Bình Luận Hình Tượng Người Nghĩa Sĩ Nông Dân Trong Bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu

Thảo luận trong 'Văn Thơ' bắt đầu bởi Liberty, 12 Tháng mười một 2018.

  1. Liberty Once you choose hope, anything’s possible

    Bài viết:
    299
    Đề bài: Hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước qua bài Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu

    Thể loại: Phân tích

    Tác giả: Ngankimphamvu

    Tình trạng: Đã hoàn thành

    Bài làm


    Khi nhắc đến nghĩa sĩ, chắc hẳn ai cũng nghĩ rằng đó là một hình tượng người anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, hiên ngang với khí phách oai hùng, dũng mãnh, có nghĩa khí, diệt trừ gian ác, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng để trở thành một nghĩa sĩ thực thụ, đáng để người đời sau ngưỡng mộ, thì trước đó đòi hỏi người nghĩa sĩ phải trải qua một quá trình rèn luyện rất vất vả. Và càng vất vả hơn khi những người nghĩa sĩ xuất thân từ nông dân. Chí khí anh hùng của họ được Nguyễn Đình Chiểu thể hiện qua bài Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

    Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn để tế những nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc đêm 16-12-1861, nhằm bày tỏ lòng tiếc thương đối với những người nghĩa sĩ nông dân và nỗi đau thương của người sống trong giờ phút vĩnh biệt.

    Mở đầu bài văn là tiếng than rất lớn quen thuộc của văn tế. Tuy sống trong tình thế căng thẳng, đau thương, khổ nhục nhưng vĩ đại của đất nước, dân tộc

    "Hỡi ôi!

    Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ

    Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ"

    Giặc cùng với vũ khí tối tân, hiện đại, chúng tấn công "súng rền" cả mặt đất. Ngược lại, nhân dân ta chỉ đứng lên chống giặc với một lòng yêu nước nồng nàn rực sáng cả bầu trời, tuy mất nhưng "tiếng vang như mõ"

    Thân phận nhỏ bé, đáng thương của người nông dân và một cuộc sống lam lũ, vất vả, "côi cút làm ăn", "lo toan nghèo khó"

    Và rồi việc không biết đến việc đánh giặc là điều tất nhiên

    "Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ

    Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó"

    Với nghệ thuật liệt kê, điệp, đối lập, chi tiết chân thực cụ thể, tác giả đã tái hiện lại lai lịch và hoàn cảnh sống của những người nông dân thực sự với cuộc sống nghèo khổ, lạc hậu ở thế kỉ XIX nhưng thật thà, chất phác, yêu chuộng hòa bình và hoàn toàn xa lạ với công việc binh đạo.

    [​IMG]

    Khi nghe tin quân giặc xâm lược bờ cõi của cha ông, những người "chân đất" sợ hãi, lo lắng, hoảng loạn trước sự hung bạo của quân thù, chỉ biết trông đợi đau đáu mỏi mòn vào triều đình.

    "Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ"

    Trông đợi nhưng triều đình phong kiến nhu nhược trước sức mạnh của giặc. Nhân dân càng căm thù sâu sắc "như nhà nông ghét cỏ". Thấy tàu giặc "đen sì", thấy trại giặc "trắng lốp" thì chỉ "muốn tới ăn gan", "muốn ra cắn cổ" lũ giặc.

    Với truyền thống lâu đời của đất nước, nhân dân luôn tự hào và khẳng định độc lập, chủ quyền, không đội trời chung với giặc, luôn mang trong mình trách nhiệm cao cả, quyết tâm đánh đuổi giặc xâm lược

    "Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó"

    Nhận thức được sứ mệnh cao cả của mình, người nông dân sẵn sàng đứng lên đánh giặc mà không trốn tránh

    "Nào đợi ai đòi bắt, phen này ta ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ"

    Từ đó, người nông dân đã trở thành nghĩa sĩ, họ đứng lên đánh giặc với một vẻ đẹp kiên cường, trong điều kiện chiến đấu khó khăn

    Chỉ với một manh áo vải, trong tay một ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, hỏa mai bằng rơm con cúi. Đã vậy còn không được tập luyện, học binh thư

    "Khá thương thay

    Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh, chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ

    Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố"

    Bằng bút pháp khắc họa những chi tiết chân thực, chọn lọc tinh tế đã tái hiện lại điều kiện chiến đấu của những người nghĩa sĩ không có gì ngoài những vũ khí thô sơ, thiếu thốn với những trang bị không thể tách rời trong cuộc sống nhưng trong họ vẫn chứa đựng những vẻ đẹp mộc mạc, giản dị, chân chất và độc đáo

    Với những từ ngữ chỉ hành động mạnh (đánh, đốt, chém, đạp, xô) và một giọng điệu dứt khoát (đốt xong, chém rớt, trối kệ) đã khắc nổi tinh thần chiến đấu anh dũng và kiên cường của những người nghĩa sĩ, tái hiện lại một trận chiến khẩn trương, quyết liệt, hào hứng nhưng không cân sức. Ta chỉ vỏn vẹn manh áo vải cùng với vũ khí thô sơ nhưng dám chống lại những viên đạn to, đạn nhỏ, tàu thiếc, tàu đồng của địch. Hình ảnh của người nghĩa sĩ nông dân vẫn nổi bật tinh thần chiến đấu kiên quyết, mạnh mẽ, không sợ giặc, không sợ hy sinh, tự tin, khí thế oai hùng, tất thắng khi "coi giặc như không", "liều mình như chẳng có", "trối kệ tàu thiếc, tàu đồng, súng nổ". Đó là vẻ đẹp của chí khí anh hùng thời đại.

    Nguyễn Đình Chiểu đã phát hiện và ngợi ca những phẩm chất ngoài sự giản dị, thật thà, chất phác của người nông dân, mà trên hết, đó là lòng yêu nước và sự quyết tâm chống giặc ngoại xâm. Hòa chung với tiếng khóc, uất ức, nghẹn ngào trước cảnh đau thương của đất nước, dân tộc, tác giả đã thể hiện sự xót thương của mình đối với những người nghĩa sĩ, nỗi xót xa cho những gia đình mất người thân, là những tổn thất không gì có thể bù đắp lại cho những bà mẹ già và người vợ trẻ, nỗi căm hờn đã gây ra nghịch cảnh éo le cho đất nước. Nhưng, đó cũng là niềm tự hào và cảm phục họ, không chỉ ở trong lòng người mà còn bao trùm khắp cỏ cây, sông núi.

    "Nước mắt người hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ"

    Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khác nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc - bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tôi của dân tộc ta - thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ cần Giuộc - họ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.

    Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

    P/s: Nhớ đừng đọc vào ban đêm nếu bạn sợ..

     
    Tiểu mèo conRùa Siêu Tốc thích bài này.
    Last edited by a moderator: 13 Tháng sáu 2021
  2. Đăng ký Binance
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...