã từng chặn gươm đạn giặc không biết bao lần. Gió biển lồng lộng thổi tung áo choàng, làm rực lên hào quang chói lọi của vị tướng tài sinh ra giữa binh đao, lớn lên cùng phong vũ. Nam Bình Vương cất giọng trầm hùng, vang dội cả núi rừng: - "Tướng sĩ! Quân Nguyễn Ánh đã đem 100 trăm chiến thuyền, một vạn quân, lại có cả pháo Tây Dương, vọng tưởng chiếm Thị Nại, chiếm Quy Nhơn. Chúng quên mất rằng đây là đất của anh hùng! Hôm nay, Nam Bình Vương ta tuân lệnh Bệ hạ quyết cùng các khanh một trận sống còn, để sóng Thị Nại rửa sạch mộng xâm lăng của quân thù!" Người chỉ về phía Tây Bắc: - "Võ Văn Dũng! Trấn thủ trung quân! Ngươi lĩnh Định Quốc hạm đội, mũi đâm thẳng vào trung tâm địch, cắt làm hai cánh thủy sư Nguyễn!" Võ Văn Dũng bước ra, giáp trụ sáng lóa, ôm quyền quát lớn: - "Thần xin lĩnh mệnh! Nếu không phá được soái hạm địch, thề không trở về gặp Chủ soái!" Nam Bình Vương gật đầu, chỉ sang tả dực: - "Vũ Văn Thành! Lão tướng thủy trận, nhiều phen đại phá giặc sông Tiền, sông Hậu! Ngươi dẫn thuyền nhẹ, đánh tạt sườn trái, dùng biển làm mai phục, lấy sóng đánh thuyền!" Vũ Văn Thành cười lớn: - "Cho giặc biết tay lão già sông nước! Một trận này, ta cho chúng rụng tay chèo!" Người quay sang hữu dực: - "Nguyễn Văn Trà! Thuyền nhẹ, quân tinh, đánh nhanh rút lẹ. Ngươi áp dụng kế 'phiên thuyền du kích', quấy rối hậu địch, rồi vòng ngược cắt đường rút. Nhớ, không phải giết nhiều, mà phải khiến chúng tan hàng loạn trí!" Nguyễn Văn Trà nắm tay gươm, ánh mắt sáng ngời: - "Một mũi tên, một thuyền giặc, thần sẽ khiến chúng chẳng phân nổi đâu là biển, đâu là mồ!" Người chỉ lên bờ: - "Phạm Văn Định! Nguyễn Hoạch! Lập trận địa pháo từ núi Phúc Kiến tới chân Sa Kỳ! Mỗi thớ đất là một nòng đại bác! Khi hiệu lệnh tung lên, bắn giặc trước khi chúng cập bờ!" Phạm Văn Định dõng dạc đáp: - "Pháo trận sẵn sàng. Một viên pháo rơi, một tướng giặc chết!" Hắc Ảnh đội đặc biệt tinh nhuệ - mang theo hỏa tiễn, súng liên thanh, thủy lôi tự chế chuẩn bị xuất trận. Cuối cùng, Nam Bình Vương đưa tay chỉ lên trời, tuyên bố: - "Còn ta, Nam Bình Vương - giữ soái hạm Lôi Long, chỉ huy toàn quân! Nếu thuyền giặc vượt được Định Quốc hạm, ta sẽ nghênh chiến, một mình phá tan soái thuyền giặc Nguyễn!" Sóng biển gầm gào như vạn mã cùng lúc phi nước đại. Trên cao, đàn hạc trắng vỗ cánh bay ngang trời, như điềm báo một trận đại chiến đang đến gần. Trời tháng Hai, gió nồm rít qua đầm Thị Nại như những tiếng hú gọi hồn. Mặt biển mênh mông cuộn sóng, như linh khí đất trời cũng chuẩn bị nghênh đón cơn cuồng phong lịch sử. Từ phía đông khơi xa, hàng trăm cánh buồm trắng như cánh hạc trải dài tới tận chân trời. Đó là đại quân Nguyễn Ánh - hơn ba trăm chiến thuyền lớn nhỏ, dàn trận uy nghi. Trên kỳ đài đầu thuyền chỉ huy, lá cờ thêu chữ "Minh Mệnh Chi Chinh" bay phần phật. Tiếng tù và, tiếng trống trận dồn dập từ thuyền đầu vọng về như sấm dậy. Nguyễn Ánh thân chinh đứng giữa soái thuyền, mắt dõi theo từng dãy chiến hạm gầm gừ tiến vào đầm Thị Nại. Bên cạnh ông là các danh tướng: Lê Văn Duyệt, Võ Di Nguy, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành, Tống Phước Lương và các sĩ quan Pháp như Chaigneau, Vannier, Forcanz.. người nào cũng mắt sáng như sao, chiến bào bay phần phật giữa khói sương. Trước mặt họ là phòng tuyến vững chãi của quân Tây Sơn. Vào canh ba ngày 11/4/1792, khi sao trời còn khuất sau mây, Nguyễn Ánh hạ mật lệnh xuất quân. Bộ binh Tiền chi Hoàng Văn Khánh bí mật theo đường Vũng Dừa, đặt mai phục sau núi, chờ hiệu lửa Tiêu Cơ mà hãm thành. Phạm Văn Nhân giữ Cù Mông, chặn đường cứu viện. Nguyễn Ánh thân chinh dẫn thủy quân, gươm sáng như sao băng, trống trận dậy đất. Võ Di Nguy đánh chính diện, Lê Văn Duyệt xuất quân tiếp ứng, khí thế như nước triều dâng. Trời vừa hửng sáng ngày 13/4/1792, hạm đội Nguyễn Ánh với hơn 100 chiến thuyền, phất cao cờ, ồ ạt tiến vào đầm Thị Nại. Trên soái thuyền Long Phi, Nguyễn Ánh mặc giáp bào sáng loáng, mắt lạnh lẽo dõi về phía trước. Bên cạnh hắn, các tướng lĩnh trung thành như Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, cùng lũ cố vấn Tây Dương đắc ý cười khẩy: "Tây Sơn chỉ còn là xác không hồn! Một trận này, ta sẽ quét sạch chúng!" Trên tàu soái hạm Lôi Long, Nguyễn Minh dùng bản đồ số hóa phác thảo để dựng lại bố trận. Các pháo đài được dựng bí mật trong vịnh, gắn đầy thuốc súng phản lực và hệ thống bắn chéo - khiến quân địch không thể tránh. Ngay khi đến Thị Nại, Nguyễn Minh lập tổng hành doanh trên đảo Cù Lao Xanh, cho người đắp mô hình địa hình, dựng một trung tâm chỉ huy bằng kính lăng trụ có thể quan sát toàn trận địa bằng ống nhòm và máy ảnh phóng đại. Nam Bình Vương lệnh cho các tướng phối hợp tạo thành ba tầng thế trận: Trận giả ngoài khơi - Dụ địch quân xông vào Cho một số chiến thuyền cũ được ngụy trang như đang vội vã tháo chạy, chỉ mang quân tượng gỗ và phướn hiệu Tây Sơn. Đặc biệt, Nam Bình Vương cho thả truyền đơn vẽ tay (dạng đơn sơ bằng giấy dầu) để "vô tình" rơi vào tay địch, vẽ sơ đồ "giả" bố trí phòng thủ mục tiêu khiến quân Nguyễn tin rằng: Tây Sơn đang yếu thế, hoảng loạn, có thể tiêu diệt trong một đòn! Trên các "chiến thuyền mồi nhử", Minh còn gài các thiết bị kích nổ từ xa – chỉ cần địch tiếp cận quá gần, toàn bộ đội hình tiên phong sẽ bị phá hủy. Ngoài tra, Nguyễn Minh cho gài "hỏa châm thủy lôi" (loại bom tự chế có kíp nổ hẹn giờ hoặc chạm nổ) quanh đầm Thị Nại, sắp xếp thành hình móng ngựa, giữa để trống như thể mời gọi quân địch tiến vào "khe an toàn". Các vị trí đá ngầm được lắp thêm chông sắt dưới nước, để thuyền địch mắc cạn sẽ bị thủng đáy. Đồng thời, hai bên bờ vịnh được giấu các giàn hỏa pháo cổ điển, pha lẫn súng máy quay tay mà Minh đã cho triển khai lắp ráp được bằng kỹ thuật hiện đại. Nam Bình Vương cho buộc diều lớn hình chim ưng, gắn gương phản chiếu và ống ngắm quan trắc từ xa – tạo thành hệ thống quan sát toàn trận địa từ trên cao. Nhờ đó, khi quân địch vào vịnh, từng bước di chuyển đều được cập nhật liên tục, cho phép Vương chỉ huy pháo binh và thủy quân tấn công chính xác từng đợt xung kích. Khi quân Nguyễn vượt sóng tràn vào, thấy vài chiến thuyền Tây Sơn "bị bỏ lại", chúng lập tức đánh thẳng vào giữa lòng vịnh - khe giữa hình móng ngựa, nơi tưởng như sơ hở, nhưng thực chất là họng súng địa ngục. Ngay khi chiến thuyền của Nguyễn Văn Trương tiến sâu vào trung tâm, hạm đội Nguyễn tiến sâu vào lòng vịnh, đột nhiên, từ hai bên bờ, hàng trăm hỏa tiễn phóng lên như rồng lửa, đốt cháy cả một góc trời. Những chiếc thuyền mồi nhử của Tây Sơn bỗng nổ tung, kéo theo hàng chục thuyền địch chìm nghỉm. "Bắn! Bắn hết!" – Lê Văn Duyệt gào thét Minh ra lệnh kích nổ các chiến thuyền mồi - sóng xung kích làm lật 10 thuyền địch, lửa cháy đỏ cả mặt biển. Hai bên bờ vịnh đồng loạt khai hỏa – hỏa tiễn, hỏa hổ, súng máy cùng lúc trút bão lửa xuống đội hình địch, không để kẻ nào kịp rút lui. Dưới nước, các thủy lôi nổ tung, giết hàng ngàn quân địch ngay trong làn sóng biển đỏ máu. Nguyễn Minh trên soái hạm Lôi Long, bình thản nâng khẩu súng ngắm, nhắm thẳng vào khoang chỉ huy của thuyền Nguyễn Văn Thành - một phát xuyên vai khiến Thành gục xuống, thuyền loạn đội hình. Ngày 13/4/1792, thuyền chiến Tây Sơn do Nguyễn Minh dẫn đầu cùng các danh tướng dàn quân trong đội hình "Bàn Long Xuất Hải". Thủy quân đóng hình vòng cung trong vịnh, các pháo đài được ngụy trang dưới giàn cây, các chiến thuyền chở tượng gỗ làm mồi nhử. Trên không, diều quan sát của Minh bay lượn, mang gương phản quang và dây dẫn thông tin, lần đầu tiên trời Nam có "mắt rồng" theo dõi toàn trận. Lúc quân Nguyễn tiến vào, lửa được châm từ bờ đông - hỏa hổ và đại bác cùng khai hỏa từ cả hai cánh, biển lập tức cháy như lò luyện. Tiếng trống trận của Võ Văn Dũng vang lên 3 hồi, đội thuyền Tây Sơn từ hậu phương phóng ra như đàn cá kiếm phá vỡ vòng vây, đánh úp từ hai sườn. Nguyễn Minh cưỡi soái hạm Thiên Long, tay cầm súng ngắm, tay chỉ huy giàn hỏa lực. Một phát súng, nguyễn Văn Trương trúng đạn ở cổ, thuyền loạn. Lệnh truyền đặc biệt được phát ra từ Minh: "Khóa đuôi! Mở bụng! Lôi thần diệt sạch!" Tức thì hàng loạt mìn nước và súng liên thanh quay tay được kích hoạt - tiếng nổ long trời lở đất, xác thuyền trôi nổi như rác biển, máu đỏ trôi cả vào bờ cát. Ngay khi hạm đội Nguyễn vừa tiến vào đầm, sương mù nhân tạo từ thuốc nổ lạnh Minh chế tạo bao phủ toàn bộ khu vực, khiến tàu Nguyễn mất phương hướng. Khi vừa phát hiện, bè mìn kích nổ, pháo binh Tây Sơn trên bờ và đảo nổ như sấm. Trận địa ba tầng, năm lớp từ bờ đến lòng đầm, khiến quân Nguyễn như rơi vào địa ngục biển. Từ giờ Dần đến giờ Ngọ, súng nổ rung trời, khói lửa mịt mùng, đạn đồng bay như châu sa trút xuống. Lê Văn Duyệt kẻ mới mấy ngày trước còn ngạo nghễ nhìn ra cửa biển, cười lớn: - "Thị Nại hôm nay là huyết lộ, ta đem đầu giặc Tây Sơn về tế cờ!" Ngờ đâu, tất cả chỉ là kế "dụ hổ vào rừng sâu". Nam Bình Vương cố tình lùi quân, để doanh trại trống không, thuyền bè neo rải rác, như muốn bỏ chạy.. Chính khi ba đạo thuyền Gia Định tiến sâu vào vịnh, từ sau những hòn đá vôi và rặng núi ven biển, pháo Tây Sơn đồng loạt khai hỏa. Biển nổi sóng, đất rung chuyển. Hai bên sườn vịnh, thuyền mai phục từ lòng vũng trồi lên như cá kình quẫy lưới. Hỏa hổ, hỏa tiễn, pháo sấm liên tiếp giáng xuống. Cả một khúc vịnh biến thành lò luyện binh. Gió biển thốc ngược, đẩy lửa bén vào thuyền quân Nguyễn. Quân Tây Sơn như từ lòng đất chui ra, như từ bụng sóng dậy lên, xung thiên quyết tử. Thuyền Gia Định rối loạn, kẻ trước cắm đầu, người sau đạp xác mà chạy. Nguyễn Văn Thành bị mảnh pháo xé toạc giáp ngực, máu ứa ra mà vẫn gào lớn: - "Trúng kế rồi! Mau rút! Mau rút!" Lê Văn Duyệt mặt trắng bệch, hai mắt đỏ hoe, giáng mạnh chuỳ vào cột buồm hét: - "Thuyền nào dám lui, ta chém trước!" Nhưng chẳng kịp nữa. Cánh trái bị thiêu rụi, cánh phải bị cắt rời, đường rút bị mai phục khóa chặt. Lê Văn Duyệt đành phải bỏ chiến hạm, chui xuống ghe nhỏ, che mặt trốn giữa đoàn dân binh, lấm lét thoát thân, chạy thục mạng về Nam. Nguyễn Văn Thành mình dính đầy máu, được vài tàn binh kéo lên chiếc thuyền nhỏ, vừa chèo vừa khóc: - "Một đời danh tướng của ta!" Giữa biển Thị Nại đỏ lửa, giữa khói thuốc nổ và sóng nước dập dờn, Nam Bình Vương đứng sừng sững trên đầu thuyền, ánh mắt như thép, không một chút dao động. Từng bước tiến lên như một con sư tử đang vẫy gọi chiến trường. Nam Bình Kiếm trong tay ông tỏa sáng, phản chiếu ánh mặt trời như ánh sao băng rực rỡ giữa biển khơi. Mái tóc dài của Nguyễn Minh bay trong gió, trang phục võ sĩ lấp lánh dưới ánh nắng. Cả quân Tây Sơn đứng phía sau, rầm rầm hô vang tên ông: "Nam Bình Vương, thần tướng của Đại Việt!" Ngay lúc ấy, từ phía đối diện, Nguyễn Ánh, với sắc mặt tái nhợt, đứng trên chiếc thuyền Long Phi của mình, cố nén nỗi lo sợ đang dâng trào trong lòng. Chúa Nguyễn gầm lên lệnh cho quân sĩ nhưng tiếng của ông bị lấn át bởi tiếng sóng vỗ, gió rít, và tiếng la hét của quân Tây Sơn xung quanh. Ánh mắt của