Hảo Hán Sài Gòn Dân Chơi Bến Nghé - Thượng Hồng

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Nhật Thiên Thanh, 11 Tháng mười hai 2019.

  1. Nhật Thiên Thanh

    Bài viết:
    179
    [​IMG]

    Hảo Hán Sài Gòn Dân Chơi Bến Nghé

    Thượng Hồng

    Mục Lục:

    Bấm để xem
    Đóng lại
    I. Hảo hán Sài Gòn Dân chơi Bến Nghé

    1. Hảo hán Sài Gòn Dân chơi Bến Nghé

    2. "Dân chơi" Nam Bộ thời xưa

    3. Dân anh chị tại Sài Gòn

    4. Làng võ Sài Gòn xưa và những võ sĩ huyền thoại

    5. Thiên Địa hội tại Sài Gòn

    6. Chuyện cậu Hai Miêng nhà tỷ phú "Lương Sơn Bạc"

    7. Bình Xuyên từ huyền thoại đến thực tế

    8. Sài Gòn "Tam ác"

    II. Các đại phú gia đất Sài Gòn

    1. Huyền thoại chú Hỏa

    2. Hồn ma con gái chú Hỏa

    3. Chú Hỷ: Ông vua tàu thủy

    4. Vụ "đốt tiền" của công tử Bạc Liêu

    5. Bạch công tử - Tỷ phú đa tình

    6. Trương văn Bền và xà bông Cô Ba

    7. Tja Ma Yeng nhà kinh tế trong bóng tối

    8. Tây làm giàu ở xứ ta

    9. Làm giàu từ "Đại Thế Giới"

    10. Nhà tỷ phú rửa chén

    11. Nguyễn Tấn Đời và vụ sụp đổ Thần Tài Tín Nghĩa

    12. Thợ sửa xe đạp trở thành chủ rạp hát

    13. Lý Long Thân và cơn sốt chim cút

    14. Trùm tài phiệt đỏ đen Sáu Ngọ

    15. Tứ đại phú gia đất Sài Gòn

    16. Hai "đại gia" người Hoa ở Sài Gòn

    III. Các mỹ nhân làm điên đảo các đại phú

    1. Tứ đại mỹ nhân Sài Gòn

    2. Cuộc thi tuyển hoa hậu đầu tiên tại Sài Gòn

    3. Người đẹp của "Hòn ngọc Viễn Đông"

    IV. Những tản mạn về Sài Gòn xưa

    1. Chuyện phiếm về ba cái "Long mạch" của Sài Gòn

    2. Võ Tòng đả hổ giữa Sài Gòn

    3. Sài Gòn một thuở

    4. Những cuộc phiêu lưu tình ái của Hắc công tử, Bạch công tử

    5. Gặp người tình nhỏ, tuổi Rồng của Bạch công tử

    6. Chợ Hôm, Xóm Củi, Cầu Hoa

    7. Con đò Thủ Thiêm

    8. Sài Gòn "thời Trần"

    9. Sài Gòn phố cũ, đường xưa

    10. Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa..

    11. Đua chó đuổi mèo trò chơi Sài Gòn xưa

    12. Đại Thế Giới từ thiên đàng đến địa ngục

    Lời mở đầu:

    Nhìn lại quá khứ để bước tới tương lai là điều mà chúng ta đang làm. Những người con của đất Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định luôn tự hào về quá khứ mà cha ông họ đã đóng góp để hình thành một vùng đất mà sau này mãi mãi con cháu họ được thừa hưởng.

    Sài Gòn trước kia là nơi tụ hội nhiều lớp người của mọi miền đất nước, đặc biệt là lưu dân của các tỉnh miền Tây - Một thời quen gọi là Lục Tỉnh. Nhưng dù là dân xứ nào, một khi đã bén rễ với Sài Gòn thì đều có tính cách "rất Sài Gòn". Tính cách này hiểu nôm na là sự "chịu chơi", tính khí hảo hán..

