Hí Trung Khách - Mặc Tuyết Khanh Nhan/ Nga Lậu/ Trường Trĩ Tửu An Sách hoa: Phương Tri Ngư 《方知鱼》 Tác từ/ văn án: Mặc Tuyết Khanh Nhan 《墨雪卿颜》 Tác khúc: Linh Linh 《泠泠》 Biên khúc: Tiểu Vũ Cosmos Demo 《小宇Cosmos Demo》 Diễn xướng: Phi Nhược 《霏箬》 Hòa thanh/ hí khang: Trường Trĩ Tửu An 《长稚酒安》 Độc thoại: Đông Đông/ Mặc Tuyết Khanh Nhan 《冬冬/墨雪卿颜》 Văn án: Đào gia thôn có Đào gia ban, ngày ấy có mười ba người đã chết. Thói đời này là hỗn loạn như vậy, đừng nói chết một người, có chết cả thành cũng không phải chuyện lạ gì. Có trách chỉ trách ở Đào ban đã có mười ba người hy sinh để cho người cả thành được sống tiếp. Đúng vậy, mười ba người Đào ban đã cứu bá tánh cả một thành. Cũng chẳng người nhớ rõ, mười ba người ấy họ tên là gì. Mọi người chỉ biết kẻ ra tay là ban chủ, sư phụ của mười ba người kia mà thôi. Thật ra thì, ai lại đi quan tâm những gã đào hát hèn mọn nam nữ không phân, sống như thế nào thân thế ra sao đâu. Dân chúng chằng ai hay, mười ba người ấy vì tổ quốc vì người dân mà đến thân mình cũng bỏ quên mất. Cho đến cái ngày quân Nhật Bản vào thành, quân lính tìm đến Đào gia ban để nghe hát. Mười ba người đáo kép hèn mọn đó, vừa phải diễn kịch vừa phải che dấu dân chúng ra khỏi thành. Hỏi rằng có ai nguyện ở lại giúp đỡ, lại chẳng người nào lên tiếng. Có ai nguyện ý đâu, vì một khi đã đứng lên diễn hí thì cửa tử đã bước một chân vào. Chỉ có mười ba người ấy lên tiếng nguyện ý "Ta Đi" Lại có vị cô nương bán hoa hỏi bọn hắn "Vì sao muốn đi, dân chúng bọn họ cùng các ngươi không có quan hệ, bọn họ khinh thường các ngươi, chưa từng xem các ngươi là con người, chưa từng thật lòng thật dạ đối đãi, đến nhành hoa cỏ dại cũng chưa từng tặng ngươi thì hà cớ gì phải cứu bọn chúng?" Mười ba người đào hát chỉ trả lời "Có sinh ắt có tử, một tất đất của nước ta sao có thể trao cho quân Nhật. Mỗi lần trên khán đài khi ta hát xong mọi người đều trầm trồ khen ngợi. Ta mặc dù không đọc nhiều sách vở, nhưng cũng biết những lời khen ngợi ấy là thật tâm và ta cũng nên đối đãi thật tâm với họ". Chính mỗi lần hát không hay, các ngươi đều sẽ phải nhận những trận đòn roi, thì dân chúng có biết hay không. Những lời này tiểu cô nương bán hoa kia chung quy là vẫn chưa nói ra. Ban đêm, đèn đuốc sáng trưng, mười ba người đào hát ấy, kẻ hát trên sân khấu kẻ phải châm trà rót rượu. Thế nhưng khúc hí hát còn chưa đến nửa, quân