Nguyễn Ánh đầy sự hoang mang. Mỗi khi nhìn về phía Nguyễn Minh, nỗi khiếp sợ lại bùng lên trong tim hắn. Biển lửa hừng hực, sóng vỗ đập vào bờ như thét gào, gió biển rít lên từng cơn, thổi đi mùi khói thuốc súng nồng nặc, bao phủ cả một vùng trời. Trên chiến trường, quân Tây Sơn lừng lững như sóng thần, hùng dũng lao vào trận đánh quyết liệt, làm biển khơi như bốc cháy. Trái ngược hoàn toàn, Nguyễn Ánh, với đôi mắt hoang mang, đứng trên chiếc thuyền Long Phi, thoáng chốc đã nhận ra sự thất thế của mình. Dưới chân hắn, cả một hạm đội lớn của quân Gia Định dần dần bị đánh tan tác, thuyền bốc cháy, quân sĩ hoảng loạn. Nguyễn Ánh không thể đứng yên. Ngay khi ông nhìn thấy bóng dáng của Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh - người con trai tài ba của Quang Trung - đang dẫn quân Tây Sơn với khí thế áp đảo, nỗi sợ hãi không thể kìm nén bùng lên trong lòng ông. Nguyễn Minh đang đứng trên đầu thuyền, vung thanh Bình Nam kiếm, ánh mắt sắc lạnh nhìn vào đội quân Nguyễn Ánh. Giữa trận chiến hỗn loạn, Nguyễn Ánh không còn dũng khí để đối đầu với Nguyễn Minh. Hắn quay sang các tướng dưới quyền, ra lệnh: "Rút lui! Rút lui ngay lập tức!" "Nguyễn Ánh! Ngươi là kẻ bán nước, là quân phản loạn! Ngươi có tư cách gì đối diện với Đại Việt, đối diện với tổ tiên Lạc Hồng, đối diện với Quang Trung Đại đế và quân Tây Sơn ta?" Trong trận chiến Thị Nại, một cảnh tượng hỗn loạn và kinh hoàng diễn ra trên biển, khiến những người chứng kiến không khỏi rùng mình. Sau lệnh rút lui của Nguyễn Ánh, những chiếc thuyền chiến của quân Nguyễn hoảng hốt tháo chạy, tán loạn trên mặt biển mịt mờ khói lửa. Cùng với đó, các tướng dưới quyền của Nguyễn Ánh cũng không thể thoát khỏi số phận bi thảm. Các danh tướng lừng lẫy Gia Định không thể vãn hồi tình thế, với những vết thương khắp người, họ chỉ còn biết cắm đầu chạy trốn, để lại đằng sau một đội quân tan tác và bại trận. Những tướng lĩnh từng là niềm tự hào của quân Nguyễn nay trở thành những người thương tích đầy mình, bỏ chạy khỏi tay Nguyễn Minh và quân Tây Sơn. Nguyễn Ánh, chứng kiến cảnh tượng bi thảm đó, không thể không cảm thấy sợ hãi tận xương tủy. Hắn đã hiểu rằng, dù có rút lui, quân Tây Sơn sẽ không bao giờ để hắn yên. Đằng sau hắn là Nguyễn Minh, thần tướng với ánh mắt lạnh lùng như hổ đói, tàn nhẫn và quyết liệt. Chính Minh đã dồn quân Nguyễn vào bước đường cùng, khiến họ phải chạy tán loạn, để lại những tướng quân thương tích đầy mình, mặt mày tái mét, hoảng loạn trong đau đớn. Minh bật cười nhạo một cách tự nhiên: "Trốn như lươn, Nguyễn Ánh. Có lẽ ngươi sẽ luôn phải sống trong sự khiếp sợ này suốt đời." Chỉ trong ba ngày, nửa vạn quân Nguyễn, 80 chiến thuyền bị tiêu diệt hoàn toàn, danh tướng tướng Võ Di Nguy, Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương biệt tích. Biển Thị Nại từ xanh trong đã chuyển sang đỏ thẫm. Nguyễn Ánh phải cắt tóc giả dân thường, lén lút trốn trên chiếc ghe nhỏ bỏ chạy, trốn chui trốn nhủi gần nửa tháng mới về tới Gia Định. Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, cố vấn người Pháp cùng tàn binh ước chừng 2.000 chạy thục mạng về Nam. Từ tàu chỉ huy, Nguyễn Minh ngẩng lên nhìn trời: "Anh linh tiên tổ Lạc Hồng hiển minh, Rạch Gầm - Xoài Mút của Phụ hoàng, Thị Nại hôm nay là của Nam Bình Vương" Mùa hạ tháng 4/1792, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh đại thắng quân Nguyễn tại đầm Thị Nại, đánh bại hoàn toàn hạm đội của Nguyễn Ánh. Cảnh tượng chiến thắng oanh liệt, ngọn lửa bùng lên từ thuyền chiến, mặt biển đỏ lửa, lấp lánh dưới ánh nắng mùa xuân. Quân Tây Sơn tiến vào, khí thế hừng hực, lòng người nức nở ca ngợi. Từng đoàn người ùa ra khỏi làng mạc, cờ đào Tây Sơn rợp trời Quy Nhơn. Tiếng trống, tiếng chiêng rền vang khắp phố phường, hòa cùng điệu hát "Nam Bình Vương diệt giặc!". Trẻ con cầm hoa phượng đỏ chạy theo đoàn quân thắng trận, đôi mắt sáng ngời niềm kiêu hãnh. Các cụ già rưng rưng nước mắt, bưng mâm cơm cúng tổ tiên báo tin đại thắng. Phụ nữ Quy Nhơn xếp hàng dâng lên Nam Bình Vương những giỏ trái cây thơm ngọt, tiếng nói nghẹn ngào: "Xin tạ ơn Nam Bình Vương điện hạ đã giữ yên sơn hà!" Trên bến cảng, thuyền chài giăng đèn lồng đỏ rực, ánh lửa phản chiếu xuống mặt nước như muôn ngàn sao sa. Khắp các ngả đường, người người nhảy múa quanh đống lửa trại, ném những lá cờ Nguyễn Ánh vào ngọn lửa bập bùng. Tiếng hô "Đại Việt thiên thu!" vang xa tới tận chân trời, khiến cả vùng trời Thị Nại như rung chuyển. Trong khoảnh khắc ấy, niềm vui chiến thắng hòa làm một với lòng biết ơn vô hạn dành cho vị tướng trẻ - người đã viết nên khúc tráng ca bất diệt giữa biển máu Thị Nại. Trong khung cảnh muôn dân đang tưng bừng ăn mừng chiến thắng, Nam Bình Vương đứng trước bản đồ chiến sự, tay nâng bức "Thị Nại chiến thắng" viết trên lụa vàng. Ngài nghiêm trang truyền lệnh: Điệp ảnh quân nghe lệnh: Lập tức mang tin chiến thắng bẩm báo Hoàng thượng: Thị Nại đã thành mồ chôn quân thù! Mười vạn quân Gia Định mạng vong, hai trăm chiến thuyền bị đốt cháy! Nguyễn Ánh cắt tóc trốn chạy. Khi tin thắng trận tới Phú Xuân, Quang Trung đang bàn việc nước bỗng đứng phắt dậy, tay run run cầm bức tiệp báo. Giọng Người vang lên đầy xúc động: "Thị Nại toàn thắng, Hoàng Nhi của Trẫm đã viết tiếp trang sử vàng Rạch Gầm - Xoài Mút!" Cả điện Cần Chính vang lên tiếng hô: "Hoàng thượng vạn tuế, Nam Bình Vương điện hạ thiên tuế!" Gió biển cuồn cuộn thổi vào cửa Thị Nại, mang theo mùi tanh nồng của máu, thuốc súng và khí khái ngút trời của một trận đại chiến vừa khép lại. Trên mặt nước đầm đỏ rực ánh bình minh, xác thuyền vỡ trôi lềnh bềnh, cờ xí nhà Nguyễn bị thiêu rụi cháy đen từng mảnh. Những gì còn lại chỉ là tiếng hò reo vang dội của quân Tây Sơn, lẫn với tiếng tù và khải hoàn. Sau khi ổn định tình hình Quy Nhơn, ban lệnh sửa chữa khắc phục hậu quả Thuỷ trại Thị Nại, Nam Bình Vương ban sư hồi triều. Tháng tư năm Nhâm Tý (1792), khi những cánh phượng đầu mùa bắt đầu nhuộm đỏ bầu trời Phú Xuân, đoàn quân Tây Sơn oai hùng tiến về kinh thành giữa tiếng reo hò vang dội. Nắng đầu hạ vàng rực trải thảm trên con đường quân về, từng tia nắng như dát vàng lên những chiếc giáp sắt còn vương mùi khói thuốc súng Thành Phú Xuân rực rỡ cờ hoa chào đón đoàn quân thắng trận. Từ xa, tiếng trống đồng vang dội như sấm rền, xen lẫn tiếng reo hò vang dậy đất trời. Nam Bình Vương dẫn đầu đoàn quân áo giáp lấp lánh, trên ngực mỗi binh sĩ đều đeo đóa hoa đỏ thắm - biểu tượng máu quân thù đã đổ xuống Thị Nại. Quang Trung Đại đế thân chinh ra tận cửa Ngọ Môn đón đoàn quân. Nhà vua mặc long bào màu vàng chói, tay nâng chén rượu mừng, giọng sang sảng: "Trẫm đón chào những người con dũng liệt của Đại Việt!" "Minh nhi, chiến công hôm nay không chỉ là của con, mà còn là của tổ tông. Hoàng nhi đã bảo vệ đất nước, bảo vệ giang sơn này. Ngươi sẽ mãi là niềm tự hào của dòng tộc Tây Sơn ta" Cả kinh thành như vỡ òa: Các lão tướng Tây Sơn rưng rưng nước mắt, ôm chầm lấy những binh sĩ trở về, thiếu nữ Phú Xuân tung hoa sen trắng lên đường, điệu hò mái nhì ngân nga khúc khải hoàn, trẻ con nô đùa quanh vó ngựa chiến, tay cầm những lá cờ đào nhỏ xíu. Nam Bình Vương quỳ xuống trước mặt vua cha, dâng lên: Long bào rách tả tơi của Nguyễn Ánh, Thanh kiếm bạc của tướng Nguyễn Văn Thành; Lá cờ hiệu rách tả tơi của quân Gia Định, Chiếc mũ giáp nhuốm máu Lê Văn Duyệt.. "Tâu Phụ hoàng, Nhi thần xin dâng lên Người chiến công này!" - Giọng Nguyễn Minh vang lên đầy xúc động. Quang Trung bước xuống ngai, tự tay đỡ Nam Bình Vương dậy, đôi mắt ngời sáng niềm tự hào: "Hoàng nhi đã viết nên trang sử mới cho Tây Sơn ta!" Suốt ba ngày đêm, kinh thành rực rỡ đèn hoa. Trên sông Hương, hàng trăm thuyền rồng thắp đèn lồng đỏ. Khi đoàn quân đi qua cầu Trường Tiền, bỗng có cụ già râu tóc bạc phơ quỳ xuống đường, run run giơ bát nước chè xanh: "Xin các anh hùng uống cho thỏa lòng dân!", các cụ già đồng thanh ngâm thơ tặng đoàn quân chiến thắng: "Thị Nại một trận kinh thiên Máu loang đỏ biển, lửa nghiêng ngút trời Nam Bình kiếm sáng chói ngời Dẹp quân xâm lược, rạng lời núi sông!" Khi những cánh phượng đỏ như nhuộm thắm thêm vinh quang và nắng tháng tư như dát vàng lên từng trang sử vẻ vang của dân tộc, mùa hạ huy hoàng - mùa hạ của chiến thắng, của lòng trung nghĩa, và của một Đại Việt kiêu hãnh dưới bóng cờ đào Tây Sơn. Lễ mừng công được tổ chức trọng thể, Nam Bình Vương được nhân dân phong danh hiệu "Thần tướng hộ quốc". Đêm ấy, trong điện Cần Chính, ánh trăng rằm chiếu sáng cả hoàng cung. Quang Trung và Nam Bình Vương cùng nâng chén rượu mừng, bóng hai vị hùng chủ in lên bức bình phong "Sơn Hà Xã Tắc", như khắc vào lịch sử hình ảnh bất diệt của triều đại huy hoàng.
Chương 6. Đại đế yên giấc cùng hồn thiêng sông núi Mùa thu năm Nhâm Tý (1792), tiết trời kinh thành Phú Xuân đượm mùi lá úa, gió heo may quét qua từng ngõ ngách phủ chúa xưa. Trời không giông, mà lòng người bất an. Từ trong đại nội truyền ra những tin đồn khiến cả triều đình nín thở: Long thể hoàng thượng bất an. Vua Quang Trung từ sau thắng lợi vang dội ở Thăng Long, hàng ngày miệt mài với việc thiên đô, mở rộng bờ cõi, chăm lo binh lương, huấn luyện quân sĩ, sửa sang pháp chế. Có những đêm, ánh đèn trong ngự thư phòng còn sáng rực đến tận canh ba. Người dân ví ngài là sao Bắc Đẩu giữa trời Nam, quân lính thì gọi là vị thần sấm giáng thế. Thế mà vào một chiều đầu tháng bảy, trong lúc đang xem xét tấu chương về kế hoạch thiên đô ra Phượng Hoàng Trung Đô, bỗng nhà vua thấy choáng váng, mặt mũi tối sầm, rồi ngã quỵ xuống. Cả triều chấn động. Ngự y hội chẩn, chẩn đoán là bạo bệnh phát đột ngột, âm khí công tâm, thuốc thang không hiệu. Mắt nhà vua mờ dần, thân thể gầy rộc chỉ trong vài ngày. Nhưng ý chí vẫn sáng như đuốc, ngày nào cũng gọi quần thần vào lắng nghe tình hình các trấn, đặc biệt là phía Gia Định - nơi Nguyễn Ánh đang lăm le khôi phục cơ đồ. Khi được tin Trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu đã về đến Phú Xuân, vua cho truyền vào ngự điện giữa đêm. Trong điện vắng, chỉ còn mùi hương trầm và tiếng thở yếu ớt. Thái tử Nguyễn Quang Toản, Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh, Trần Văn Kỷ, Trần Quang Diệu quỳ bên long sàng, nước mắt lã chã. "Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử tư chất hơi cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định là quốc thù, mà Thái Đức thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi. Triều thần nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn thân!" Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh con Trẫm văn thao võ lược, chiến công hiển hách, Nhà vua ho từng cơn rồi rút dưới gối bức Chiếu chỉ và căn dặn: Trẫm đã viết bức mật chỉ, khi Trẫm về với tiên tổ, chúng thần thực thi theo ý Trẫm, không được sai lời. Dứt lời, nhà vua mím môi kìm cơn đau, cánh tay run rẩy đưa ra khỏi chăn ngự, nắm lấy tay từng người một - như muốn truyền lại cả thiên mệnh còn dang dở. Trước hết là Thái tử Quang Toàn, đôi mắt ngây thơ còn chưa hiểu hết nỗi nặng nề của Ngai vàng, vua nắm tay con thật chặt, bàn tay nhỏ bé kia như run lên trong bàn tay người cha đã từng vung kiếm giữa muôn trùng. Ngài khẽ nói, giọng chỉ còn là hơi gió: "Hoàng nhi.. hãy nhớ.. làm Giám quốc không phải để hưởng lạc.. mà để gánh lấy muôn dân" Rồi Ngài quay sang Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh - đứa con mà ngài đặt nhiều kỳ vọng nhất. Bàn tay hai cha con chạm nhau, lặng mà như điện truyền. Mắt vua đỏ hoe, nhưng lệ không rơi. Chỉ có Nguyễn Minh gục đầu xuống chiếu, nước mắt thấm ướt long sàng. "Minh nhi.. Phụ hoàng biết con đủ sức, chỉ mong con đủ nhẫn". Vua khẽ siết tay Minh, như gói ghém trọn vẹn niềm tin cuối cùng. Kế đến là Trần Văn Kỷ - vị quân sư tận trung, tóc đã hoa râm mà vẫn cặm cụi bên án thư vì quốc sự. Nhà vua nâng tay ông lên, cười gượng mà mắt ánh lệ: "Kỷ tiên sinh.. Trẫm phó thác cơ nghiệp còn dang dở cho khanh, mong khanh không phụ lòng Trẫm" Cuối cùng, đến Trần Quang Diệu - vị trấn thủ trung nghĩa, chinh chiến dọc ngang, một lòng tận tụy. Vua nắm tay danh tướng, hai người nhìn nhau lâu thật lâu, không cần lời. Nhưng rồi vua cũng cố gắng nói một câu cuối: "Nếu trẫm không còn.. khanh thay trẫm giữ lấy bờ cõi" Bàn tay nhà vua dần lạnh, nắm lại, rồi buông ra.. Trong gian tẩm điện vắng lặng, chỉ còn tiếng khóc nghẹn và tiếng gió heo may thổi qua song ngọc. Ánh đèn mờ lay lắt, soi bóng vị thiên tử một đời dấy nghiệp Quang Trung nguyên niên 16/9/1792, giữa lúc gió nổi từng cơn, mưa giăng mờ thành Phú Xuân, canh ba điểm đúng, tiếng chuông đại nội đột ngột ngân lên bảy hồi. Tin truyền ra như sét đánh: Tây Sơn Thái Tổ Vũ Hoàng Đế Quang Trung băng hà. Ngay trong đêm, đại triều khẩn cấp được triệu tại Điện Cần Chính. Ngọn đuốc sáng rực như ban ngày, rọi vào hàng trăm gương mặt chư thần - người rúng động, kẻ u uẩn, ánh mắt dõi lên long sàng phủ lụa trắng, nơi linh cữu vừa đặt. Phía trước điện, Ngự thư di chiếu được đặt trên án vàng, niêm kim ấn, sẵn sàng tuyên đọc. Trần Văn Kỷ tuyên đọc Chiếu thư trước hoàng thất và văn thần võ tướng, Chiếu thư có đoạn: Quang Trung nguyên niên, Ngự bút ngày 25/6/1792 Phụng thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết Trẫm, trời Nam dựng nghiệp, gánh thiên mệnh, dấy binh Tây Sơn, dẹp giặc nội loạn, phá quân Thanh Mãn, mở mang cõi bờ, dựng nền vương nghiệp từ thuở loạn ly. Nay bệnh hiểm dồn dập, mạch tượng rối loạn, e rằng vận số hữu hạn, lòng đau như cắt, vẫn gắng giữ thanh tâm để phó thác đại sự về sau. Việc nước không thể không người chủ trì, nên Trẫm ban chiếu này, truyền xuống Nội các, các bộ, Bắc viện, Nam phòng, lưu truyền muôn thuở, khắc đá ghi đồng: 1. Phong Hoàng Thái tử Nguyễn Quang Toản, giữ chức Giám quốc: Điều hành triều chính, điều hòa quần thần, ngăn ngừa những kẻ mưu đồ khuynh đảo, giữ vững kỷ cương, đối ngoại với các nước lân bang đổi niên hiệu là Cảnh Thịnh. 2. Phong Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh làm Nhiếp chính vương, có toàn quyền xử lý mọi chính sự, việc binh vụ, sách lược nội trị ngoại giao, phụ giúp Giám quốc chăm lo triều chính. Trẫm biết trong triều có lắm người toan tính, dị nghị việc này nhưng Trẫm đã thận trọng cân nhắc, định ra kế sách lâu dài, giữ vững đại cục, ý Trẫm đã quyết, không ai được làm trái. 3. Khi Trẫm về với tiên tổ, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi, làm nhiều Lăng mộ giả để thích hợp phục vụ nghi thức Quốc tang, còn nơi an nghỉ của Trẫm, Trẫm đã giao Nam Bình Vương bí mật chuẩn bị chu đáo. 4. Các Nhi tử của Trẫm phải luôn đoàn kết, giữ vững cương thường, đạo lý, chăm lo giang sơn xã tắc, đến dịp thích hợp, Triều thần theo Chiếu chỉ này, suy tôn Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh kế vị Trẫm nối ngôi chính thống, bảo toàn huyết mạch hoàng triều, giữ vững cơ nghiệp Đại Việt. Chiếu này soạn tại Ngự thư phòng, Trẫm thân bút điểm chỉ, đóng kim ấn, ủy thác cho Nội các tuyên đọc trước triều. Kẻ trung thần nên xem kỹ lòng Trẫm, người gian tà hãy biết sợ oai trời. Trước linh cữu phủ kín hoàng bào, hoàng thất, triều thần cúi đầu xếp hàng quỳ rạp khóc nghẹn, dập đầu "Sao Hoàng thượng lại băng hà đột ngột đến vậy? Mới hôm trước còn nghe Ngài nghị triều, giọng nói vẫn sang sảng như sấm"; "Rồi chỉ phong Nam Bình Vương làm Nhiếp chính vương.." Trần Văn Kỷ nghiêm mặt " " Thánh thượng băng hà. Di chiếu đã lập. Triều thần và hoàng thất, chuẩn bị tiếp chỉ thực thi. " Không ai dám trái lời. Những ánh mắt đầy nghi hoặc nhanh chóng cúi xuống, bị nhấn chìm bởi tang tóc, bởi uy nghiêm của triều đình. Tiếng hô đồng thanh như nghẹn lại nơi cổ họng. Không ai dám ngẩng đầu - bởi nỗi tang thương quá lớn, và bóng uy nghiêm của Người đã khuất vẫn như sấm rền vang vọng nơi điện miếu. " Chúng thần.. tiếp chỉ, tạ ơn! " Khắp kinh thành đèn trắng treo cao. Đoàn người đưa tang lặng lẽ đi qua Hoàng thành, quan quân và dân chúng quỳ dọc hai bên đường, khóc rống như mất cha. Tang lễ cử hành vội vã theo đúng di chiếu: Không dựng lăng, không đại tang, mọi sự làm theo lối thảo dân. Ngay cả tên tuổi cũng không ghi trên bia mộ, chỉ để bốn chữ:" Hoàng đế chi lăng ". Cả nước rúng động. Trần Quang Diệu lui về Nghệ An lo phòng tuyến phía Bắc. Triều chính do Thái tử Quang Toản tiếp nhận ngôi Giám quốc danh nghĩa, nhưng trong bóng tối, từng đợt sóng ngầm bắt đầu nổi lên.. Tin Vua Quang Trung băng hà nhanh chóng truyền ra khắp Phú Xuân như một cơn bão. Quan quân các bộ, dân chúng cả nước đều khóc lóc thảm thiết. Trận mưa lệ không ngừng rơi suốt nhiều ngày, và chỉ trong một thời gian ngắn, cái chết của Đại Đế đã khiến đất nước rơi vào một sự sụp đổ tinh thần chưa từng có. Từ khắp nơi, dân chúng đều đốt hương cúng vái, tưởng niệm một vĩ nhân đã khuất. Các tướng lĩnh, văn thần, và hoàng thân quốc thích không ai không bàng hoàng, đau đớn. Võ Văn Dũng, khi ấy đang trên đường ra biên ải phía Bắc, chuẩn bị đi sứ Mãn Thanh. Hay tin, ông quay ngựa giữa đèo Ngang, phi ngày đêm trở về Phú Xuân. Trên đường đi, gặp dân phủ khăn tang, ông không cầm lòng được, đập tay vào yên ngựa, ngửa mặt khóc lớn giữa đất trời. Tiếng khóc như xé lòng, vang vọng khắp các dãy núi rừng: " Năm năm dấy nghiệp tự thân nông Thời trước thời sau khó sánh cùng Trời để vua ta thêm chục tuổi Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng Bắc cung hoàng hậu Lê Ngọc Hân phủ phục bên linh cữu Nhà vua, không ăn không ngủ. Mỗi ngày Hoàng hậu đều viết một khúc Ai tư vãn, thấm đẫm nước mắt, ghi lại từng hồi ức oai hùng của Nhà vua. Nỗi đau của Bắc cung hoàng hậu không thể nào tả xiết. Áng thơ ấy sau này trở thành huyền thoại, được truyền tụng trong dân gian: Nghe trước có đấng vương Thang, Võ, Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao; Mà nay áo vải, cờ đào, Giúp dân, dựng nước biết bao công trình! Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn, Công đức dày, ngự vận càng lâu; Mà này lượng cả, ơn sâu, Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần. Công dường ấy mà nhân dường ấy, Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công? Rộng cho chuộc được tuổi rồng, Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi. Dưới bóng chiều u ám, nơi linh cữu hoàng đế vừa hạ xuống chính điện, khung cảnh tang thương khiến trời đất cũng nghẹn ngào. Bảy vị hổ tướng - những trụ cột của vương triều Tây Sơn - người thì đấm ngực, kẻ quỳ lạy sụp đầu bên án linh sàng, tiếng khóc dội cả rừng thiêng. Võ Văn Dũng, vị võ tướng từng ngang dọc chinh chiến, nay rũ rượi như thân cây trốc gốc. Trần Quang Diệu, đôi mắt từng nhìn bão lửa không chớp, giờ lệ chảy thành dòng. Võ Đình Tú ôm chặt cây cột miếu, gào khóc nức nở đến lạc giọng. Lý Văn Bưu run rẩy rút gươm định tuẫn tiết giữa điện, nếu không có Nam Bình Vương giữ lại, có lẽ đã nhuốm máu tang phòng. Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Lộc, Lê Văn Hưng - những hổ tướng từng làm quân Thanh khiếp đảm, giờ ngồi bệt như những đứa trẻ mất cha, không còn giữ nổi dáng uy phong thuở trước.. Ở góc điện, năm nữ anh thư - Ngũ phụng thư trứ danh - cũng ngã quỵ trong nỗi đau tuyệt vọng. Bùi Thị Xuân gào khóc, tóc rối như tơ vò "Tiên đế, Tiên đế ơi". Bên cạnh, Hoàng hậu Bùi Thị Nhạn kiệt sức ngã vào tay cung nữ, khuôn mặt tái nhợt không còn chút thần sắc, nhưng đôi mắt vẫn không rời linh cữu, như muốn khắc sâu bóng hình Nhà vua lần cuối. Trần Thị Lan - phu nhân của tướng Tuyết - ôm lấy chân chồng, cả hai quỳ mọp khóc rống như mất cả thiên hạ. Huỳnh Thị Cúc cào đất, nước mắt hòa cùng bụi cát. Nguyễn Thị Dung, người vợ của tướng Trương Đăng Đồ, tay ôm di ảnh, miệng chỉ lặp đi lặp lại hai chữ Tiên đế như người hóa dại. Các vị hoàng hậu, phi tần và con cháu hoàng gia, văn thần võ tướng chìm trong biển lệ. Không ai nói nên lời. Nỗi đau ấy không phải của riêng một ai, mà là vết rạn sâu trong tim của cả một vương triều. Cảm giác như long mạch Tây Sơn đã đứt đoạn, như trời Nam vừa mất đi vị tinh tú rực rỡ nhất, để lại cả đất trời trong màn sương thê lương đến lạnh người. "Hoàng thượng đã an nghỉ rồi," Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh nói với giọng đầy kìm nén, cố gắng giữ bình tĩnh giữa những cơn sóng lòng cuồn cuộn " Lời nói của Nam Bình Vương khiến những chiến binh kiên cường, những vị tướng giàu lòng trung nghĩa không thể nào ngừng khóc. Nhưng trong sâu thẳm của nỗi đau ấy, họ hiểu rằng, mặc dù Quang Trung đã qua đời, nhưng hình ảnh của Ngài, những gì ngài đã cống hiến cho đất nước, vẫn sống mãi trong tim họ. Trong gian điện lạnh lẽo giữa mùa xuân phương Bắc, Càn Long đế ngồi uy nghi trên long ỷ, tay nâng chén trà Bích Loa xuân khói nhẹ bốc lên, ánh mắt thâm sâu nhìn ra ngoài trời mù tuyết. Tin tức từ An Nam vừa được sứ thần trình lên, nét mặt lão hoàng đế chợt ánh lên tia lạnh lùng như lưỡi kiếm giấu trong tay áo. Ông khẽ nhếch môi, cười nhạt: " Quang Trung.. rốt cuộc cũng đã chết. Cái chết ấy, nhanh hơn ta dự liệu. " Bàn tay run vì tuổi tác gõ nhịp nhẹ lên thành ghế, giọng ông chậm rãi, rành rọt: " Giờ đây, triều Tây Sơn chỉ còn đứa trẻ lên nắm quyền, và một Nhiếp chính non nớt thiếu kinh nghiệm. Cảnh Thịnh chỉ là cái bóng trong tay thần tử. Quân cờ đã dịch chuyển, cơ hội đã tới. Đây chính là thời khắc để Đại Thanh dựng lại uy phong thiên triều phương Nam! " Các đại thần trong triều rì rầm, nhưng không ai dám chen lời. Càn Long đứng dậy, tay áo lụa vung nhẹ như cánh hạc tung cánh, mắt sáng như sao: " Trẫm sẽ cho triệu Tôn Sĩ Nghị trở lại. Lần này, Đại Thanh không chỉ đòi lại thể diện.. mà còn phải cắm rồng trên toàn cõi Giao Chỉ! " Giữa chính sảnh thành Gia Định, Nguyễn Ánh rảo bước dọc hành lang, tay cầm bức mật thư gửi từ Phú Xuân. Vầng trán ông nhíu lại một thoáng, rồi chợt giãn ra – nụ cười hiện lên như sấm chớp sau cơn giông. Trong mắt ông, cả miền Nam như đang chuyển động dưới bước chân một vị quân vương định mệnh. " Thế là.. Quang Trung đã chết thật rồi. " Ông nhìn các tướng lĩnh thân cận - Lê Văn Duyệt, Võ Tánh, Nguyễn Văn