Hệ thống pháp luật tư sản bao gồm những gì?

Thảo luận trong 'Cuộc Sống' bắt đầu bởi Sưu Tầm, 15 Tháng chín 2021.

  1. Sưu Tầm The Very Important Personal

    Bài viết:
    662
    Hệ thống pháp luật tư sản là kiểu pháp luật thứ ba trong lịch sử xã hội loài người, ra đời gắn liền với sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cách mạng dân chủ tư sản và sự ra đời của nhà nước tư sản.

    Hệ thống pháp luật tư sản


    Do đó, một cách gián tiếp, thẩm phán vừa là người xét xử, vừa là người tạo ra pháp luật. Hệ thống Ănglo-Saxon không được chia thành hệ thống tư pháp và tư pháp. Tất cả các quốc gia theo hệ thống Anglo-Saxon đều dựa trên luật dân sự của Anh. Hệ thống pháp luật lục địa bao gồm hầu hết luật của các nước châu Âu lục địa (Pháp, Đức, Y)

    Hệ thống lục địa có những đặc điểm nổi bật sau: Các quốc gia theo hệ thống pháp luật này"chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật La Mã cổ đại. Về ảnh hưởng của pháp luật La Mã.

    Ngược lại với pháp luật La Mã cổ đại, Mác nhận thấy rằng pháp luật của các quốc gia này có không mang lại những cải tiến đáng kể của luật dân sự La Mã cổ đại mà chỉ nhân bản nó đơn thuần Trong hệ thống Anglo-Saxon, hệ thống pháp luật lục địa phân chia luật thành các lĩnh vực pháp lý và tư pháp mối quan hệ của các cơ quan nhà nước và quan hệ công chúng để bảo vệ lợi ích chung.

    Và tư pháp bao gồm các lĩnh vực pháp luật, các thiết chế pháp lý, điều chỉnh các mối quan hệ nhằm bảo vệ lợi ích của mỗi cá nhân.

    Tuy nhiên, ranh giới giữa luật công và công lý ở các nước này không còn đậm nét như trước. Ở các nước thuộc hệ thống đại lục, thẩm phán chỉ thực hiện quyền tài phán, nhưng họ không được phép tham gia vào các hoạt động lập pháp, họ không được phép tạo ra các quy định và quy phạm pháp luật.

    Đây chỉ là những đặc điểm nổi bật của hai hệ thống pháp luật. Nếu bạn xem xét kỹ hơn từng lĩnh vực pháp lý và từng thể chế riêng lẻ, bạn vẫn có thể tìm thấy nhiều điểm khác biệt giữa hai hệ thống.

    Tuy nhiên, chúng vẫn có những điểm tương đồng cơ bản giữa hai hệ thống pháp luật nêu trên, vì cả hai đều dựa trên quan hệ sản xuất dựa trên tư hữu và bóc lột lao động làm công ăn lương. Do sự gia tăng hoạt động lập pháp và giảm dần tiền lệ ở các nước thuộc hệ thống Anglo-Saxon do quá trình hội nhập kinh tế giữa các nước trong khuôn khổ EEC.

    Bên cạnh hai hệ thống pháp luật trên còn có hệ thống pháp luật của các nước Hồi giáo và hệ thống pháp luật Bắc Âu, hệ thống pháp luật Ấn Độ.. Hệ thống pháp luật cũng có nhiều điểm tương đồng với hệ thống pháp luật dân sự (hệ thống châu Âu lục địa) nhưng do đặc điểm riêng của nó, nó vẫn được coi là một Hệ thống riêng biệt được xem xét.

    Tuy nhiên, đây là một vấn đề gây tranh cãi. Các luật sư Bắc Âu có quan điểm khác nhau về hệ thống pháp luật ở các nước Bắc Âu.

    Hệ thống pháp luật tư sản bao gồm những gì?


    Sau khi ra đời, một mặt nhà nước tư sản tiếp tục sử dụng những quy định còn phù hợp trong pháp luật phong kiến, mặt khác, nhà nước nhanh chóng xây dựng hệ thống pháp luật mới cho mình. Pháp luật tư sản được xây dựng trên cơ sở kinh tế là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở xã hội là quan hệ giữa nhà tư bản với người công nhân làm thuê, cơ sở tư tưởng là hệ tư tưởng tư bản chủ nghĩa. Pháp luật tư sản bao gồm những đặc điểm này;

    Thứ nhất, pháp luật phong kiến là pháp luật về đẳng cấp đặc quyền, còn pháp luật dân sự quy định mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

    Pháp luật phong kiến giúp thiết lập và bảo vệ trật tự đẳng cấp trong xã hội bằng cách phân chia con người thành nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội, thậm chí trong mọi tổ chức, cộng đồng và gia đình có sự phân biệt thứ bậc. Mỗi đẳng cấp và thứ bậc đều có địa vị và tư cách pháp nhân. Xã hội rất khác.

