Hôn lễ truyền thống Trung Quốc là bộ phận quan trọng trong văn hóa TQ. Cổ nhân TQ cho rằng hoàng hôn giờ lành, nên làm lễ cưới vợ lúc hoàng hôn; vì nguyên nhân này, lễ kết hợp phu thê xưng "Hôn lễ" (昏礼, không phải 婚礼như ngày nay). Trong "ngũ lễ", hôn lễ thuộc "gia lễ", sự kiện quan trọng thứ hai trong đời người, sau lễ đội mũ của con trai và lễ cài trâm (cập kê) của con gái. 1. Chuẩn bị A. Hôn nhân lục lễ Hôn lễ TQ chia 3 giai đoạn: Hôn tiền lễ, tức đính hôn. Chính hôn lễ, tức lễ kết hôn hoặc thành hôn, ý là phu thê kết hợp. Hôn hậu lễ, là lễ thành thê, thành phụ hoặc thành rể, biểu thị nhân vật nam nữ sau khi kết hôn sắm vai. Tập tục kết hôn truyền thống TQ, hôn tiền lễ cùng chính hôn lễ là trình tự chủ yếu, những trình tự này đều khởi nguồn từ Chu Công lục lễ. Lục lễ, theo 《 Nghi lễ 》 ghi lại, phân biệt là nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp trưng, thỉnh kỳ, thân nghênh. Nghe nói lục lễ bắt đầu thời Chu, có học giả cho thời Chu Văn Vương có lục lễ, có người không làm theo lục lễ. * * * B. Tam thư lục lễ Tam thư là sính thư, lễ thư cùng nghênh thân thư: - Sính thư Sính thư dùng khi đính hôn, lúc "Nạp cát" (qua văn định) khi nhà trai giao cho gia đình nhà gái. - Lễ thư Lễ thư dùng khi "Nạp chinh" (qua đại lễ), lễ thư kĩ càng tỉ mỉ liệt kê chủng loại cùng số lượng lễ vật. - Nghênh thân thư Tên như ý nghĩa, dùng khi nghênh thú tân nương, tức trong bước 6 "thân nghênh" của lục lễ sử dụng. Lục lễ gồm 6 bước: - Một là nạp thái, nhà trai hướng nhà gái cầu hôn, cùng cấp với "coi mắt, làm mai" nay. - Hai là vấn danh, nhà trai nhờ bà mối hỏi tên tuổi, ngày sinh cô gái, sau đến tông miếu bói toán cát hung, kết quả là "cát" mới tiến hành bước tiếp theo, "hung" thì dừng. - Ba là nạp cát, tức "qua văn định", sau khi bói toán được điềm lành thì định ra hôn ước. - Bốn là nạp chinh, tức "nạp tệ" hay "qua đại lễ", nhà trai phái người đưa sính lễ đến nhà gái. Nhà gái nhận sính lễ, xưng "hứa anh." - Năm là thỉnh kỳ, tức "chọn ngày", thỉnh nhà gái xác định ngày kết hôn. - Sáu là thân nghênh, ngày hôn lễ, nhà trai cần thiết tự đi nhà gái nghênh đón, nhà trai về trước, ở ngoài cửa chờ đón. Nếu chưa thân nghênh mà người trai chết, cô gái có thể lấy người khác. Lỡ thân nghênh rồi mà người trai mới chết, dù chưa bái đường, theo quy định tục lệ, cô dâu chỉ có thể nhận mệnh ở góa suốt đời. * * * C. Đổi canh phổ Đổi canh phổ, nhà trai cùng nhà gái trao đổi gia phả với nhau, làm bằng chứng đính hôn. Bà mối cầu hôn xong, nếu như sinh thần bát tự bên nam nữ không xung khắc, hai bên sẽ đổi canh phổ. Hiện vài nơi vẫn còn tập tục đối chiếu sinh thần bát tự nam nữ, ngày giờ hôn lễ, phong thuỷ nhà mới. Vv. * * * D. Sính lễ và của hồi môn Trừ bỏ tam thư lục lễ, nhà trai cần đưa tặng sính lễ cho nhà gái. Của hồi môn bên nhà gái muộn nhất là một ngày trước khi kết hôn phải đưa đến