Thành - giọng như sấm vang: " Các khanh nghe rõ! Trời đã thuận, thời đã đến! Tây Sơn mất hổ, chỉ còn dê con ôm ảo vọng. Bọn chúng sẽ rối loạn, chia bè kết phái. Chúng ta - chính là sấm sét giáng xuống phá tan cái vỏ mục ruỗng ấy! " Ông nắm chặt chuôi kiếm bên hông, rút phắt ra khỏi vỏ, mũi kiếm lóe sáng dưới ánh mặt trời: " Từ hôm nay, ta có thể kê cao gối ngủ yên, khi thời cơ chín muồi, một trận cuốn sạch cả sông Lam lẫn sông Hồng! Đại nghĩa nhà Nguyễn sẽ rực cháy từ phương Nam thâu tóm cả trời Nam đất Bắc! " Trong lòng dãy Thanh Long Sơn hiểm trở, nơi núi non trùng điệp và sương mù che phủ quanh năm, một tòa cổ điện ẩn sâu giữa rừng đá dựng đứng. Giữa gian đại sảnh lạnh lẽo ấy, ngọn lửa hồng leo lét cháy trong lư hương cổ, tỏa khói mù mịt như u hồn quấn lấy quá khứ nhuốm máu. Chủ nhân Thanh Long Sơn - một bóng người khoác áo choàng đen, mặt che kín nửa bằng mặt nạ sơn son - đang ngồi trầm mặc giữa ngai đá, tay lật từng trang mật tấu từ tay gián điệp gài trong Phú Xuân. Đôi mắt dưới mặt nạ rực lên ánh tà mị khi dòng chữ" Hoàng đế Quang Trung băng hà, Thái tử Giám quốc, Nhiếp Chính vương xử lý quân chính "hiện ra trước mắt. Gã khẽ bật cười – tiếng cười trầm thấp, khô khốc như đá vỡ. Tiếng cười dần lớn, vang vọng khắp sơn động như tiếng hổ gầm giữa chốn âm ti. " Tên vua áo vải ấy.. tưởng có thể thoát khỏi lưới trời? Tất cả đã đến hồi báo ứng. " Hắn đứng dậy, bước từng bước chậm rãi xuống bậc thềm đá, tấm áo choàng phất lên như bóng tử thần giáng thế. Phía sau, hàng chục thuộc hạ áo đen đồng loạt quỳ rạp, miệng đồng thanh: " Thánh chủ vạn tuế! " Gã giơ cao tay, giọng vang rền như chuông cổ: " Tây Sơn đã lung lay. Quân Thanh muốn nuốt Bắc, Nguyễn Ánh nhắm vào Nam.. còn ta - ta sẽ đâm xuyên tim nó từ chính giữa trung tâm. Đêm của xây dựng đại nghiệp thiên thu.. đã đến! " Một con chim ưng từ trên cao lao xuống, móng vuốt bám lên cánh tay gã. Gã vuốt ve bộ lông đen bóng, nhếch môi: " Bay đi, báo tin cho những kẻ còn mang mối hận máu. Lửa của Thanh Long sẽ thiêu trụi cả Phú Xuân"
Chương 7. Chinh Bắc - Hộ quốc an dân Trời cuối đông năm 1792, mây mù giăng kín thành Phú Xuân, gió bấc hun hút thổi qua sông Hương như tiếng khóc nghẹn ngào vọng từ cõi u linh. Tin dữ truyền khắp cả nước: Hoàng đế Quang Trung băng hà. Đô thành chìm trong tang tóc, từ hoàng cung tới phố phường, người người phủ phục bên đường, kẻ khóc ngất, người ngửa mặt than trời. Lòng dân đau như cắt, bởi vầng dương vừa soi sáng non sông chưa được mười năm, nay đã vụt tắt. Nhưng giữa lớp lớp màn tang, trong chính tẩm cung nơi linh cữu còn phảng phất mùi trầm, một tia lửa vẫn âm ỉ cháy – tia lửa mang tên Nguyễn Quang Minh. Ngay sau lễ tang, chính sự Đại Việt rơi vào cơn rối ren. Phía Nam, Nguyễn Ánh lấp le bờ cõi, phía Bắc, dư đảng nhà Lê mưu toan phục quốc. Trong ngoài đều dậy sóng. Giữa lúc ấy, Nhiếp chính vương Nguyễn Quang Minh, tuổi trẻ đã gánh vác trọng trách thiên hạ. Lời dặn của Tiên đế Quang Trung vẫn còn vang bên tai: "Nếu có ngày ta không còn, hãy lấy thiên hạ làm đại nghiệp, lấy lòng dân làm kim chỉ." Đầu năm 1793, một biến cố lớn xảy ra: Tàn quân Lê Duy Chỉ, em ruột Lê Chiêu Thống, sau thời gian lưu vong bên đất Thanh, âm thầm trở về Cao Bằng, kết liên các thổ hào dựng cờ "phản Tây Sơn - phục Lê". Tại điện Minh Đức, Thái tử Giám quốc Nguyễn Quang Toản đang xét quốc thư, Nhiếp chính vương bước vào, đầu đội khôi nhẹ, mình khoác áo bào xanh thẫm. Gương mặt trẻ tuổi nhưng ánh mắt cương quyết, trầm tĩnh. Ngài quỳ xuống, trang nghiêm tấu: - Thái tử Giám quốc, Tiên đế trước khi băng hà đã giao cho thần trọng trách Nhiếp chính, giúp Người gánh vác quốc sự. Nay loạn đảng Lê Duy Chỉ nổi lên ở Bắc cương, lòng dân còn dao động. Thần xin lĩnh ấn Khâm sai đại thần, thân chinh ra Bắc. Nhân đó chỉnh đốn binh ngạch, khơi lại uy nhà Tây Sơn. Việc này không thể chậm trễ. Mong Thái tử Giám quốc chuẩn thuận. Nguyễn Quang Toản nghe xong, rớm lệ, bước xuống nâng tay Nhiếp Chính vương: - Tiên đế từng nói, trong các huynh đệ, chỉ có Huynh là người gánh nổi đại cục. Nay ta nối nghiệp còn nhỏ, triều chính muôn sự, xin giao cả cho Hoàng huynh toàn quyền định đoạt. Đây là Thượng phương bảo kiếm – Tiên đế đã ban - nay ta trao lại cho Huynh. Mong Huynh ra Bắc bình loạn, chấn chỉnh quân vụ, lấy lại uy phong tổ nghiệp. Nhiếp chính vương đón thanh kiếm, lặng lẽ nhìn ánh thép phản chiếu mặt trời đầu xuân, rồi khẽ cúi đầu: - Thần lĩnh mệnh. Mong Thái tử Giám quốc ở lại giữ vững cung nội, bảo vệ long thể, chờ ngày thần khải hoàn. Trước ngày đại quân khởi hành từ Phú Xuân ra Bắc, mây sớm vần vũ trên bầu trời Kinh thành, gió nổi từ núi Ngự như điềm báo một chặng đường cam go. Nhiếp chính vương Nguyễn Quang Minh mặc giáp nhẹ, lên ngựa tại Ngọ Môn, nhìn một vòng các văn thần, võ tướng tập hợp dưới sân điện. Ngài điềm đạm căn dặn: - Đại cuộc chưa phân, binh cần giữ. Nếu Nguyễn Ánh tràn ra, các tướng trấn thủ thành từ Bình Thuận tới Quảng Nam phải biết linh hoạt mà thủ. Khi cần, rút lui để bảo toàn lực lượng. Chớ hao tổn tinh binh. Đợi khi Bắc phương yên ổn, Bản vương sẽ có kế sách dẹp yên phương Nam. Đại quân vượt Hải Vân, qua Nghệ An, Thanh Hóa, tiến về Thăng Long. Lá cờ lớn thêu chữ "Hộ quốc an dân" tung bay khắp các trạm binh. Ngài cho lập các xưởng rèn vũ khí mới tại sông Mã, Lam Sơn; mời thợ cơ khí, mộc tinh anh về Tam Điệp, cải tiến đại bác, nỏ liễn, xe vận tải. Một cuộc cải cách quân giới âm thầm mà mạnh mẽ. Trên đường đi, Ngài cho lập các trạm chuyển quân, trạm thông tin hỏa tốc, và ra lệnh cho các phủ huyện phải chuẩn bị đầy đủ lương thảo, thuốc men, sắt thép, nhân lực. Những xưởng đúc mới bắt đầu mọc lên bên sông Lam, sông Mã, do chính đội thợ giỏi từ Nghệ Tĩnh và Thanh Hóa phụ trách. Tháng Ba, quân hội sư tại Thăng Long. Khang công Nguyễn Quang Thùy quỳ tấu: Tâu Nhiếp Chính Vương, tàn dư quân Lê Duy Chỉ ngụy xưng Thiên tử, liên kết các tù trưởng Cao Bằng, dựng lại cờ vàng. Họ thêu cờ vàng, rải chiếu truyền ngôn "Hậu Lê thiên tử còn sống", lôi kéo dân nghèo và lưu dân nổi loạn. Dân chúng miền ngược lại rì rầm 'Hoàng triều vạn tuế. Nhiếp chính vương đỡ tay Khang công và nói rằng: Phản quân chưa tuyệt, quốc nạn chưa yên. Quang Thùy, ngươi lĩnh năm vạn tinh binh, đánh thẳng Cao Bình. Ba ngày ba đêm mưa đạn lửa xé rừng già Khau Liêu. Đèo cao vực thẳm, phiến quân chiếm cứ địa hiểm, giăng bẫy đá, nỏ độc và bãi chông tẩm thuốc rắn hổ mang. Khắp dọc biên ải, rừng rậm gào rít, như tiếng oan hồn triều cũ vọng về. Nhưng chẳng cản nổi vó ngựa Tây Sơn đang cuồn cuộn dâng trào như sóng thần giữa núi cao. Nhiếp chính vương Nguyễn Quang Minh thân chinh cầm quân, vận dụng vũ khí hiện đại - trọng pháo tầm xa, lựu hỏa thạch, đạn phá rừng xuyên. Những ụ pháo đặt trên sườn núi cao, đồng loạt khai hỏa từ rạng đông. Mỗi phát nổ như sấm rung lòng đất, cây rừng bật gốc, giặc vỡ trận từng mảng như đàn kiến bị lũ quét. Quân Tây Sơn chia ba đạo: Một đạo công thẳng chính diện, một đạo men theo lối mòn cũ dân rừng chỉ, đánh úp sườn địch, đạo cuối cùng theo đường rừng tạt hậu, phối hợp phá trại tiếp lương. Đến ngày thứ tư, khi sương sớm còn lảng bảng nơi chân núi, cờ đào đã phấp phới trên thành Cao Bình. Lê Duy Chỉ - dòng dõi Lê mạt, kẻ giương ngọn cờ "phục quốc" - bị bắt khi đang cải trang làm thầy cúng trốn trong hang đá. Y bị giải về trong bộ áo đạo sĩ rách bươm, tóc rối như tổ quạ, mặt bôi nhọ nhem, nhưng ánh mắt vẫn lộ vẻ ngông cuồng. Ngày hành hình, trời đổ mưa dầm. Nhiếp chính vương không nói một lời chỉ hạ lệnh chém ba tên đầu sỏ giữa quảng trường Thái Miếu. Mỗi nhát chém như lời tuyên cáo cho thiên hạ: Đại Việt không dung thứ kẻ phản nghịch. Chưa đầy một tháng sau, hai đạo quân do Đô đốc Đặng Văn Long và Đô đốc Đặng Tiến Đông dẫn đầu, thần tốc đánh thẳng vào hai vùng loạn trấn Quy Hợp và Trấn Ninh - nơi bọn tù trưởng Thiệu Kiểu, Thiệu Đế tự xưng "vương bản mường", lợi dụng thời cuộc dựng cờ riêng. Pháo đồng ngựa sắt, đội cảm tử sơn cước, máy truyền hỏa hiệu lệnh bằng cơ khí, khiến quân loạn không kịp trở tay. Mười ngày thần tốc, bốn trại, sáu bản đều xin quy hàng, nộp gươm gậy, dâng khế ước, nhận lại ruộng rừng, xin yết kiến triều đình. Đất đai thu hồi, binh ngạch chấn chỉnh, dân vùng biên trở lại canh cày, săn bắn, vỡ đất. Cuối cùng, một kẻ tên Trần Quang Châu, tự xưng "nghĩa tử của Lê Chiêu Thống", tụ tập tàn quân, âm mưu phục quốc, giương cờ dọa sẽ "rửa sạch Thăng Long". Tin chưa kịp lan xa, quân Tây Sơn đã đánh úp Bắc Ninh trong đêm, lặng lẽ như thiên binh thần tướng. Châu bị bắt sau bốn canh giờ tử chiến, lôi về Thăng Long trong chiếc áo ngự y mà y vừa kịp mặc để đăng đàn xưng đế. Đầu y bị treo ba ngày tại cổng Đông Hoa, chính giữa Kinh thành, như một lời cảnh cáo lạnh lùng. Cùng thời điểm đó, các nhóm loạn nhỏ ở Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn - vừa nghe tin Nhiếp chính vương đích thân tiến quân - hoặc quy phục, hoặc tan rã trong đêm. Đất Bắc trở lại yên ổn. Tháng 5 năm 1793, khi hoa gạo cuối mùa còn vương trên những cánh đồng Bắc, trời Thăng Long dần sáng rực trong ánh nắng hạ. Từ phía nam cầu Nhị Hà, từng hồi trống đồng vang dậy. Đại quân Tây Sơn, dưới cờ đỏ thêu bốn chữ "Hộ quốc an dân", rầm rộ tiến về kinh đô sau chiến dịch dẹp loạn phương Bắc thắng lợi lẫy lừng. Dẫn đầu là kỵ binh tinh nhuệ, áo giáp sáng loáng dưới nắng, cờ lệnh tung bay, rợp trời sắc đỏ. Phía sau, các đội quân bộ lục tục nối dài thành hàng, gươm giáo dựng thẳng, từng bước oai nghiêm. Trên những cỗ xe gỗ phủ vải điều, là vũ khí mới, chiến lợi phẩm cùng những tù binh phản nghịch bị trói chặt. Bên cánh trái, đoàn pháo binh kéo những khẩu đại bác cải tiến vừa thắng trận ở Khau Liêu - niềm kiêu hãnh mới của quân giới Đại Việt. Dân Thăng Long, nghe tin Nhiếp chính vương Nguyễn Quang Minh khải hoàn, từ già đến trẻ, từ phường Tứ Trấn đến phố Hàng Đào, Hàng Thiếc, kéo nhau ra đón quân. Tiếng hò reo vang dội, tiếng trống ngũ âm, tiếng mõ rền vang. Các bà lão rưng rưng nước mắt, các ông lão chống gậy cúi đầu, miệng lẩm nhẩm: - Ơn trời, nước nhà còn vững.. Đại Việt muôn năm! Bọn trẻ con chạy theo từng bước ngựa, tay cầm cờ vải nhỏ do mẹ cha may vội trong đêm. Cô gái Kẻ Chợ mang bánh trái, hoa thơm ra tặng quân sĩ. Có người quỳ bên vệ đường, dâng bát nước mưa trong ngần, run run dâng lên vị Nhiếp Chính vương mà họ chỉ nghe danh trong những lời kể hừng hực chiến thắng. Từ cửa Đại Hưng đến tận Thái miếu là một biển người. Dân chúng Thăng Long đứng dày hai bên đường, trải dài suốt mấy dặm, ai nấy ăn mặc tề chỉnh, người đeo dải yếm đỏ, kẻ đội khăn sô trắng, tay cầm hoa sen, trầu cau, bánh trái. Mặt trời đứng bóng, nắng chang chang, thế mà không một ai bỏ về, như thể từng trái tim trong trăm họ đang hòa chung một nhịp thổn thức – chào đón người anh hùng từ trận mạc trở về. Khi đoàn kỵ binh dẫn đầu dừng lại ở bậc đá đại điện, Nhiếp chính vương Nguyễn Quang Minh xuống ngựa, tháo nón trụ, khom lưng thi lễ với trăm họ, đám đông bỗng vỡ òa tiếng reo hô: - Thiên tuế! Thiên tuế