Nhật đã phát giác dân trong thành chẳng thấy đâu. Sau đó thì tiếng súng vang khắp thành, sau đó thì.. chẳng có sau đó nữa. Vỡ Mẫu Đơn Đình còn dư âm, "Đỗ Lệ Nương" cùng "Liễu Mộng Mai" một thân đẫm máu tươi. Trên đài thi thể chồng chất chẳng thể phân biệt ai là ai nữa rồi. Đào ban mười ba người đã chết, chết ở trên đài hí kia. - Dịch: Chấp Niệm - Lời bài hát: 念白: 我不爱唱戏, 却在这戏台上过了一辈子, 一辈子, 其实也不过就是一场戏 哼半支无名歌 咿呀唱个喏 如此半生蹉跎 喧嚣中消磨 晨昏里 孑然空对 灶中炉火 影影绰绰 听戏文唱书生 书生多落魄(悲欢离合) 有才子与佳人 痴痴换情薄(何必执着) 依稀中 若有赤子 捐身家国 满堂应和 戏开腔 锣鼓渐没 转一步 生死两相隔 于戏里 于街头 弯腰附和 未得过 半分好颜色 谁人知我 戏外人间 戏里山河 哪个都 不曾拥有过 冷眼看 台上台下 身是戏中客 念白: 你不怕死吗? 我都在这台上死了这么多回了, 也不差这一次 这人间 总有人在爱着恨着 谁不是挣扎中 碌碌的度过 也受过 一点温热 眼底深藏 人间烟火 曾覆面 却掩于尘埃的粉墨(才算鲜活) 绽放于 心口的那一抹血色(才算炙热) 至此刻 穷途路末 谁人谓我 是戏中客 道一声 就此别过 君若归 莫笑我落魄 我应憾 未掷花 未戴绮罗 却偏生 投身于红尘 爱我所得 怎敢劳 青史费笔墨 有生日 当尽我之责 铿锵中 自戏台跌落 死生一遭 才算是来过 若散场 无人来和我 我便卸去 一身粉墨 来与众人相和 唱罢锦绣好山河 融入戏文里 化作传说 Pinyin: Nìanbái: Wǒ bù ài chàngxì, què zài zhè xìtái shàngguòle yībèizi, yībèizi, qíshí yě bùguò jìushì yī chǎng xì Hēng bàn zhī wúmíng gē yīyā chàng gè nuò Rúcǐ bànshēng cuōtuó xuānxiāo zhōng xiāomó Chénhūn lǐ jiérán kōng dùi zào zhōng lú huǒ yǐngyǐngchuòchuò Tīng xìwén chàng shūshēng shūshēng duō luòpò (bēihuānlíhé) Yǒu cáizǐ yǔ jiārén chī chī hùan qíng bó (hébì zhízhuó) Yīxī zhōng ruò yǒu chìzǐ juān shēnjiā guó mǎntáng yìng hè Xì kāiqiāng luógǔ jìan méi zhuǎn yībù shēngsǐ liǎng xiānggé Yú xì lǐ yú jiētóu wān yāo fùhè Wèi déguò bànfēn hǎo yánsè shéi rénzhī wǒ Xì wài rénjiān xì lǐ shānhé nǎge dōu bùcéng yǒngyǒuguò Lěngyǎn kàntái shàngtái xìashēn shì xì zhōng kè Nìanbái: Nǐ bùpà sǐ ma? Wǒ dū zài zhè tái shàng sǐle zhème duō húile, yě bù chā zhè yīcì Zhè rénjiān zǒng yǒurén zài àizhe hènzhe Shéi bùshì zhēngzhá zhōng lùlù de dùguò Yě shòuguò yīdiǎn wēn rè yǎndǐ shēn cáng rénjiān yānhuǒ Céng fùmìan què yǎn yú chén'āi de fěn mò (cái sùan xiān huó) Zhànfàng yú xīnkǒu dì nà yīmǒ xuèsè (cái sùan zhìrè) Zhì cǐkè qióngtú lù mò shéi rén wèi wǒ shì xì zhōng kè Dào yīshēng jìucǐ biéguò jūn ruò guī mò xìao Wǒ luòpò wǒ yīng hàn wèi zhì huā wèi dàiqǐluō Què piānshēng tóushēn yú hóngchén ài wǒ suǒdé Zěn gǎn láo qīngshǐ fèi bǐmò yǒu shēngrì dāng jǐn wǒ zhī zé Kēngqiāng zhōng zì xìtái diéluò sǐshēng yī zāo cái sùanshì láiguò Ruò sànchǎng wú rén lái hé wǒ wǒ bìan xiè qù yīshēn fěn mò Lái yǔ zhòngrén xiāng hé Chàng bà jǐnxìu hǎo shānhé róngrù xìwén lǐ hùa zuò chúanshuō