    Cụm từ "Hảo hán Sài Gòn - Dân chơi Bến Nghé" đã gắn liền với những cái tên như Phan Xích Long, Tư Mắt, Sáu Ngọ, Hai Miêng.. cho đến Bảy Viễn, Hắc Bạch công tử. Họ gồm những người tốt (như Phan Xích Long) hay những kẻ ác, xu thời, thậm chí bán nước (như cha con Huỳnh Công Tấn, Hai Miêng). Trong tập sách này chúng tôi cố gắng tổng hợp nhiều nguồn tư liệu từ lời kể lại trong dân gian, từ sách báo thuở trước. Chính xác có, và còn có những giai thoại thêm thắt, nhưng dù sao cũng phản ánh được, chuyện về Sài Gòn xưa như một bức tranh nhiều sắc màu.

    Để giúp quý vị có cái nhìn tổng quát và đa dạng hơn, ngoài phần giới thiệu tập "Hảo hán Sài Gòn - Dân chơi Bến Nghé", chúng tôi còn liệt kê thêm nhiều mặt trong sinh hoạt muôn vẻ của Sài Gòn xưa, theo thứ tự:

    - Hảo hán Sài Gòn - Dân chơi Bến Nghé.

    - Các đại phú gia đất Sài Gòn.

    - Những mỹ nhân làm điên đảo các đại phú.

    - Những tản mạn về Sài Gòn xưa.

    Chúng tôi hy vọng rằng sau khi đọc, nếu quý vị nào hiểu biết sâu hơn, có nguồn tư liệu tốt hơn, xin góp ý chỉ giáo, để người viết rút kinh nghiệm cho những lần viết sau (tái bản) được hoàn chỉnh hơn. Rất mong.

    Tác giả.​
     
    Chỉnh sửa cuối: 12 Tháng mười hai 2019
  2. Đăng ký Binance
  3. Nhật Thiên Thanh

    Bài viết:
    179
    Phần I - 1: Hảo Hán Sài Gòn - Dân Chơi Bến Nghé

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Hảo hán Sài Gòn Dân chơi Bến Nghé

    Trong suốt 300 năm ra đời và phát triển, Sài Gòn đã sản sinh ra vô vàn sự việc, con người, từ điều tích cực đến tiêu cực.. Sài Gòn muôn vẻ, muôn mặt. Trong số này, không thể không ghi lại những nét rất.. Sài Gòn, đó là những nhân vật một thời được gọi là hảo hán.

    Những nhân vật được người Sài Gòn nhắc tới nhiều nhất trong giới giang hồ hảo hán, trước hết phải kể đến hai người: Phan Xích Long và Tư Mắt. Hai người này tuy có hai tính cách khác nhau, nhưng lại mang nét đặc trưng rất Sài Gòn, nên thiên hạ khó quên.

    Phan Xích Long xưng đế

    Phan Xích Long tên thật là Phan Phát Sanh, con của Phan Núi - một viên chức cảnh sát ở Chợ Lớn. Thời niên thiếu, Phan Xích Long ít học, chỉ thích tụ tập bạn bè vui chơi. Lớn lên, không làm được thầy thông ký như cha mẹ mong đợi, Phát Sanh đi làm bồi cho chủ Tây. Tuy nhiên, con người ít học này lại có mộng lớn khó ai ngờ. Một ngày nọ, bỗng cậu ta xưng là "Hoàng đế Phan Xích Long", tự cho mình là Thái tử của vua Hàm Nghi. Thì ra từ lâu, Phan Xích Long đã ngấm ngầm liên kết bạn bè trong giới giang hồ, lao động bị ức hiếp, những người nghèo khổ, để cùng thành lập một "hội kín" chống lại chính quyền bảo hộ Pháp. Lúc "hoàng đế" Phan Xích Long "truyền hịch" kêu gọi nổi dậy đến nhân dân vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, thì được sự hưởng ứng của khá đông người. Tuy nhiên, do tổ chức quá sơ hở, kế hoạch hành động còn non yếu, nên chỉ vài giờ sau khi nổi dậy đã tan rã. Phan Xích Long lánh ra Phan Thiết, còn đồng đảng thì lớp bị bắt, lớp rút vào bóng tối.. Song ít lâu sau, họ Phan bị bắt cùng với một số lớn cộng sự và đưa ra xử tại tòa đại hình Sài Gòn, trong phiên xử kéo dài từ ngày 5 đến 12 tháng 11 năm 1913 (Quý Sửu), Phan Xích Long cùng 100 người nữa đã lãnh án khá nặng, trong đó Phan Xích Long bị án chung thân khổ sai.