Nhiếp chính vương! - Ơn đức vương gia, nước nhà mới có ngày yên ổn! - Tổ tiên phù hộ, trời còn thương giống Lạc Hồng! Giữa biển người, một nhóm bô lão râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc, tiến lên quỳ lạy. Một cụ mặc áo dài lam, giọng run run nhưng đầy khí tiết, dâng lên bài thơ viết tay, đọc lớn trước toàn dân: "Nửa đời nghe tiếng vương gia, Nay trông tận mặt lệ nhòa khăn tang. Một lòng phò nước chống gian, Giữ yên bờ cõi, dựng ngàn năm sau." Một nhóm học trò nghèo từ Văn Miếu, đầu chít khăn thâm, áo nâu sờn vai, dâng lên cuốn thư pháp có mấy chữ viết thật to: "Tâm chính, khí dũng, cứu nguy xã tắc." Người trao là cậu học trò họ Trần, tuổi mới mười tám, quỳ xuống khấu đầu ba cái, rồi thưa: - Tiên sinh chúng con vẫn giảng chuyện về Quang Trung hoàng đế, Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh và nói rằng: "Quốc có nạn, anh hùng xuất." Nay thấy người thật, xin nguyện đem tài hèn sức mọn, theo nghiệp nước. Một cô gái bán hàng nước Kẻ Mơ, lặng lẽ gói bó sen hồng, buộc bằng lụa đỏ, rồi gạt nước mắt mang tới: - Dạ thưa vương gia, mẹ thiếp bảo: Hoa sen trong bùn mà chẳng hôi tanh, như lòng dân mong chờ bậc minh quân giữa lúc nước nhà u ám.. Nhiếp Chính vương Nguyễn Quang Minh nghẹn lời, chỉ cúi đầu cảm tạ. Mắt Ngài đỏ hoe. Trong tiếng trống đồng rền vang, Ngàu đứng thẳng dậy, hướng về muôn dân, giọng sang sảng như sấm giữa trời xuân: - Thân này là cỏ rác, nhưng chí nguyện như sắt đá. Chỉ mong lấy thân phò nước, cứu dân, giữ lấy giang sơn do Tổ tiên để lại. Một lời ấy khiến cả quảng trường lặng phắc, rồi vỡ òa tiếng tung hô: - Trời không phụ nước Nam! - Người là sao sáng giữa đêm đen! - Vạn dân đồng lòng, nước nhà tất thịnh! Ngay sau ngày chiến thắng, dẹp yên loạn đất Bắc, Nhiếp Chính vương thân chinh thị sát các trấn phía Bắc, đi suốt từ Thuận Hóa qua Nghệ An, Thanh Hóa, rồi tới tận Kinh Bắc, không ngồi lâu ở bất cứ phủ đệ nào. Mỗi trấn Ngài dừng chân các việc được thi hành gấp rút Chỉnh quân ngũ - quân đội địa phương được điều động luyện tập theo phương pháp mới, trong đó nhấn mạnh kỷ luật, thao lược và khả năng phối hợp giữa bộ binh – pháo binh - thủy binh kết hợp vũ khí hiện đại. Cải kho binh - lập xưởng cơ mật – Ngài chọn những vùng hẻo lánh như rừng sâu Quỳ Châu, khe núi Thanh Lâm, bờ sông Tả Lĩnh.. để lập "xưởng cơ mật". Tại đây, dưới sự giám sát của các thợ giỏi được Nguyễn Minh bí mật tuyển chọn, một cuộc phục hưng kỹ nghệ quân sự được tiến hành: Đúc pháo thần công theo bản vẽ mới, với vỏ dày, lòng pháo dài hơn, tầm bắn xa gấp đôi cự pháo của quân Thanh và Xiêm. Chế tạo súng tiểu liên, súng trường, súng hỏa mai ổ xoay - mô phỏng từ bản vẽ mà Ngài đã thiết kế, dùng nguyên lý cơ học, nạp đạn nhanh hơn, bắn chính xác hơn. Sản xuất đạn pháo rỗng chứa bột cháy, khi nổ sẽ tạo nhiệt độ cao làm cháy rụi cả thuyền địch - gọi là "Pháo Viêm Lôi". Thủy quân được cải tiến chiến thuyền, gia cố mũi thuyền bằng thép rèn, lắp nỏ lớn hai bên mạn, có thể vừa bắn tên lửa, vừa thả thủy lôi bằng chum đồng chứa hỏa dược. Các chiến thuyền được trang bị trọng pháo tiên tiến. Khôi phục kỹ nghệ luyện sắt vùng Thanh Nghệ - từng bị bỏ quên sau loạn Trịnh Nguyễn. Nguyễn Minh cho mở lại các lò luyện ở Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Hương Sơn. Dưới sự bảo hộ của quân Tây Sơn, những người thợ rèn giỏi được đưa từ các làng nghề ra làm việc toàn thời gian, sản xuất giáo mác, kiếm đao, mũ giáp với tiêu chuẩn khắt khe chưa từng có. Khi băng giá đã phủ trắng những con đường miền sơn cước, người ta vẫn thấy một bóng đen cưỡi ngựa ô đi qua các làng nhỏ. Không kèn trống nghênh đón, chỉ là ánh mắt ngỡ ngàng, cúi đầu chào vội của dân quê khi nhận ra vị Nhiếp chính vương trẻ tuổi đang giẫm bùn như họ. Đêm đến, Ngài nghỉ dưới mái tranh cùng dân, lấy bản đồ đất nước trải ra trước đèn dầu, bàn chuyện chia lại địa giới, chỉnh lộ thủy bộ, định hướng mở thêm trường học, viện thí nghiệm kỹ thuật, và xây trạm đưa tin bằng ám mã khói. Mỗi vùng chàng đi qua đều để lại một hạt giống thay đổi. Khi xuân tới, từ Thanh Nghệ ra tới Kinh Bắc, đâu đâu cũng thấy tiếng rèn sắt, tiếng trống thao trường, tiếng trẻ con đọc sách, và cả tiếng ruộng lúa reo vui trong gió. Mỗi nơi Ngài đi qua, không chỉ là tên một trấn, một châu, mà là từng mảnh linh hồn của giang sơn đã rách nát vì chiến tranh. Ở Nam Đàn, ruộng hoang cỏ mọc cao đến đầu gối, trẻ nhỏ đen gầy, run rẩy dưới mái tranh rách nát. Một cụ già nhìn thấy chàng, chỉ thở dài: - Mấy chục năm chinh chiến, giờ thấy quan triều đi bộ mà nước mắt tôi trào ra.. Chỉ mong đời con tôi được thấy đất nước bình yên. Ở Thọ Xuân, bên bờ sông Chu, Minh dừng ngựa trước một ngôi chùa cháy dở. Một vị sư già, tay cầm chổi, vẫn miệt mài dọn đống tro tàn. Thấy Nguyễn Minh, cụ quỳ xuống: - Xin cứu lấy dân đen. Giặc nào cũng sợ quân, nhưng dân thì chỉ sợ đói. Xin Ngài dựng lại non sông, cho lúa trổ đều cả ba miền. Tại Tam Giang, một người đàn bà góa thắp nhang trên bãi đất trống - nơi chồng nàng bị bắt đi phu, chưa bao giờ trở lại. Gặp Nguyễn Minh, nàng chỉ hỏi: - Bao giờ thì hết cảnh này? Bao giờ thì trẻ con được học chữ, chứ không học cách cầm súng, gươm? Mỗi lời nói như dao khứa vào tim. Nhiếp Chính vương không hứa hẹn, không biện minh, chỉ cúi đầu, khắc từng ánh mắt ấy vào tim như lời thề không thành văn. "Nếu không thể đem thái bình về cho muôn dân, thì chiếc chiến bào này ta sẽ không cởi xuống, dẫu tóc có bạc giữa sa trường." Trên đỉnh Tam Đảo, gió lạnh thổi buốt. Đứng giữa núi non mù sương, nhìn về phương Nam, Nguyễn Minh siết chặt thanh kiếm: - Một dân tộc đã đi qua máu và lửa, thì xương sống không thể cong. Một đất nước đã sinh ra Quang Trung hoàng đế vĩ đại, thì giặc nào cũng có ngày phải cúi đầu. Người dân các trấn gọi Ngài là "Vị vương áo đen", bởi không thích nhung gấm, chỉ khoác chiến bào nhuốm bụi đường. Nhưng sau lưng Người là ngàn vạn tấm lòng dõi theo, từ cụ già đến trẻ nhỏ, từ nông dân nghèo tới trí sĩ lưu lạc. Họ không gọi tên chàng bằng tước vị, mà bằng khát vọng: - Người sẽ dựng lại nước nhà. Người sẽ đem xuân trở về cho Đại Việt. Dọc theo đường thiên lý, từ Hoan Châu đến Kinh Bắc, nơi nào Nguyễn Minh dừng chân, cũng nghe thấy cùng một tiếng nói - dẫu phát ra từ miệng những con người khác nhau, hoàn cảnh khác nhau - nhưng đều thấm đẫm một điều: Khát vọng thống nhất non sông. Ở Nghi Xuân, một người mù gảy đàn trên bến sông, hát khúc ca cũ mà ông gọi là "khúc chờ ngày yên" : "Bao giờ cờ đỏ lại bay/Một nhà chung bóng, một rày nước non.." Tại Phố Cát, Nguyễn Minh thấy một đám học trò tụ tập bên gốc đa, viết thư pháp lên giấy thô, từng nét chữ như rút ra từ máu tim: "Một giang sơn, một lòng dân, một thời cơ - xin đừng để lỡ." Ở Tuyên Quang, một người đàn ông mất cả hai chân trong loạn binh, bò ra giữa đường để được nhìn thấy chàng, miệng lẩm bẩm như cầu nguyện: - Xin Vương đừng bỏ chúng tôi. Xin đem một Đại Việt trở về - không chia cắt, không giặc giã. Trên núi cao Vũ Nhai, người Mán, người Thái, người Nùng đốt lửa suốt ba ngày, dâng lễ vật, dán giấy nguyện trước các tảng đá cổ, trong đó có lời thề bằng tiếng mẹ đẻ: "Từ nay một lòng theo Người - nếu còn chia ba xẻ bảy, dân bản thề không ăn Tết!" Và ở khắp nơi, trong lời ru của mẹ, trong thơ của sĩ phu, trong tiếng mõ chùa, trong cả hơi thở đất trời, chỉ có một âm thanh trầm hùng đang lớn dần: - Bao giờ dòng máu Lạc Hồng lại rực sáng trong ngày non sông về một mối, triệu con tim cùng đập dưới một trời Đại Việt yên bình Nguyễn Minh nghe tất cả. Ngài không trả lời bằng lời nói, mà bằng những bước chân không ngơi nghỉ, bằng từng đạo quân được huấn luyện lại, từng xưởng binh được dựng lên, từng cánh đồng được cày lại bằng bàn tay nông dân. Ngài mang theo trên vai cả nước Đại Việt chưa lành lặn - và từng mảnh lòng dân ấy, chính là bản đồ máu thịt để Nhiếp Chính vương kiêu hùng đi cho trọn con đường về lại một giang sơn thống nhất.
Chương 8. Quy Nhơn Thất Thủ, Đế Nghiệp Lung Lay Lại nói về Quân Gia Định, khi nghe Nhiếp Chính vương Nguyễn Quang Minh thân chinh mang quân tiến đánh Thăng Long, mở mặt trận Bắc hà. Nguyễn Ánh, khi hay tin ấy, lập tức họp bàn cùng các tướng lĩnh trong hành dinh tại Gia Định. Ông đứng trước bản đồ, tay chỉ thẳng vào Phú Xuân, giọng dứt khoát: - Trời giúp nhà Nguyễn ta! Kẻ ấy đã bỏ Phú Xuân ra Bắc. Nay là lúc đánh thẳng một đường, chiếm kinh sư trong một mùa trăng! Phía trong triều, khi Nhiếp chính vương đang cùng Nguyễn Quang Thùy điều binh Bắc Hà, thì ở Phú Xuân, sóng ngầm cũng nổi, quyền thần được phen nghiêng ngả triều chính. Ngày ngày gửi thư ra Bắc báo tin cơ mật. Những phong thư được bọc trong ruột tượng đồng, gửi theo đường mật xuyên qua sơn lâm, vượt qua đèo Hải Vân, đưa đến tay Nhiếp chính vương. Nguyễn Quang Minh, khi nhận thư, chỉ im lặng. Đôi mắt trầm như nước giếng cổ. Đêm ấy, trên điện Kính Thiên Thăng Long, ngài vẽ một đường đỏ từ Quảng Nam đến Phú Xuân, rồi đặt lên đó một dấu "Nhẫn". Giữa lúc Bắc phương vừa yên, máu phản nghịch còn chưa kịp khô trên bãi chém Thăng Long, thì tin dữ từ phương Nam truyền đến như sét đánh ngang trời: Nguyễn Ánh khởi đại binh, dẫn thủy lục song hành, từ Gia Định đánh thốc ra Bình Thuận. Cả triều đình Phú Xuân chấn động. Nhưng những người từng nghe lời dặn của Nhiếp chính vương trước ngày khởi hành đều biết: Đây không nằm ngoài tiên liệu của Ngài. Mùa hạ năm 1793, Nguyễn Ánh sau nhiều năm khôi phục lực lượng ở Gia Định, nhân thời cơ nội bộ Tây Sơn phân tán, liền quyết đoán thân chinh mở cuộc phản công lớn ra Nam Trung Bộ, đánh thẳng vào các trấn Bình Thuận, Diên Khánh. Mũi chủ lực do chính Nguyễn Ánh chỉ huy thần tốc tiến ra Bình Thuận. Quân Tây Sơn dưới quyền Lê Văn Hưng tuy phòng thủ kiên cường, nhiều lần đẩy lui các đợt công kích, song sau hai tuần giao tranh dữ dội, thế trận ngày một xấu đi. Nhận thấy không thể giữ thành mà không bị tiêu diệt toàn bộ, Lê Văn Hưng quyết định chủ động rút lui. Ông cho phá hủy hết kho tàng, châm lửa đốt quân doanh rồi đưa tàn binh xuống thuyền, rút theo đường biển về Phú Xuân. Cùng lúc đó, Diên Khánh cũng trở thành mục tiêu công phá dữ dội. Tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Huấn sau khi bị cắt đứt đường tiếp tế, hiểu rằng thành tất thất thủ, liền cho binh sĩ triệt thoái có trật tự. Kho lương được đốt sạch, pháo binh tháo gỡ và chôn giấu, toàn quân lui về phòng thủ tại đèo Hải Vân – nút chặn hiểm yếu phía nam Thừa Thiên. Quân Tây Sơn rút lui mà như tháo chạy, cờ xí rối loạn, bếp trại bỏ hoang, lương thực bị vứt lại như thể lòng người ly tán sau cái chết của vua. Khắp các vùng từ Phan Rang đến Quảng Ngãi, tin đồn lan truyền: "Quang Trung chết, Tây Sơn sắp tận!" Nguyễn Ánh ngồi trên chiến thuyền giữa vịnh Cam Ranh, rót rượu cười lớn: - Bọn giặc cỏ loạn rồi! Trời giúp nhà Nguyễn rồi! Đất Thuận Quảng phen này sẽ về tay ta! Gió tháng 7/1793 thét gào trên đèo Cù Mông. Cây rừng cháy rụi, mặt đất rạn nứt, từng tấc đá sườn núi cũng đỏ rực lên trong mưa lửa. Phía nam, ba đạo