nhà trai. Của hồi môn nhiều ít tượng trưng thân phận và mức giàu có gia đình cô gái. Trừ bỏ châu báu trang sức cùng một ít nhu yếu phẩm trong sinh hoạt, của hồi môn chủ yếu đều là những thứ mang ngụ ý cát tường. Truyền thống là đem của hồi môn liệt kê thành danh sách, xưng "liêm nghi lục" (奁仪录) tức "danh sách các rương đồ cô dâu trong nghi thức." * * * E. Chuẩn bị mấy ngày trước hôn lễ - An giường Tuyển được ngày tốt, trước khi cưới mấy ngày, nhờ một đàn ông được cho "may mắn cả đời" đem giường tân hôn chuyển qua vị trí thích hợp. Vị trí phải dựa theo bát tự và thần vị hai bên nam nữ mà quyết định, vị trí giường không thể cùng bàn tủ, những vật có góc nhọn đối nhau. Sau đó nhờ một phụ nữ có "con cháu mãn đường" phụ trách trải giường chiếu, mang lên các loại quả mừng, như trái vải khô, đậu xanh đậu đỏ.. vv. An giường xong, cấm để chính mình hoặc người trưởng thành nào khác ngồi, nằm lên đó, nhất là quả phụ, góa bụa, ly hôn. Nhưng có thể làm trẻ sơ sinh ở trên giường chơi đùa, ngụ ý sinh con phát tài. - Hiến tế Thông thường là tế Tổ hoặc tế thần. Nay ở Chu Sơn, Chiết Giang có cử hành hiến tế truyền thống ở đêm trước hôn lễ, xưng là "tương hỉ." 2. Quá trình hôn lễ A. Khóc gả Theo《Lễ Ký》ghi lại, Khổng Tử nói: "Nhà sắp gả con gái, ba đêm không tắt đuốc, bởi ưu tư sắp phải biệt ly." Khóc gả ngày nay có lẽ rất khó lý giải; nhưng thời cổ, vì giao thông không tiện, con gái sau khi xuất giá rất khó có cơ hội nhìn thấy người nhà. Thực tế, phụ nữ lấy chồng xong không phải giống hôm nay, tùy thời có thể về nhà mẹ đẻ thăm người nhà, xưa về nhà mẹ đẻ cần được nhà chồng phê chuẩn. Có cách nói: "Khóc gả xuất phát từ xưa khi phụ nữ không thể có được tự do trong hôn nhân, nên họ dùng tiếng ca khi khóc gả để lên án chế độ hôn nhân thời cổ không công bằng." * * * B. Vấn tóc Cổ đại, con trai 20 tuổi làm "lễ đội mũ" (quan lễ), tỏ mình thành niên. Con gái 15 tuổi thành niên đính hôn xong làm "lễ cài trâm" (kê lễ, con gái tuổi này còn gọi tuổi "cập kê", tức sắp cài trâm, sắp thành niên). Biểu thị đến tuổi kết hôn. Lễ thành niên cùng hôn lễ có quan hệ dây mơ rễ má. Sau vì tảo hôn, lễ nghi của thường dân bị đơn giản hóa, biến thành nghi thức vấn tóc trước khi kết hôn. "Vấn tóc" là chải tóc vấn tóc, trang điểm toàn bộ phần đầu, i se mặt, vẽ lông mày, tô son thoa phấn. Vv.. "Se mặt" là dùng chỉ mỏng se đi lông tơ trên mặt tân nương, làm mặt láng mịn. "Vấn tóc" là nghi thức phi thường tỉ mỉ. Chải đầu phải dùng lược mới, hỗ trợ "vấn tóc" phải "Toàn Phúc" (tục xưng "Hảo mệnh lão" và "Hảo mệnh bà") : Tức lục thân đều còn đủ, nhi nữ mãn đường. (Lục thân bao gồm: Cha, mẹ, anh (chị), em, vợ (chồng), con). Nhà mẹ đẻ còn mở tiệc mời khách, phần nào thấy long trọng khâu "vấn tóc." Thông thường, thời gian nhà trai vấn tóc sẽ so nhà gái sớm cỡ nửa giờ. Lúc vấn tóc, nam nữ cần tắm gội trước, nhờ người