    Họ Phan và hai đồng đảng bị giam ở khám lớn Sài Gòn (thời ấy khám đường tọa lạc ở khu đất mà ngày nay là Thư viện thành phố, trong khu tứ giác Lý Tự Trọng - Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Lê Thánh Tôn - Nguyễn Trung Trực). Vào lúc nửa đêm ngày 12 tháng Giêng năm Bính Thìn (1916), đồng đảng của Phan Xích Long trong Thiên Địa hội bất thần tấn công khám lớn, nhằm mục đích giải thoát cho đại ca họ. Lực lượng "cướp pháp trường" này mang tính chất "Lương Sơn Bạc". Tất cả những người tham gia đều xuất phát từ các ghe, xuồng đậu ở cầu Móng (phía Khánh Hội) mặc quần trắng áo đen, cổ đeo bùa chú lạ và nghe nói trước giờ xuất phát, họ đã uống nước sắc bùa và chỉ võ trang giáo mác với khí thế hừng hực! Thế nên, chỉ sau hai giờ "khởi binh", lực lượng của họ đã bị dẹp tan: Ba người bị bắn chết ngay tại chỗ, bốn người khác bị bắn trên đường tẩu thoát, một số khá đông bị bắt nhốt.

    Tòa đại hình Sài Gòn đã kết án tử hình 38 người, và đem ra xử tại Đồng Tập Trận vào các ngày 20 tháng 2 và ngày 16 tháng 3 năm 1916. Tổng cộng có 57 "anh hùng hảo hán" chết vì "đại cuộc" của Phan Xích Long. Dân Sài Gòn cho rằng, nếu các "người hùng" này hành dộng khéo léo và tổ chức chu đáo một chút thì kết cuộc sẽ không bi thảm như vậy..

    Tư Mắt

    Đồng thời với Phan Xích Long là Tư Mắt. Người này không có được chí lớn và hành động chống Pháp giải thoát người nghèo như Phan Xích Long, tuy nhiên, anh ta vẫn được người Sài Gòn nhắc tới, bởi tính cách rất giang hồ vào thời ấy.

    Tư Mắt tên thật là Nguyễn văn Trước, sinh ra và lớn lên tại vùng Chợ Lớn. Làm thợ hớt tóc, rồi sau đó làm chủ tiệm, mở cửa hiệu hớt tóc tại số 200 đường Marins (đường Thủy Binh, sau đổi thành Đồng Khánh, hiện nay là Trần Hưng Đạo B). Vào những ngày đầu thế kỷ XX, khắp vùng Sài Gòn, Chợ Lớn (và cả Nam Kỳ lục tỉnh) không ai không nghe danh "đại ca Tư Mắt", bởi ông ta là tay giang hồ hảo hán bạo gan, bạo phổi, hành động nặng tính Lương Sơn Bạc nhất. Đã có rất nhiều "huyền thoại" chung quanh cuộc đời ngang dọc của con người này, đến nỗi, dù cho Tư Mắt hành động cướp bóc cũng được ngợi khen, bởi nhiều người cho rằng Tư Mắt lấy tiền của kẻ giàu đem chia cho những người nghèo.

    Tương truyền, Tư Mắt có đến hàng ngàn đồng đảng ở khắp nơi. Ông ta cầm đầu những vụ cướp của nhà giàu, chứa bạc lấy xâu và cả những dịch vụ làm ăn không rõ nguồn gốc.. Sở dĩ Tư Mắt được tôn là hảo hán, có lẽ do những hành động đượm chất Tống Giang, Võ Tòng của Thủy Hử, hoặc hành động như Đơn Hùng Tín trong truyện Thuyết Đường. Ai đã quen biết với Tư Mắt, từng được "anh Tư" che chở, đều bái phục chất hảo hán rặt Nam Bộ của anh ta: Đàn em bất kể là người nào, nếu lúc bình sinh chịu khuất phục Tư Mắt, thì lúc hoạn nạn, dù ở hoàn cảnh nào, cũng được "anh Tư" ra tay cứu vớt. Thậm chí, có người khi bị sa cơ, ở tù, người nhà không thấy ai thăm viếng, chỉ thấy Tư Mắt hoặc đàn em của anh ta đến thăm tận khám đường, tiền bạc quà cáp đầy đủ và còn có thể được Tư Mắt bỏ tiền ra lo cho tại ngoại.