quân Nguyễn giăng lưới lửa: - Nguyễn Văn Thành dẫn đầu vượt núi, chiếm cao điểm phía Tây. - Võ Tánh đánh chính diện, dẫn đoàn công phá qua đường mòn đá. - Nguyễn Văn Trương bố trí pháo binh, đốt sạch thung lũng bằng đại bác và hỏa tiễn. Trên đỉnh đèo, cờ đỏ Tây Sơn vẫn tung bay. Lê Văn Hựu - một võ tướng trung nghĩa, áo nhuộm máu, vẫn đứng giữa trận, mắt quắc lửa: - Một thước núi cũng không lùi, một người cũng là thành! Gươm gãy, giáo vỡ, từng người lính Tây Sơn ôm đá liều chết xông lên. Nhưng trước làn đạn không ngớt từ sườn núi, họ ngã xuống, như ngọn lửa tàn trong gió lốc. Đêm thứ ba, đèo Cù Mông thất thủ. Nguyễn Ánh cưỡi ngựa bước qua xác địch, mắt lạnh như thép: - Quy Nhơn.. ta đến rồi. Thị Nại nổi sóng. Hạm đội Nguyễn dàn trận ngoài khơi, từng khẩu đại pháo dựng thẳng, gầm vang như sấm. Đất Quy Nhơn rung chuyển. Nguyễn Nhạc - giờ đây đã già yếu, mắt mờ chân run – đứng trên vọng lầu, ngực nghẹn tiếng gào: - Chúng đến thật rồi.. tan giấc mộng Trung hưng. Dọc bến Cần Giờ, hàng trăm cánh buồm trắng ngả nghiêng theo gió biển, kéo theo cả hùng tâm tráng chí của một triều đại đang khao khát báo thù và phục quốc. Những chiếc thuyền chiến, từng ván gỗ, từng bánh lái đều ánh lên sắc thép. Nguyễn Ánh đứng trên chiến hạm Long Ngự, gió biển làm tung bay tấm áo bào màu thiên thanh. Đôi mắt ông hướng về phương Bắc - nơi thành Quy Nhơn hùng cứ giữa đất trời như một con hổ giữ miền Trung thượng đạo. Ông siết chặt chuôi kiếm, giọng trầm khàn như mệnh lệnh với chính mình. Bên cạnh, Võ Tánh - viên đại tướng từng nổi danh đánh giặc Man Thượng – đứng nghiêm cẩn, mắt nhìn xa, như cùng cảm thấu khát vọng của chủ tướng. - Thưa Vương, các thuyền chiến đã sẵn sàng. Long Phi, Phượng Phi, Hồng Phi.. đều được sửa lại theo kiểu Tây dương, hỏa lực mạnh hơn xưa. Quân Man cũng đã hội binh tại Phan Rí. Chúng ta có thể khởi hành. Biết cảng Thị Nại là yết hầu tiếp tế và phòng ngự của thành, Nguyễn Ánh điều Lê Văn Duyệt, Võ Di Nguy, Nguyễn Văn Trương chỉ huy hơn 200 chiến thuyền, cùng hàng vạn thủy binh tinh nhuệ, mở đại chiến trên mặt biển. Tây Sơn huy động toàn bộ hạm đội còn lại, với chiến thuyền lớn, thuyền voi, đại bác đặt trên boong, do các tướng Đặng Văn Chân, Nguyễn Văn Huấn chỉ huy, lập đại trại trên biển bảo vệ Thị Nại. Biển Thị Nại rung chuyển trong tiếng pháo nổ, lửa đỏ rực chân trời. Thuyền đánh thuyền, người đánh người, cột buồm gãy, thuyền cháy, xác người và gỗ trôi dập dềnh. Lê Văn Duyệt dốc toàn lực hỏa công thiêu rụi chiến thuyền Tây Sơn, đánh tan hạm đội. Sau nhiều ngày đêm quyết chiến, Cảng Thị Nại thất thủ, Quân Nguyễn phá tan tuyến phòng ngự ven biển, khống chế đường tiếp tế và cô lập thành Quy Nhơn. Tháng 8/1793, đại quân Nguyễn đã tiến sát Quy Nhơn. Cửa Thị Nại - nơi mệnh danh "hổ cứ" của Nguyễn Nhạc - như ngọn đèn trước gió. Nguyễn Ánh cho dựng đại doanh tại núi Úc Sơn, phối hợp hải quân nã đại bác từ vịnh Thị Nại. Trận đánh Quy Nhơn bắt đầu như tiếng sấm mùa hạ. - Chúng ta đã đến cửa nhà hắn - Nguyễn Nhạc. Hắn có giữ nổi nữa không? Võ Tánh bước tới, báo: - Quân Tây Sơn do Nguyễn Bảo - con Nguyễn Nhạc - đem voi ra nghênh chiến. Bên ta có Tôn Thất Hội đang tiếp cận từ đường bộ, chờ Vương hạ lệnh. Nguyễn Ánh gật đầu: - Tấn công giả từ Phú Quý, vòng qua Kỳ Sơn, đánh thẳng sau lưng trại địch. Võ Tánh, ông là mũi chủ lực. Đốt lửa từ Úc Sơn, chẻ đôi hàng ngũ chúng. Mau! Tiếng chiêng, tiếng hò reo xé toạc màn mưa. Hàng vạn quân Nguyễn tràn lên đồng Bình Thịnh như nước vỡ bờ. Lửa từ Úc Sơn bốc cao, thuyền pháo từ biển rền vang tiếng súng. Nguyễn Bảo, bị đánh sau lưng, không kịp trở tay. Quân voi chạy dạt. Nguyễn Nhạc trên thành Quy Nhơn chứng kiến khói lửa từ xa, mặt xám như tro. - Đô đốc Đẩu đâu? Giữ Khố Sơn bằng mọi giá! Không thể để bọn Nguyễn vào được! Nguyễn Nhạc nhìn những viên gạch vỡ nát, tay run lên. Các tướng như Lê Văn Thanh, Nguyễn Đại Phát đều mặt tái nhợt: - Thưa Vương gia.. trong thành không đủ lương. Voi đã chết vì đói. Quân không còn chí đánh. Xin người nghĩ kế lui binh.. - Lui? Lui nữa thì còn gì là Tây Sơn? Mỗi ngày, hàng trăm quả đại bác gào thét rơi xuống tường thành. Mỗi đêm, pháo sáng thắp rực trời như một cơn tận thế. - Tôn Thất Hội đánh cổng Nam, trống trận như sấm dội. - Võ Tánh đào hầm công phá phía Bắc, phá nổ một đoạn dài tường thành. - Nguyễn Văn Trương dùng hỏa pháo từ biển, đánh sâu vào hậu doanh. Nguyễn Ánh dừng ngựa trên đỉnh đồi, nhìn về phương Bắc, giọng đanh như kiếm: - Quang Trung chết rồi. Tây Sơn.. chỉ còn là hổ mất nanh! Tháng chín năm 1793, tin dữ bay về Phú Xuân: Quy Nhơn - trọng trấn miền Nam của Tây Sơn - bị quân Gia Định do Nguyễn Ánh chỉ huy vây hãm dữ dội. Thành đứng trước nguy cơ thất thủ. Trước tình thế nguy cấp, Cảnh Thịnh liền hạ chỉ điều động đại quân từ kinh đô. Ngô Văn Sở và Phạm Công Hưng - hai trụ cột quân sự Tây Sơn - được lệnh thân chinh, dẫn 17.000 quân tinh nhuệ cùng 80 thớt voi chiến, hành binh cấp tốc vào cứu thành. Đoàn quân voi hùng tráng, khí thế ngất trời, rầm rập xuyên rừng vượt suối, kéo về hạ đạo Quy Nhơn. Nhưng Nguyễn Ánh đã đoán trước ý đồ, bố trí phòng tuyến chặt chẽ. Quân Gia Định chia thành nhiều mũi, chủ động nhử địch lọt vào thế gọng kìm. Khi đại quân Tây Sơn vừa triển khai đội hình thì bị quân Nguyễn đánh tập hậu, đánh vào sườn, khiến các đội tượng binh bị hoảng loạn. Voi lồng lên phá hàng ngũ, nhiều tướng sĩ giẫm đạp lên nhau trong hỗn loạn. Cục diện trận địa rối loạn nhanh chóng biến thành thảm bại. Ngô Văn Sở và Phạm Công Hưng tiếp tục thu quân nhanh chóng tiến về giải vây Quy Nhơn. Thành Quy Nhơn, năm 1793. Sau nhiều tháng công phá không thành, Nguyễn Ánh bất ngờ ra lệnh lui quân. Cờ xí hạ xuống, trống trận im bặt, đại quân Gia Định rút khỏi vòng vây, kéo quân về cửa Thị Nại, để lại một vùng chiến địa hoang vu như thể đã bỏ trận địa, rút lui vì kiệt sức. Từ trong thành, quân Tây Sơn - đang tử thủ sau những ngày dài bị vây ép - tưởng địch đã thật sự lui binh. Đại quân Ngô Văn Sở và Phạm Công Hưng vừa tới, được lệnh mở cổng, rước vào thành trong niềm hân hoan lẫn nhẹ nhõm. Người người reo hò, tướng sĩ thở phào - tưởng như trời đã cứu Tây Sơn một phen thập tử nhất sinh. Vua Cảnh Thịnh sai Ngô Văn Sở và Phạm Công Hưng đến giải vây cho thành Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh phải cho quân rút về Phú Yên. Dù Nguyễn Nhạc đã sai mang vàng bạc ra khao thưởng cho quân Phú Xuân nhưng Phạm Công Hưng vẫn chiếm cứ thành Quy Nhơn, ngang nhiên kê biên kho tàng tài sản. Thấy gia tài để lại cho con cháu bị tước đoạt, lại thấy quân Phú Xuân không còn kỷ cương, ngang nhiên cướp bóc coi mình chẳng ra gì, Nguyễn Nhạc uất hận thổ huyết rồi qua đời. Quân Tây Sơn mệt mỏi trong thành. Nhưng đúng lúc đó, Nguyễn Ánh ra tay. Đêm xuống, khi quân Tây Sơn trong thành còn chưa kịp ổn định đội ngũ, từ bốn phía, đại quân Gia Định như từ trong lòng đất trồi lên. Pháo hiệu bắn sáng rực trời. Cửa thành lập tức bị vây kín. Đội tượng binh Tây Sơn chưa kịp phản ứng thì đã bị trúng pháo, lũ voi náo loạn giẫm lên hàng ngũ. Trong ngoài hỗn loạn. Trên tường thành, lửa cháy sáng đỏ máu. Quân tiếp viện - vừa vào thành chưa được một ngày - bị vây gắt, đường lui cắt đứt. Lương thực chưa tiếp tế, thế trận chưa ổn định, thì đã rơi vào giữa vòng vây của hàng vạn quân Nguyễn. Trận địa trở thành chiếc bẫy khổng lồ – một cạm bẫy thâm sâu của Nguyễn Ánh đã giăng sẵn từ trước. Trận quyết chiến kéo dài ba ngày ba đêm. Toàn bộ lực lượng cứu viện bị tiêu diệt, xác chất thành đống quanh thành Quy Nhơn. Sông Côn đỏ máu. Thành trì bị cô lập. Tây Sơn mất một lực lượng lớn - những tướng tinh binh mạnh – chỉ trong một đòn trí mạng. Tháng 12/1793, Nguyễn Ánh - trên lưng ngựa, áo giáp loang máu - tiến vào thành Quy Nhơn. Ông đổi tên thành Bình Định, phủ dụ tướng sĩ đầu hàng, đặt Võ Tánh và Ngô Tòng Châu trấn thủ. Cảng Thị Nại giao Võ Di Nguy trấn thủ. Tháng 2/1794, Nguyễn Ánh hạ lệnh cho đại quân thừa thắng truy kích. Giờ đây, Nguyễn Văn Trương và Lê Văn Duyệt chia quân tiến ra Quảng Ngãi như nước lũ tràn bờ. Tây Sơn rút lui, Quảng Ngãi mất liên lạc với Phú Xuân. Trước thế tiến công như vũ bão của quân Nguyễn, pháo bắn liên hồi, sau nhiều tháng cố thủ, quân Tây Sơn tháo lui theo đường núi về Quảng Nam. Tháng 6/1794, Quảng Ngãi thất thủ. Đại quân Nguyễn tiến sát Quảng Nam, trực tiếp uy hiếp Phú Xuân - kinh thành của triều đình Tây Sơn. Bầu trời miền Trung chìm trong khói lửa. Giữa thành Quy Nhơn, đèn đuốc bừng sáng. Nguyễn Ánh nâng chén: - Chỉ vỏn vẹn gần một năm, ta đã lấy lại nửa giang sơn! Như vậy đến tháng 6/1794 Nguyễn Ánh đã kiểm soát trọn vùng Nam Trung Bộ, từ Bình Thuận - Phan Rang - Phú Yên - Khánh Hòa - Bình Định - Quảng Ngãi tiến sát Quảng Nam, trực chỉ tấn công Phú Xuân Gió cuối hạ 6/1794 hun hút trên bãi sông Hồng, ánh chiều đổ nghiêng qua mái ngói rêu phong xứ Kinh Bắc. Nhiếp chính vương Nguyễn Quang Minh cưỡi ngựa từ xưởng đúc súng Gia Lâm trở về, áo bào thấm mồ hôi và bụi than, mùi kim loại nóng vẫn còn vương trên vạt áo. Vừa bước chân vào điện Tuyên Đức, một viên nội thần đã quỳ mọp giữa sân, hai tay dâng cao ống trúc đỏ niêm ấn quân tình. - Bẩm Nhiếp Chính vương, Mật báo Điệp ảnh quân! - giọng viên nội thần khẽ mà run. Nguyễn Minh giật lấy, ánh mắt quét nhanh dòng chữ: "Quảng Ngãi thất thủ. Quy Nhơn lặng tiếng. Quân Nguyễn vượt sông Trà Khúc, đang áp sát Quảng Nam. Phái bộ trinh thám ghi nhận đại bản doanh giặc đã dựng tại An Nhơn. Đích thân Nguyễn Ánh tuyên bố: 'Một năm, lấy lại nửa giang sơn." Môi chàng mím lại, máu trong người như đông cứng giữa trưa hè. Cả gian điện bỗng nặng trĩu. Một cơn giận thầm lặng dâng lên, nóng rực mà không bộc phát, như lò rèn nung chưa đến điểm nổ. Ngài quay người, chậm rãi bước vào hậu điện. Trước linh án Tiên đế Quang Trung, nhang còn đỏ lửa. Ngài quỳ xuống, mồ hôi chảy dài theo trán: - Phụ hoàng.. người mới đi xa non sông này chưa lâu, mà lũ hậu duệ bán nước đã dám giẫm gót lên đất Thuận Quảng. Nhi thần bất tài, mới một năm, chúng đã chiếm trọn khu vực Nam Trung bộ. Còn bao lâu nữa, sẽ đòi đến tận cửa Phú Xuân? Sau khi đọc xong mật thư, Nhiếp Chính vương Nguyễn Quang Minh ngồi lặng trong điện vắng, ánh nến lay lắt soi lên gương mặt trẻ tuổi mà phong sương dạn dày. Ngoài kia, tiếng chuông từ chùa Trấn Quốc ngân dài theo gió, vọng về như nhắc nhở điều gì xa xăm. Trước linh án Tiên đế, chàng quỳ xuống, tay lần chuỗi kỷ vật do chính vua cha tặng ngày trước, lòng dậy lên từng đợt sóng nhớ thương không nói thành lời. - Phụ hoàng.. giờ người đang ở đâu? Giọng Nguyễn Minh nhỏ như lời ru gió. Gương mặt kia - từng đêm soi bóng con suối núi Ngự Thiện - giờ chỉ còn là một bài vị tĩnh lặng. Nhưng trong tâm trí chàng, bóng hình vị hoàng đế tài ba, lỗi lạc ấy vẫn sống - sống như buổi sáng cuối cùng trước khi ngự giá ra Bắc, ôm lấy chàng mà dặn: "Minh nhi.. sau này nếu ta không còn, con phải làm cho thiên hạ biết rằng máu Quang Trung chưa hề cạn. Tây Sơn không ngã, vì con còn đứng vững!" Hồi ức trào về như vỡ đê. Nhớ những đêm cùng Tiên đế Quang Trung ngồi dưới mái hiên Phú Xuân, nghe người giảng binh pháp Lục thao, Tam lược. Nhớ cả lúc bị giặc đánh úp ở sông Gianh, Nhà vua phi ngựa cứu chàng giữa màn mưa đạn. Những vết thương năm xưa Ngài chịu thay con, giờ lại nhói lên trong lòng. - Phụ hoàng.. thần nhi nhớ người.. nhớ đến từng tiếng cười, từng bước đi. Thần nhi nhớ cả ánh mắt nghiêm khắc mà ấm áp. Nếu được đánh đổi một nửa thiên hạ để thấy người bình an trở lại, thần cũng không tiếc. Lệ trào mi, nhưng Ngài nhanh lau đi. Trên vai là thiên hạ. Trong tim là một lời hứa với Người đã vì nước mà quên thân mình. Nguyễn Minh đứng dậy, mắt nhìn thẳng vào bài vị: - Phụ hoàng! Nhi thần xin thề sẽ tận tâm tận lực không phụ tấm loàng trời biển của Người. Ngoài hiên, một cánh phượng cuối mùa rơi xuống bậc thềm đá. Đêm Thăng Long dần chìm vào bóng tối, nhưng trong lòng người con ấy, ngọn lửa yêu thương và ý chí kiên trung vẫn âm ỉ cháy.. Trên sông Sài Thượng, đoàn chiến thuyền dày đặc như bức tường sắt trôi ngược về Gia Định. Gió biển thổi phần phật lá cờ Long Tinh, còn vết máu khô vẫn chưa kịp rửa trên lưỡi gươm các tướng lĩnh. Trên chiếc chiến thuyền lớn nhất, Nguyễn Ánh đứng sừng sững giữa boong tàu, áo bào trắng thêu kim tuyến chói rực dưới ánh nắng hạ. Sau lưng ông là một dải đất dài gần nghìn dặm vừa rơi vào tay - từ Bình Thuận đến tận Quảng Ngãi. Trước mặt là Gia Định - thủ phủ phương Nam - đang chờ đón đoàn quân khải hoàn. Ánh đưa chén rượu lên cao, cười sảng khoái: - Một năm! Chỉ đúng một năm, ta đã lấy lại những gì chúng cướp của ta! Bọn Tây Sơn ngỡ rằng giấu rồng, nhưng con rồng thật nay đã từ Nam bay ra rồi! Các tướng bên cạnh - Lê Văn Duyệt, Võ Di Nguy, Nguyễn Văn Thành - đều cười vang phụ họa. Lòng quân hừng hực, ai nấy đều tin: Triều Tây Sơn đang hấp hối. Nguyễn Ánh nhìn về phía Bắc, mắt nheo lại, giọng nói thấp hơn nhưng ánh lên vẻ đắc ý: - Phú Xuân chỉ còn cách một bước. Nay Quảng Ngãi đã sụp, Quảng Nam không còn bao xa. Lũ con cháu Quang Trung chỉ là lũ đom đóm giữa đêm - muốn đòi lại thiên hạ ư? Ta sẽ dập tắt từng con một! Ông bước tới lan can thuyền, tay siết chặt thanh kiếm: - Bao nhiêu năm phiêu bạt, thân này từng nếm đủ nhục nhã, sống sót trong cảnh nước mất nhà tan. Nay thời vận đã đến! Nếu trời không phụ ta, thì ngày đội mũ thiên tử sẽ chẳng còn xa.
Chương 9. Chân Long Hiển Thân Tháng 9/1794, khi hoa gạo nở đỏ dọc bờ sông Hồng, Bắc Hà như sống dậy sau những năm dài binh lửa. Tin Nhiếp Chính Vương Nguyễn Quang Minh thân chinh dẹp Bắc Hà chuẩn bị về triều. Dân Bắc trăm họ, từ cụ già tóc bạc đến em thơ chân đất, tay cầm cờ phướn tự làm, treo đầy khắp đình làng, miếu mạo. Người ta gọi nhau rằng: "Nhiếp Chính Vương khải hoàn! Người sẽ về lại Phú Xuân!" Đoàn quân đại thắng vượt sông Gianh, rồng cuốn hổ bay. Khi đoàn binh về đến Nghệ Tĩnh, dân chúng đã xếp hàng dài dằng dặc dọc hai bên đường, mang trầu cau, bánh chưng, chè lam, nước nấu từ hoa bưởi, hoa vối dâng tặng. Trong sân điện Thăng Long, nơi nắng thu đã ngả vàng qua mái ngói rêu phong, Khang công Nguyễn Quang Thùy - vị vương tử trẻ tuổi, thân khoác triều bào màu thiên thanh - bước chậm rãi đến trước mặt Nhiếp Chính Vương. Gió thu hiu hắt thổi nhẹ vạt áo, mang theo mùi trầm hương từ điện thờ tổ tiên vừa cúng tiễn. Chàng quỳ một gối xuống, hai tay dâng cao hốt ngọc, giọng trầm mà không giấu nổi xúc động: "Hoàng huynh thân chinh dẹp giặc, trấn an Bắc Hà, nay đại cuộc đã định hồi triều về Phú Xuân. Quang Thùy tuy tuổi trẻ, tài hèn, nguyện thay Hoàng huynh giữ gìn cơ nghiệp nơi Bắc địa, một lòng phụng sự, không để lòng người ly tán." Nguyễn Minh lặng nhìn đệ đệ mình - vị vương tử mang trong lòng dòng máu hoàng tộc và khát vọng yên dân - rồi bước tới đỡ Quang Thùy dậy. Bàn tay Nhiếp Chính Vương đặt lên vai Quang Thuỳ, ánh mắt như trao gửi cả niềm tin lẫn gánh nặng: "Khang công, đất Bắc đã khổ nhiều. Yên ổn chỉ là khởi đầu. Kẻ sĩ còn hoài nghi, dân đen còn đói khổ, quan lại chưa thực lòng tận tụy. Nay ta về Phú Xuân, Bắc Hà trông cậy vào đệ. Hãy lấy lòng chân thành mà an dân, lấy pháp trị nghiêm minh mà chỉnh trị bách quan." Quang Thùy cúi đầu thật sâu, giọng rắn như thép tôi: "Thần đệ xin ghi tạc lời giáo huấn của Hoàng huynh vào tâm khảm. Nếu Quang Thùy có sai lầm, xin chịu tội trước pháp, không cầu dung thứ." Ánh mắt Nguyễn Minh lặng đi giây lát. Phải chăng chàng nhìn thấy hình ảnh của chính mình thuở mới theo Quang Trung chinh chiến, cũng ngạo nghễ, cũng một lòng vì nước? Vương đặt thanh kiếm gia truyền - Bảo Quang kiếm - vào tay Quang Thùy: "Kiếm này phụ hoàng truyền lại cho ta, nay giao lại đệ giữ ở Bắc Hà. Không phải để chém giết, mà để gìn giữ đạo lý, chính khí của tổ tiên." Tờ mờ sáng, khi sương còn giăng mờ mặt sông Nhị, tiếng mõ chùa Trấn Quốc đã vang lên hòa cùng hồi chuông tiễn biệt. Nhân dân Thăng Long từ khắp ngõ phố, làng mạc kéo nhau ra bến Long Biên, nơi đoàn thuyền của Nhiếp Chính Vương Nguyễn Minh sắp rẽ sóng trở về Nam. Dọc hai bên sông, cờ xí nhuộm đỏ sắc nắng đầu thu. Trẻ thơ níu tay mẹ, cụ già chống gậy, người người tay cầm bó hoa lau, nhành liễu, hoặc chỉ đơn giản là chiếc khăn tay cũ, mà mắt hoe đỏ. Một cụ bà quỳ rạp xuống bến nước, giọng lạc đi theo tiếng sóng: "Vương đi rồi, Thăng Long lại lặng.. Mong ngày người trở lại, mang cả giang sơn về một mối.." Đám nho sinh, thầy đồ áo dài mũ cánh chuồn đứng lặng bên nhau, nước mắt đọng trên viền mắt kính gọng gỗ: "Người không chỉ là một vị thần tướng, là Nhiếp Chính Vương.. Người là hy vọng của Bắc Hà sau bao năm máu đổ, là hào khí còn sót lại của đất Thăng Long xưa." Trên thuyền lớn, Nguyễn Minh đứng lặng nhìn bóng tháp Rùa mờ xa, khẽ khom mình vái một vái thật sâu. Gió sông thổi tung tà áo bào xám bạc, như cuốn theo cả nỗi niềm nặng trĩu trong tim người. Một tiếng gọi bật lên, như vỡ tan bầu trời buốt giá: "Vương ơi! Bao giờ thì non sông liền một dải? Bao giờ thì Bắc - Nam cùng một tiếng ca khải hoàn?" Không ai đáp. Nhưng ánh mắt của vị Vương gia trẻ tuổi - ánh mắt chứa cả trăm trận chiến, vạn nỗi đau, và một lời thề thầm lặng - chính là câu trả lời cho muôn dân. Dân Thăng Long lặng lẽ tiễn đưa, không ai quay gót, mãi đến khi cánh buồm nâu khuất hẳn sau dãy sông sương khói, mới có tiếng nức nở bật thành tiếng: "Nhất định người sẽ trở lại. Lúc đó, giang sơn sẽ là một. Dưới trời Nam, chỉ còn một triều - triều của người dân Đại Việt!" Trong hoàng thành Phú Xuân, ánh chiều tà nhuộm đỏ tường thành. Các cung nữ ngày ngày nhìn về phía Nam, mong bóng áo bào xám bạc gió trận trở về. Quan tướng, sĩ dân Phú Xuân - những người từng chứng kiến năm xưa Nhiếp chính vương cùng Hoàng đế Quang Trung xông pha nơi cửa ải, đều đã già hơn trước, nhưng lòng son thì chưa hề phai nhạt. Khi đoàn quân tiến đến Ngọ Môn, trời Phú Xuân xanh đến lạ. Tiếng trống đồng vang lên từ bốn phía. Cờ Tây Sơn rợp đỏ trời. Dân chúng chen chúc hai bên đường, reo hò không ngớt: "Thiên tuế Nhiếp Chính Vương!" "Người trở về! Giang sơn rạng rỡ rồi!" Nguyễn Minh - Vị Vương gia áo vải nhưng lòng son như gấm, bước xuống chiến mã, cúi đầu trước bá tánh. "Ơn dân như trời. Minh chỉ là kẻ giữ nước thay tổ tiên. Công lao là của trăm họ, của người đã khuất!" Giọt nước mắt từ bao năm chia ly, khổ nạn, hòa với nụ cười ngày khải hoàn. Phú Xuân hôm ấy, rồng bay phượng múa, trời đất giao hòa, lòng người như xuân mới. Trưa ngày mồng tám tháng 9/1794, trời Phú Xuân rạng nắng, mây trắng nhẹ vờn quanh núi Ngự. Bên ngoài điện Cần Chính, trống chiêu binh nổi dồn dập, quan văn võ chỉnh tề phẩm phục, đứng thành hai hàng dài từ Ngọ Môn tới tận bậc tam cấp của chính điện. Nguyễn Quang Toản đứng giữa nắng vàng, chờ đón người anh cả mà người vẫn gọi một cách thân mật trong lòng: "Hoàng huynh." Tiếng hô "Vạn tuế" vang vọng từ hàng quân tiền hô hậu ủng. Từ phía cuối đường Kim Thủy, Nhiếp Chính Vương Nguyễn Minh đang chầm chậm tiến vào. Trên mình Vương là chiến bào còn vương bụi đường, ánh mắt sắc như gươm, nhưng khi nhìn thấy hoàng đệ - Thái tử Giám quốc Đại Việt - ánh mắt ấy dịu lại, như có gió xuân thổi về trong lòng người. Tiệc khải hoàn diễn ra ngay sau đó tại Thái Hòa điện. Các công thần Tây Sơn năm xưa như Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Huấn.. đều tề tựu, nâng chén chúc mừng. Quần thần chan hòa, văn võ một lòng. Ba ngày sau khi về kinh sư, trời Phú Xuân đổ mưa nhẹ như rửa bụi đường cho binh sĩ. Trong đại điện Thái Hòa, triều hội đặc biệt được triệu lập. Long kỳ dựng hai bên, trống đồng điểm ba hồi bảy tiếng, quan văn võ nghiêm chỉnh hàng lối, long trọng như buổi thiết triều mồng Một Tết. Nhiếp Chính Vương Nguyễn Quang Minh mặc triều phục màu thanh sam, áo bào không thêu rồng mà chỉ viền mây lửa, tay cầm hốt ngọc, bước chậm rãi lên giữa điện. Ánh mắt Vương kiên nghị, tiếng nói vang lên giữa triều đường yên lặng: "Tâu Thái tử Giám quốc, Gia Định đã chiếm Nam Trung Bộ, để lâu, tất sinh loạn. Thần xin lập đại bản doanh tại Phú Xuân, đài điểm chư tướng, hẹn sẽ bình định toàn cõi Nam Hà, diệt mầm phản loạn, trả lại trăm họ cảnh thanh bình" Toàn triều rúng động. Nhiều tướng lĩnh quỳ xuống hưởng ứng: "Thần nguyện theo Nhiếp Chính Vương vào sinh ra tử, quét sạch quân thù!" Quang Toản không nói, chỉ bước xuống bệ rồng, tay nắm chặt lấy vai Nhiếp Chính vương, trong khoảnh khắc ấy, ánh mắt người lấp lánh, vừa tin tưởng, vừa xúc động khôn cùng: "Hoàng huynh.. Giang sơn này là tâm huyết của phụ hoàng, là máu xương của bao nhiêu người. Ta giao tất cả cho huynh." Nguyễn Minh quỳ một gối: "Thần xin lấy thân làm khiên chắn cho xã tắc, quyết không để giặc Nguyễn còn đất sống!" Trong thư phòng, khi bóng nến lay động trên vách tường như nhảy múa theo nhịp thở của vận mệnh, Nguyễn Minh đứng lặng trước tấm bản đồ phủ kín vết mực đỏ - từng đường hành quân, từng mũi tên phản công đều được vẽ bằng sự lạnh lùng của một bậc thao lược đã quá quen với máu và lửa. Bên cạnh chàng là cuộn lụa vừa mở - mật chiếu Điệp Ảnh Quân, trên đầu đề rõ ba chữ: "Giăng Thiên Võng." Giọng Vương vang lên trầm lạnh như tiếng chuông cổ: "Lưới đã giăng, lần này ba con cá lớn sẽ vào rọ, Thanh Long Sơn, Quyền thần, Nguyễn Ánh đều sẽ biết kỳ mưu của Nhiếp Chính vương ta" Bầu trời Phú Xuân bỗng bừng sáng, như một ngọn đuốc lớn được thắp lên giữa thiên không. Ánh nắng rực rỡ rải xuống khắp núi rừng, phản chiếu từng đường gươm, nét mặt, từng bước chân rầm rập của đoàn quân Tây Sơn đang tụ hội. Những đám mây trắng như dừng lại, chầu quanh đỉnh núi, nơi sắp diễn ra một sự kiện vượt ngoài trí tưởng tượng, huyền bí và vĩ đại - thời khắc định mệnh của cả triều đại. Đài Điểm Tướng cao ba trượng, ốp ngọc bích và đá đỏ, được dựng giữa sân Rồng - nơi xưa kia Hoàng đế Quang Trung từng truyền hịch ra Bắc Hà. Giờ đây, nơi đó phủ rèm lụa, phía sau là đại kỳ Tây Sơn tung bay. Bỗng - trống dứt. Gió ngưng. Không gian như bị rút cạn. Từ sau màn rèm, từng bước chậm rãi vang lên - không vội, nhưng mỗi bước như đập vào lòng đất. Hơi thở dân chúng nghẹn lại. Mắt ai cũng