    Ở các nước phương Đông, các mối quan hệ đẳng cấp (vua - tôi, cấp trên - cấp dưới, cha - con, anh - em, vợ - chồng) được pháp luật xác lập và bảo vệ, luật công khai quy định rằng các giai cấp trên có những đặc quyền nhất định về chức tước, danh hiệu, Nguồn gốc.. mỗi người.

    Thứ hai, luật dân sự bảo vệ sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp tư sản trong xã hội.

    Mặc dù luật dân sự thừa nhận về mặt pháp lý một số quyền tự do chính trị của công dân như quyền bầu cử và ứng cử vào các chức vụ trong chính phủ, tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do báo chí.. nhưng trên thực tế, hầu như chỉ có giai cấp tư sản mới có đủ các điều khoản, điều kiện và khả năng thực hiện đầy đủ các quyền này.

    Theo quy định của pháp luật, những công dân nghèo cũng có thể ứng cử vào các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước, nhưng trên thực tế họ hiếm khi làm như vậy.. có cơ hội được bầu vào các vị trí này vì để được bầu, các ứng cử viên phải nhận được sự ủng hộ và hỗ trợ tài chính lớn để có thể vận động tranh cử mà người nghèo có được.

    Luật dân sự bảo vệ hệ tư tưởng dân sự bằng cách tạo điều kiện cho sự truyền bá và lan tỏa của các tư tưởng và lối sống tư sản, và bằng cách ngăn chặn, hạn chế và đàn áp sự truyền bá của các tư tưởng tư sản và những tư tưởng đối lập với hệ tư tưởng và lối sống tư sản.

    Thứ ba, luật dân sự mang tính dân chủ, nó thừa nhận quyền tự do và bình đẳng hợp pháp của công dân.

    Luật dân sự dựa trên các nguyên tắc bình đẳng, tự do và dân chủ. Ở đây nói lên sự tiến bộ vượt bậc của luật dân sự so với các loại luật trước đó. Tự do, bình đẳng và tình huynh đệ là những từ thông dụng được giai cấp tư sản sử dụng để tập hợp sức mạnh tiến hành cách mạng tư sản.

    Sau khi nhà nước tư sản ra đời, những khẩu hiệu này đã trở thành nguyên tắc của luật dân sự. Với sự ra đời của luật dân sự, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, các quyền con người, quyền tự do cá nhân, quyền công dân được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Nếu pháp luật của chủ nô và chế độ phong kiến công khai thừa nhận và bảo vệ sự bất bình đẳng trong xã hội, thì pháp luật dân sự khẳng định mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

    Giữa nhà tư bản và tiền công, người lao động, giữa người giàu và người nghèo, giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội, đều bình đẳng với nhau. Theo quy định của pháp luật, nhà tư bản và người làm công ăn lương được tự do thể hiện ý chí của mình khi ký kết hợp đồng lao động, không bên nào có quyền áp đặt ý chí cho bên kia.

    Tài sản ghi nhận quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, điều này được thể hiện trong nhiều quy định của hiến pháp và các văn bản pháp luật khác của nhà nước dân sự. Trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.

    Thứ tư, luật dân sự mang tính nhân văn cao hơn so với các hình thức pháp luật trước đây.

    Hình phạt tử hình đã được giảm đáng kể và nhiều quốc gia đã bãi bỏ nó. Ở những quốc gia vấn đề cao án tử hình, phương pháp hành quyết không nhằm gây ra nỗi đau về thể xác hoặc tinh thần cho những kẻ hiếp dâm hoặc những người khác.

    Trong khi luật hình sự chiếm vị trí trung tâm trong luật chủ nô và chế độ phong kiến thì luật dân sự đóng vai trò chủ đạo trong luật dân sự hiện hành và hợp đồng trở thành thiết chế trung tâm của ngành luật dân sự bao gồm các quy định khá rộng rãi và chi tiết về hệ thống giáo dục bắt buộc đối với công dân; về mức lương tối thiểu, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, trợ cấp thất nghiệp đối với người lao động; hệ thống thuế thu nhập lũy tiến; bảo vệ môi trường, chống lại căn bệnh thế kỷ, viện trợ nhân đạo, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng..
     
    NhânGian LưuTình thích bài này.
    Last edited by a moderator: 26 Tháng hai 2022
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...