    Thời đó, chính quyền Pháp hình như ngại đụng chạm đến Tư Mắt, một phần vì lực lượng "đầu gấu" trong giang hồ của Tư Mắt quá đông, nhưng phần quan trọng hơn là họ sợ chạm đến lòng ngưỡng mộ Tư Mắt của số đông dân nghèo. Có một câu chuyện được kể lại rằng, vào một ngày nọ, khi Tư Mắt cùng vài đồng bọn tới một ngôi chợ nhỏ, đang ngồi ăn uống thì bị lực lượng cảnh sát bao vây. So về tương quan lực lượng thì phía Tư Mắt thua chắc, dù đại ca có giỏi đến đâu.. Nhưng, thật bất ngờ, một đám đông chẳng biết từ đâu, đã bất thần tấn công cảnh sát, giải thoát cho đại ca Tư Mắt. Sau hiểu ra mới hay, những người đó là đám dân nghèo, chỉ vì mến mộ Tư Mắt nên đã liều thân.

    Ngày 14.05.1915, Tư Mắt bị đưa ra trước tòa Đại hình ở Sài Gòn, bị khép tội du côn, kèm theo tội tham gia hội kín ủng hộ ông Cường Để. Tưởng chừng với tội danh đó, người Pháp sẽ kêu một án rất nặng, nhưng thật bất ngờ, Tư Mắt chỉ phải lĩnh có mấy năm tù. Tư Mắt ở tù chẳng xảy ra vụ cướp pháp trường như vụ Phan Xích Long, có lẽ người Pháp đã có dàn xếp sao đó.. Khi ra tù, Tư Mắt có vẻ trầm tĩnh hơn, dù đám dàn em vẫn một mực tôn sùng, bái phục.

    Ở tuổi 50, bỗng nhiên Tư Mắt rũ áo giang hồ, có lẽ do hối lỗi những gì mình đã gây ra trong suốt một thời gian dài, nên xin vào làm công quả ở chùa Giác Lâm (Bình Thới, Phú Thọ). Nghe nói ông ta chết già trong âm thầm lặng lẽ ở ngôi chùa đó.

    Dân chơi Bến Nghé

    Ngoài hai tên tuổi nổi cộm nêu trên, Sài Gòn còn khá nhiều các hảo hán, mỗi người một vẻ, người hùng cũng có, xỏ lá ba que cũng không thiếu. Tất cả họ, dù là hảo hán thứ thiệt, hay hảo hán nửa mùa, đều luôn hãnh diện tự cho mình là "chơi theo kiểu Nam Bộ", với phương châm "hành hiệp", lấy câu hoạn nạn tương cứu, sinh tử bất ly làm đầu. Nhưng cũng không thiếu những người như Bảy Viễn, lúc còn là dân giang hồ thì luôn miệng thề thốt trọng nghĩa khinh tài, nhưng khi đã có của (do Pháp cung cấp) thì lại tỏ ra gian ác và xỏ lá không ai bằng! Song nói chung, đã là dân giang hồ chính hiệu, thuộc loại hảo hán Sài Gòn trăm phần trăm, thì luôn "chơi đẹp", móc ruột gan ra chơi với bằng hữu, luôn tỏ ra "bảnh" khó bì!