hướng về đó. Chiến bào màu xám bạc gió trận phủ kín thân, ngực đeo "Hộ tâm khiên" ánh lên sắc kim. Tóc vấn gọn, trán cao sáng, tay nắm hốt ngọc, chân bước vững như núi Thái Sơn. Gương mặt không tô son điểm phấn, nhưng ở đó là sự uy nghi khiến tướng sĩ quỳ rạp, văn thần cúi đầu, thiên địa cũng như dừng lại. Trên bậc Đài cao, Nguyễn Minh dừng lại ba bước. Mắt quét xuống quảng trường đầy người mà không một tiếng động. Giữa quảng trường Đại Điện, Trần Văn Kỷ - vị đại thần trung liệt, khí chất nghiêm nghị, tay cầm long kỳ Tây Sơn - đứng sừng sững như một cột mốc lịch sử. Ông phất cao lá cờ, giọng vang như chuông đồng: "Văn thần! Võ tướng! Chư vị hiền tài! Mau tụ hội!" Tiếng gọi như đánh thức cả kinh thành. Từ các hướng, những nhân vật trụ cột của triều đình nối nhau xuất hiện: Kẻ mặc áo gấm chỉnh tề, người giáp sắt lẫm liệt. Không khí khẩn trương, căng thẳng, như thể cả thiên hạ đang nín thở. Không ai rõ điều gì sắp xảy ra. Nhưng ánh mắt Trần Văn Kỷ sáng rực, và sự trang nghiêm lan tỏa như có thần uy. Bỗng, Nhiếp Chính vương và Trần Văn Kỷ quỳ rạp xuống giữa quảng trường hướng về phương Bắc. Tiếng kèn lệnh vang lên như sấm giữa trời quang, một giai điệu cổ xưa mà từng người lính từng nghe trong những chiến thắng vang dội. Bản nhạc chiến trận thiêng liêng ấy khiến tim gan mọi người run rẩy. Giữa lúc quảng trường Đại Điện vẫn ngập trong nỗi xúc động và tiếng hô triệu vọng của quần thần, thì bầu trời Phú Xuân đột ngột chuyển sắc - mây tan như có bàn tay vô hình xé toạc, ánh thái dương bừng sáng từ phía Tây Nam, soi rọi một đường rực lửa xuống cổng thành. Không ai hay biết. Không ai báo trước. Chỉ thấy nơi chân trời, bụi cát cuộn lên, một đoàn kỵ binh như vũ bão xé gió mà đến, dẫn đầu là kỵ mã bọc giáp đỏ, dưới yên là chiến kỳ thêu rồng lửa, long kỳ của Đế quân năm xưa! Đoàn quân ngập trong sát khí và kỷ luật sắt - hổ vệ, hỏa hổ quân, thiết mã, từng đội từng hàng như nước cuốn, đi không phát một tiếng động, chỉ có âm thanh của vó ngựa đạp đất và cờ bay phần phật. Và rồi.. Một bóng người xuất hiện. Giữa tiếng gió hú qua rặng thành, người ấy bước lên Đài Điểm Tướng, như từ trong huyễn tưởng của bao năm tháng. Long bào đỏ rực thêu rồng vàng chín móng, mũ bình thiên sáng chói ánh trời, gót giày giẫm lên từng bậc đá như giẫm lên vận mệnh thiên hạ. Không kèn, không trống. Nhưng toàn quảng trường như lặng đi một nhịp thở. Văn thần võ tướng triều thần đều sững sờ như hóa đá. Có người run rẩy, có người bật khóc. Không ai tin vào mắt mình. Không ai dám mở miệng. Không ai dám đứng. Giữa Đài Điểm tướng, Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh quỳ rạp xuống đất, đầu cúi sát nền đá, tay giơ cao lên trời. Giọng chàng rền vang như trống trận: "Chân long hiển thân! Tiếng hô ấy chấn động cả hoàng thành. Trời Phú Xuân lúc ấy nổi cơn gió lớn. Những cánh cờ Tây Sơn dọc tường thành bay phần phật như phượng múa. Ánh sáng từ đỉnh trời rọi xuống giữa quảng trường như một cột lửa thiêng. Mây tụ về phương Nam. Ánh nắng tỏa ra như Long khí đang chuyển động khắp núi sông. Chim đại bàng bay thành vòng tròn trên không trung. Từ xa, trống trận dồn dập, vó ngựa rền vang như tiếng trời nổi giận. Và rồi, giữa quảng trường lặng ngắt, Quang Trung - Chân Long Đế Quân của thời đại - xuất hiện, khiến không khí như ngừng lại. Nhà vua ngự trên chiến mã trắng như tuyết, Người vững vàng như núi Thái Sơn, không chút rối loạn. Vóc dáng của Quang Trung hoàng đế trông càng vạm vỡ hơn, đôi vai rộng khỏe mạnh như sẵn sàng gánh vác cả trời đất. Mái tóc dài bay trong gió, áo bào đỏ rực như lửa, lấp lánh ánh kim tuyến. Mỗi bước ngựa của Người, vị Hoàng đế điềm tĩnh nhưng đầy sức mạnh, như đạp lên nhịp tim của hàng triệu con người đang quỳ dưới chân. Chiến mã Phi Tuyết bỗng chốc như trở thành một phần của chiến trường, huyền ảo mà uy nghi, vươn tới như mũi tên lao vào cơn bão chiến tranh. Cặp mắt của Quang Trung sáng rực, lạnh lùng nhưng đầy quyết đoán, một ánh nhìn sắc như dao cắt, không ai có thể rời mắt. Khí thế hùng tráng toát ra từ từng cử động của Người. Đôi chân vững chãi, bước đi vững vàng trên nền đá cứng, như muốn khẳng định quyền uy không thể lay chuyển. Chiếc long bào đỏ quét mạnh trong gió, gương mặt của Người khắc họa bởi ánh sáng mặt trời, những nét nghiêm nghị, đầy thần thái. Nhiếp Chính vương - Nam Bình Vương Nguyễn Quang Minh ngẩng lên, mắt nhòe lệ, giọng lạc đi nhưng vẫn rắn như sắt nung: " Phụ hoàng.. huyết mạch Lạc Hồng vẫn còn, Nhi thần cung thỉnh Phụ hoàng đăng đàn điểm tướng " Trần Văn Kỷ khóc như mưa sa, đập trán xuống đá, miệng hô lớn: " Đại Việt bất diệt! Quang Trung hoàng đế vạn tuế! " Từ bốn phía, văn thần, võ tướng, quân dân.. như sực tỉnh khỏi cơn mê, tất cả cùng quỳ xuống, hướng về Đài Điểm Tướng. Tiếng hô" Vạn tuế! "vang lên như sóng cuộn, trời đất rúng động. Dân chúng chen chúc sau cổng Ngọ Môn gào khóc, quỳ xuống từng hàng. Quan quân từ các lầu gác buông gươm, rạp mình xuống đất. Từng giọt nước mắt lặng lẽ rơi trên gương mặt các văn thần, võ tướng. Những người tưởng rằng đã vĩnh viễn mất đi vị vua anh hùng, nay lại thấy Người đứng giữa họ - khí thế ngút trời, thần sắc như thuở xông pha Bắc tiến. " Là.. là Đại đế sao? "– Ngô Thì Nhậm nghẹn ngào, quỳ rạp xuống, tay run rẩy. " Đại đế.. ngài là người hay là thần linh? ". Hầu hạ bên cạnh tuột tay hốt hải khi nhìn thấy Long nhan uy nghiêm hiện giữa chiến địa - Người tưởng đã băng hà hai năm về trước. Lão thái bộc đứng gần phải dựa vào cột gỗ, môi tái nhợt, suýt ngất. Tiếng kèn, trống, hò reo bỗng vỡ òa trong giây lát, rồi im phăng phắc, như cả vạn quân đang nín thở chờ đợi. Giữa không khí căng như dây đàn trên đài điểm tướng, khi trống trận còn vọng vang dàn khải thủy, khoảnh khắc khiến cả hoàng thân, quốc thích, Thất Hổ Tướng, Ngũ Phụng Thư và hàng trăm văn thần, võ tướng đều bàng hoàng tưởng như đang mơ Mỗi người ngự trên yên ngựa, tay cố nắm chặt dây cương lạnh toát. Võ Văn Dũng - giật mình, ánh mắt lờ mờ, rồi trợn tròn tin không nổi, tim như vỡ ra. Bên cạnh, Đặng Tiến Đông run run đặt bàn tay lên đùi ngựa, cố giữ thăng bằng mà rùng mình. Trần Quang Diệu - vị tướng từng trải qua bao trận mưa bom bão đạn - lần đầu rơi lệ xúc động, thầm nghĩ: " Từ lúc Lạc Hồng dựng nước, chưa bao giờ có bậc Hoàng đế nào lỗi lạc, giàu mưu lược đến thế.. " Phan Huy Ích thì rên rỉ: " Thần phải đang nằm mơ rồi.. không thể là thật! " Lão Thượng thư Lê Hữu - uy nghi mái tóc bạc - ngậm ngùi nói: " Chưa bao giờ triều đình chứng kiến cảnh tượng hùng tráng và viên mãn đến vậy. Nếu không tận mắt, thần e không dám tin. " Nhân dân từ các góc phố, từ những mái nhà, đều hạ mình xuống đất, quỳ rạp, mắt đỏ hoe, ngẩng lên nhìn Người với sự ngưỡng mộ và yêu thương vô bờ. Những giọt nước mắt, những tiếng thở dài lẫn niềm hạnh phúc ngập tràn. Họ không thể tin vào mắt mình - Vị vua anh hùng của họ đã trở về! Sau ba năm, hoàng đế Quang Trung đã trở lại, mang theo hy vọng mới, mang theo ánh sáng dẫn đường cho dân tộc. Tiếng hò reo vang dội từ các tầng lớp nhân dân, tiếng gọi rầm rầm" Hoàng thượng vạn tuế! "vang lên như tiếng chuông đồng vọng khắp mọi miền đất nước. Những cánh tay giơ lên, những lá cờ Tây Sơn bay phấp phới, hoan hô Người. Các gia đình bỗng chốc quên đi mọi nỗi nhọc nhằn, quên đi những khổ đau từng chịu đựng – họ chỉ còn một niềm tin duy nhất: Hoàng thượng đã trở lại! Một bà mẹ ôm con vào lòng, đôi mắt rưng rưng, nói khẽ với đứa trẻ bên cạnh: " Con thấy không? Đó là Quang Trung Đại đế đã cứu sống đất nước, bảo vệ chúng ta. Chúng ta sẽ có ngày mai, vì Người! " Giọt nước mắt lăn dài trên má những bô lão từng vái lạy trước bàn thờ người anh hùng. Những văn thần từng soạn điếu văn, nay run cầm cập cầm lấy chiếu rồng như cầm ánh sáng giữa đêm đen. Tây Sơn thất hổ tướng - những người từng khắc cốt ghi tâm ngày đưa tiễn - giờ đây quỳ rạp giữa Đài Điểm tướng, gào lên trong sung sướng Một tiếng sấm chợt nổ giữa trời quang - như chính thiên mệnh lên tiếng. Và từ đó, truyền thuyết bắt đầu. Cả thành Phú Xuân như bừng tỉnh sau cơn ác mộng dài, những cơn gió nhẹ lướt qua từng mái nhà, mang theo niềm hy vọng mới. Lòng dân như mặt hồ yên ả vừa bị đánh thức bởi ánh trăng tròn: Rung lên, dào dạt, mừng rỡ. Quang Trung Đại đế - thiên cổ kỳ tài, đấng Chân Long thật sự - đã trở lại Từ đồng bằng Thăng Long đến đồi núi Phú Xuân, từ chiến hào Nghệ An đến thôn trại ven sông Tiền, lời truyền miệng lan nhanh như lửa cháy rừng: " Rồng trở lại trời Nam rồi! " " Ngai vàng chưa từng vắng bóng rồng! " " Nhà vua.. vẫn còn đây! " Từ các ngả chợ Đông, phố Hàng Trống đến bến nước sông Hương, lời đồn như sóng trào: " Nguyễn Quang Minh không chỉ là Nhiếp chính vương, là Thái tử, mà là chân mệnh thiên tử kế thừa nghiệp lớn! " " Người ấy một tay gánh lấy thời cuộc, lại ẩn nhẫn ba năm chỉ để dệt nên cục diện hôm nay.. " " Nhà vua chưa từng chết, Thái tử chưa từng yếu mềm, chỉ là một ván cờ trời định! " Lũ trẻ con đập tay reo hò giữa sân đình: " Thái tử Nguyễn Quang Minh thông minh như thần, bày mưu đánh giặc như trong sách cổ! " Cụ già râu tóc bạc phơ run giọng ngâm thơ trước cửa miếu làng: " Đất Lạc Hồng có chân mệnh thánh quân, thiên hạ ắt thái bình! " Còn các bậc nho sĩ, tướng lĩnh hồi triều đều chung một lời thì thầm: " Nếu Thánh Thượng là vầng nhật quang xua bóng đêm thời loạn, thì Đông cung chính là ánh minh đăng rực sáng giữa cơn giông.. " Khắp mọi ngõ ngách, dân gian đốt nhang khấn vọng trời cao: " Xin cho Nhị Thánh trị vì muôn đời - để nước Nam rạng rỡ ngàn thu! " Tại Gia Định, trong một buổi thiết triều hiếm hoi, Nguyễn Ánh ngồi trên điện, mặt đắc ý khi biết tin Tây Sơn" vô chủ ", nội bộ rối ren bấy lâu. Nhưng chưa kịp vui lâu, sứ báo hớt hải chạy vào: " Khởi bẩm Chúa công.. Quang Trung vẫn còn sống! " " Ngài.. tái xuất giữa đài điểm tướng tại Phú Xuân, cùng Thái tử Nguyễn Quang Minh tuyên chiếu ra quân! Khí thế ngút trời.. " Bầu không khí nặng như đá đè. Nguyễn Ánh đứng bật dậy, tay run bần bật, môi tím lại: " Hồ đồ! Hắn đã chết! Chính tay Lê Văn Duyệt đưa tin mà.. " Nhưng Lê Văn Duyệt cũng đang quỳ rạp, mồ hôi đầm đìa: " Thưa.. thần tận mắt thấy, là Quang Trung thật. Giọng nói, ánh mắt, cả cách xưng hô, không lẫn vào đâu được! " Nguyễn Ánh bước loạng choạng, suýt ngã khỏi bậc thềm. Hắn thốt lên, giọng đầy cay nghiệt: " Trời cũng không diệt được hắn sao? " Ở phương Bắc, tại Bắc Kinh, khi mật sứ báo về cho đại thần nhà Thanh rằng Quang Trung chưa từng băng hà, Hoàng đế Gia Khánh lặng người hồi lâu, rồi lẩm bẩm: " Một quân vương có thể giả chết để lừa thiên hạ, và một Thái tử đủ tĩnh để gánh vác cục diện mấy năm qua.. Nam quốc không thể xem thường." Kể từ ngày ấy, thiên anh hùng ca về vị Hoàng đế kỳ tài ẩn mình để cứu muôn dân, về người tái sinh như Chân Long hiển thế, bắt đầu được truyền tụng khắp non sông. Những câu chuyện về mưu thần kế quỷ, về đòn đánh lừa thiên hạ, đánh lừa địch quân, về một minh quân không chết - mà ẩn thân vì nghĩa lớn - được khắc ghi muôn đời trong sử xanh Đại Việt.