Toàn Phúc lấy lá bưởi tưới nước tắm rửa (lá bưởi có thể gột sạch dơ bẩn). Sau thay đồ lót áo ngủ hoàn toàn mới, dựa cửa sổ có thể thấy ánh trăng mà nhờ người Toàn Phúc chải đầu. Tân nương đầu tóc quấn thành búi, tỏ đã gả làm vợ người, vào thời trưởng thành. "Hảo mệnh lão" và "Hảo mệnh bà" thay cô dâu chú rể chải đầu, vừa chải vừa hát Thập Sơ Ca: Một chải đến đuôi Hai chải cô nương của chúng ta tóc bạc còn cử án tề mi Ba chải cô nương con cháu đầy nhà Bốn chải chồng cô may mắn, ra đường gặp quý nhân Năm chải con cái thi đỗ về đón mẹ, phú quý giàu sang không thiếu loại nào Sáu chải thân bằng tới chúc phúc Bảy chải Thất tiên nữ xuống trần gả Đổng Vĩnh, bắc cầu Hỷ Thước đến gặp nhau Tám chải Bát Tiên tới mừng thọ, cả đời phúc lộc an khang Chín chải cửu tử liên hoàn loại nào cũng có Mười chải vợ chồng bên nhau tới bạc đầu Hoặc: Một chải chải hết đầu, phú quý không cần sầu; Hai chải chải hết đầu, vô bệnh lại vô ưu; Ba chải chải chải hết đầu, nhiều con lại nhiều thọ; Lại chải chải đến cuối, cử án lại tề mi; Hai chải chải đến cuối, bỉ dực cộng song phi; Ba chải chải đến cuối, vĩnh kết đồng tâm bội, Có đầu lại có cuối, một đời cùng phú quý. Ngụ ý chúc phúc hôn nhân mỹ mãn lâu dài, con cháu đầy nhà, phú quý sang giàu, người một nhà hòa thuận, vợ chồng thương nhau, thần tiên phù hộ, sống tới bạc đầu. Cuối cùng, "Hảo mệnh lão" hoặc "Hảo mệnh bà" đem trắc bách diệp và dây buộc tóc đỏ cột trên đầu tân lang tân nương, hoàn thành nghi thức. * * * C. Trang phục cô dâu chú rể Tân nương thường lấy khăn vuông đỏ có cạnh dài ba thước trùm đầu, tức "khăn che", tục xưng khăn voan. Với khăn voan, thường hai loại nói: Khăn voan vì che giấu; loại khác xuất phát từ tục "cướp vợ" thời cổ, tỏ tân nương trùm khăn voan lên liền vĩnh viễn không thấy đường về. * * * D. Đón dâu, xuất môn Thành hôn, nhà trai đón dâu. "Thân nghênh" là lễ tiết long trọng nhất lục lễ. Không có tân lang đón dâu, không có tân nương xuất giá. Cổ đại thân nghênh, đi bộ, dùng xe ngựa, thời Tống trở đi phổ biến kiệu hoa đón dâu. Ngày ước định đến, trước giờ làm lễ, trưởng bối nhà trai cùng tân lang dẫn người trong tộc hướng thần minh, Tổ tiên, dâng hương tế bái, khẩn cầu quá trình nghênh thú có thể hết thảy thuận lợi. Canh giờ đã đến, đội ngũ nghênh thú xuất phát, trước khi xuất phát đốt pháo trúc lần đầu, dọa lui ác quỷ tà thần muốn cướp tân nhân. Người nâng kiệu cần thân thể cường tráng, gặp kiệu hoa nhà người khác, tuyệt đối không cùng họ chạm trán, phải đi vòng. Đón dâu về, phải đổi đường khác, ý không quay về lối cũ. Nếu qua những chỗ như miếu, từ, mồ, giếng, sông, người đón dâu nhà trai bung chăn đỏ che kiệu hoa, "tránh ma quỷ." Nếu gặp đưa tang, người đón dâu nói: "Hôm nay cát tường, gặp gỡ bảo tài!" Đây là vì quan tài đọc gần giống "quan tài" (xem tài), ý là nhìn tài bảo, nói vậy chủ yếu vì được cát lợi. Nay phần