    Nói về vụ chơi bảnh, xin kể lại hai giai thoại sau đây, để cho thấy cách chơi đặc trưng Nam Bộ. Đầu tiên là Sáu Ngọ, vua cờ bạc, đồng thời là tay hảo hán cỡ bự của Sài Gòn. Một hôm, đi chơi phố Catinat (Đồng Khởi ngày nay), thầy Sáu (biệt danh do em út tặng cho Sáu Ngọ) ghé vào hiệu bán nón (mũ) do người Pháp làm chủ. Thời đó, những chiếc nón ngoại (thường là của Pháp, Ý) rất đắt tiền chỉ dành cho dân Tây hoặc nhà giàu. Vì thế, khi nhìn thấy Sáu Ngọ với trang phục lôi thôi, tên chủ tiệm người Pháp đã có ý khinh khi. Đến khi nghe thầy Sáu lên tiếng hỏi mua vài chiếc nón đội chơi, tên chủ trả lời mà có ý đuổi khéo:

    - Mắc lắm, anh không mua nổi đâu!

    Sáu Ngọ thông hiểu tiếng Pháp nên nghe câu nói đã nổi điên, ông ta hất hàm bảo chủ tiệm:

    - Còn bao nhiêu cái nón lấy hết cho tao!

    Nói xong, ông ta móc ra một xấp tiền trả "cái rẹt"!

    Tên chủ người Pháp quá bất ngờ nên sau đó riu ríu gói hơn một chục chiếc nón và trịnh trọng:

    - Merci Monsieur (Xin cảm ơn ngài).

    Chuyện thứ hai thuộc về Hội đồng hàm Trần Trinh Trạch, cha của Hắc công tử Bạc Liêu Trần Trinh Qui (Ba Qui). Ông này tuy đã già, nhưng lúc nào cũng muốn chứng tỏ mình là "dân chơi" thuộc loại hảo hán, cho mọi người biết: "Tao như vầy, nên mới sinh ra thằng Hắc công tử Ba Qui như thế..".

    Một hôm, Hội đồng Trạch lên chơi Sài Gòn, nhân đó sắm xe hơi đem về Bạc Liêu chạy lấy oai. Ông ta ghé lại hãng Charner (Trung tâm Bách hóa TP. Hồ Chí Minh ngày nay), là nơi duy nhất bán các loại xe ô-tô mới từ châu Âu đưa qua. Thời ấy, chỉ những quan Tây cỡ lớn, hay những nhân vật phú hộ người bản xứ thuộc loại tiếng tăm lừng lẫy mới đủ khả năng sắm những chiếc xe hơi hiệu Peugeot, Delage, Panhard, Ford.. đang trưng bày nghênh ngang trong cửa hàng. Bởi vậy, vào một buổi sáng chủ nhật, khi thấy một cụ già búi tóc, mặc áo bành tô, quần lụa lèo, chân đi giày hàm ếch, bước vào, những vendeur (người bán hàng) đã không thèm tiếp. Đến khi ông cụ lên tiếng hỏi giá cả từng loại xe, thì bị một tên bán hàng hỏi trịch thượng:

    - Ông có bao nhiêu tiền mà dám hỏi chiếc xe đó?

    Hội đồng Trạch tức khí, vừa vỗ vào hầu bao đeo ở thắt lưng vừa quát:

    - Tao mua hết cả nhà tụi bây còn được nữa là.

    Rồi ông ta leo lên xe, bảo thử hết chiếc này đến chiếc khác. Cuối cùng, ông ta mua chiếc Delage loại "chiến" nhất, giá trên 2.000 đồng (nên nhớ, vàng thời ấy chỉ vài chục đồng một lượng). Đến khi ông mở gói tiền toàn giấy bộ lư (tiền 100 đồng, loại tiền giá trị lớn nhất lúc đó) ra, mọi người trố mắt nhìn, mấy tay vendeur ngượng nghịu, dạ dạ vâng vâng rối rít!

    Về sau, Hội đồng Trạch vẫn còn khoái chí mãi chuyện đó. Ông ta luôn khoe: "Tao cho tụi nó biết thế nào là hảo hán đất Nam Bộ!".
     
  4. Nhật Thiên Thanh

    Bài viết:
    179
    2: "Dân chơi" Nam Bộ thời xưa

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Chúng ta thường nghe nói đến cụm từ "hảo hán Nam Bộ", để chỉ một số nhân vật đã sống khá phóng túng, hành tung ngang dọc theo kiểu Lương Sơn Bạc. Một số người là những nhân vật có thật, sống ở Sài Gòn và các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Tuy nhiên, họ có đáng được gọi là hảo hán hay "dân chơi" không?