nhiều đem ô tô trang sức thành xe đón dâu. Xuất môn là tân nương rời nhà mẹ đẻ. Giờ lành, tân lang đến nhà gái, người thân và bạn tân nương làm khó tân lang, khảo nghiệm trí tuệ tân lang. Chờ tân lang qua ải lúc sau mới được đón tân nương, xưng cản môn, tân lang hóa giải nan đề thì xưng "thôi trang" (thúc giục cô dâu). Tân lang bái kiến cha mẹ cô gái, đón tân nương, bái biệt trưởng bối nhà gái. Tân nương xuất môn cần hỷ nương cõng, nghe nói tân nương hai chân chấm đất mang ác vận, hỷ nương bung dù che chở tân nương, tránh tiên nữ trên trời đố kỵ, dùng dù lấy ý khai chi tán diệp. Hỷ nương cõng tân nương và chị em đưa gả vừa đi, vừa hướng trên không, đỉnh dù, đỉnh xe hoa ném gạo, để "gà vàng ăn:" Ý là gà mổ thóc xong không mổ tân nương, cuối cùng trước khi lên xe hoa, tân nương hướng người đưa tiễn mà khom lưng, tỏ biết ơn. Ít khu vực, hỷ nương sau còn đưa chậu nước, mẹ cô gái xác nhận nữ nhi đã lên kiệu hoa, tát nước ra ngoài, tượng trưng: "Con gái gả chồng như nước đổ đi, không thể thu hồi" sẽ không bị chồng bỏ. Sau lại đốt pháo, dọa lui ác quỷ tà thần muốn cướp tân nhân. Lúc xuất môn, chị dâu tân nương không thể đưa tiễn, bởi chữ "chị dâu" có âm đọc giống "sao chổi", người xưa tin chị dâu đưa tiễn cô dâu xuất môn mang không may mắn. * * * E. Quá môn Quá môn là tân nương từ nhà gái ra cửa sau chính thức vào cửa nhà trai, bái kiến cha mẹ chồng cùng các trưởng bối. Truyền thuyết nói cha mẹ chồng không thể ở đại sảnh trực tiếp thấy tân nhân vào cửa, sẽ xung khắc. Nên cô gái vào nhà trai, cha mẹ chồng trong phòng ra đại sảnh gặp tân nhân, quá trình xuống xe vào cửa còn tục rải đậu, rải quanh cửa, cho con nít tranh nhau nhặt. Theo《Sự vật kỷ nguyên 》, rải đậu bắt nguồn từ đời Hán. Tân nương có thể còn ôm chăn, lấy chăn bọc cô dâu ôm vào cửa. Nhiều nơi lúc nhập môn có tục bước qua chậu lửa hoặc đạp bể mái ngói, đem uế khí đuổi ra, nay cô dâu mặc áo cưới mang giày cao gót, không tiện làm vậy, không còn thấy. * * * F. Bái đường Bái đường, xưng là "bái thiên địa", nghi thức rất quan trọng. Bái đường không thuộc tam thư lục lễ cổ đại. Hồ Phác An trong《Trung Hoa toàn quốc phong tục chí》quyển sau cuốn《 Chiết Giang Hải Ninh phong tục ký · kết hôn 》: "Ra kiệu, dùng bao gạo trải tận phía trước hoa chúc, tân nương chân đạp bao gạo, là bước bước cao, đại đại hảo. Bái kiến thiên địa kêu bái đường. Tân nhân đối diện lẫn nhau uống rượu gọi lễ hợp cẩn. Lấy lụa đỏ, tân lang tân nương mỗi người cầm một bên gọi là khiên hồng, đưa vào động phòng, ngồi trên giường, dùng trái cây rải đầy, gọi là tọa sàng tát trướng." Tục lệ bái đường từ thời Tống phi thường lưu hành, bái đường xong, cô gái chính thức là thành viên nhà trai. Mạnh Nguyên Lão trong《Đông Kinh mộng hoa lục · thú phụ》ghi lại tục bái đường thời Tống: "Ngày kế canh năm, dùng bàn cao đặt gương, nhìn gương mà bái, gọi cô dâu mới bái đường. Sau, bái tôn trưởng thân thích, cô dâu hiến cho họ lụa màu, đồ thủ công, giày, gối.. là thưởng hạ. Tôn trưởng tặng lễ vật cho cô dâu, gọi đáp hạ." (hạ 贺là mừng) Chủ trì hôn lễ lớn tiếng: "Nhất bái thiên địa, nhị bái cao đường, phu thê giao bái, đưa vào động phòng." 《Tỉnh thế nhân duyên truyện》hồi 49 viết Triều Lương đón dâu: "13-4, Khương Trạch trải giường chiếu. Kia phục sức dụng cụ, giường màn mới tinh, không cần kể nhiều. Tối, vì tục là giường tân hôn không thể để trống, nên đem một túi đậu xanh áp trên giường. Ngày 15 cưới Khương tiểu thư quá môn, Triều Lương nghe Triều phu nhân chỉ giáo, bái thiên địa, uống rượu, bái giường công giường mẫu, tọa trướng khiên hồng; mọi thứ đều y theo tục lễ. Đến thăm đáp lễ trở về, Khương gia ba bữa đưa cơm." Bái thiên địa đại biểu cho đối thiên địa thần minh tôn thờ; bái cao đường là đối hiếu đạo thể hiện; phần phu thê giao bái liền đại biểu vợ chồng tôn trọng nhau như khách. Mức nào đó, phu thê giao bái là lúc ít ỏi mà xã hội cổ đại cho nam nữ có địa vị ngang nhau. Vào tân phòng, tân lang lấy cành đào vén khăn voan tân nương, vợ chồng uống rượu hợp cẩn, hôn lễ hoàn thành. * * * G. Tiệc cưới Tiệc cưới là hỷ yến, người ăn tiệc gọi là "uống rượu mừng." Tân lang và người nam nhà trai phải đi rót rượu mời khách, cảm ơn khách dự cưới. Kính rượu một vòng, tân lang mới được phép vào phòng với cô dâu. Hoạt động cuối hôn lễ là "nháo động phòng", bạn tân lang thường trêu chọc tân lang tân nương, khuấy động không khí hôn lễ tới mức cao nhất rồi đi để lại không gian cho tân nhân. Thời cổ nam nữ kết hôn không biết mặt nhau, hoạt động này giúp tân lang tân nương bớt xa cách khi đối mặt nửa kia trong đời. 4. Hôn hậu lễ A. Bái kiến cha mẹ chồng Sáng ngày sau lễ thành hôn, tân nhân hướng cha mẹ chồng dâng trà quỳ lạy. Cha mẹ chồng nói lời chúc phúc, dạy bảo. Hiện đại sớm hơn, bái đường xong hoặc trong tiệc cưới, cha mẹ chồng tặng trang sức lễ vật cho cô dâu. Tân nương nhận trang sức cần mang lên ngay, tỏ cảm ơn rồi dâng trà cho trưởng bối và thân thích khác. * * * B. Về nhà thăm bố mẹ Ngày thứ 3 lại mặt (tam triều hồi môn) là về nhà thăm bố mẹ (quy ninh), "tam triều" là ngày thứ 3 sau khi kết hôn, tân nương và trượng phu cùng đi, mang heo quay, quà tặng về nhà mẹ đẻ tế Tổ, sau theo trượng phu về nhà chồng; tương truyền đời Tần có tập tục này. Quy ninh là về nhà mẹ đẻ, hướng cha mẹ báo bình an. Thời cổ, giao thông không tiện, nhà chồng cách nhà mẹ đẻ quá xa, xuất giá tòng phu, con gái đến nhà chồng sau có thể không thể về nhà mẹ đẻ. Nên hồi môn có thể là lần cuối có cơ hội về nhà mẹ đẻ. Mọi người thập phần coi trọng tập tục này. Hà Hưu trong《Xuân thu công dương truyện》ghi thời Xuân Thu có nghi lễ này. Ít nơi khác, vì cậu (anh em trai của mẹ chồng) có địa vị tôn quý, vợ chồng tân hôn đặc biệt mang lễ vật, đi nhà cậu chồng nhận thân.