    Hắc Bạch công tử

    Vào khoảng thời gian trước và trong thời chiến tranh thế giới lần thứ hai, ở Sài Gòn và các tỉnh miền Tây Nam Bộ, không ai không nghe nhắc đến Hắc công tử và Bạch công tử, đại diện cho loại "dân chơi" kỳ quặc, nổi lên như một hiện tượng "thời thượng" lúc bấy giờ. Hắc công tử tên thật là Trần Trinh Huy (Qui), con của ông hội đồng Trần Trinh Trạch (ông này là một nghiệp chủ giàu nhất ở Bạc Liêu, mà cũng có thể gọi là đại phú hộ ở các tỉnh miền Tây thời đó). Do đó, người đời quen miệng gọi cậu Ba Qui là công tử Bạc Liêu, hay Hắc công tử, bởi nước da đen mặn mà của cậu ta.

    Còn Bạch công tử, đúng như biệt danh, người trắng trẻo, bảnh trai, con của một đại nghiệp chủ ở tỉnh Mỹ Tho (Tiền Giang bây giờ), họ Nguyễn, tên Phước, lấy tên Tây là George nên được gọi là Phước George.

    Họ sinh ra và lớn lên vào cái thời Nam Bộ sống dưới chế độ bảo hộ của người Pháp, xã hội nhiễu nhương, sự phân cấp giàu nghèo khá gay gắt. Họ trở thành tầng lớp trên, được hưởng những đặc quyền mà người khác có nằm mơ cũng không thấy được. Và từ đó, họ chơi ngông, đã tạo được chung quanh mình những giai thoại được nhắc mãi..

    Thiên hạ thường hay nói: "Chơi như công tử Bạc Liêu" hay "tiêu xài như Hắc Bạch công tử" là ý muốn nhắc đến thành tích phung phí của hai nhân vật này. Tương truyền, vào lúc kinh tế đắt đỏ, năm 1938, một lạng vàng giá 20 đồng, thì Bạch công tử dám mua tặng cho người yêu một chiếc ô-tô trị giá trên 1.000 đồng, làm quà sinh nhật.

    Giữa Hắc và Bạch công tử luôn có sự kình chống nhau, bởi ai cũng muốn "xưng hùng", mà thói đời "nhất sơn bất tàng nhị hổ". Do đó, hễ có dịp là họ chứng tỏ sự "trên cơ" của mình. Tuy nhiên, nói về "chơi bảnh" thì Bạch công tử có nhỉnh hơn, nói về sự giàu có thì xem ra chàng Hắc trội hơn. Bởi vậy, hôm đó nhân chiều thứ bảy, Hắc công tử (công tử Bạc Liêu) bèn đổi "gu" chơi, không lái xe traction nữa, mà lại đi xe kéo. Ngày đó, ở Sài Gòn, dân nghèo khi đi lại chỉ dám lên xe điện (gọi là xe điển) hay xe ngựa, còn các phương tiện khác như ô-tô và xe kéo thì dành cho dân giàu. Sở dĩ dân nghèo ít dám đi xe kéo vì phương tiện đó đắt hơn xe công cộng nhiều.

    Hắc công tử không đi xe kéo thông thường, mà chơi thật ngông, gọi một lúc 20 chiếc xếp hàng, nối đuôi nhau ngay trước cửa. Tất nhiên khi đi, cậu ta chỉ ngồi trên một xe, còn các xe sau: Một chiếc chở bâton (gậy), một chiếc chở mũ, chiếc nữa chở cặp tiền mà công tử mang theo để đánh bạc. Còn lại những chiếc khác thì chạy không, đi kèm theo như một lực lượng hộ tống diễu hành! Cả đoàn xe do Hắc công tử dẫn đầu chạy qua khắp các phố, và cuối cùng dừng lại ở khu Đại Thế Giới (Grand Monde). Khi công tử đi đánh bạc là thế đó!

    Vụ thứ hai là sự trả thù của Bạch công tử. Số là, lúc nào chàng Bạch cũng tìm cách chơi xỏ ông bạn của mình, để chứng tỏ rằng mình mới là "dân chơi" thứ thiệt. Hôm đó, nhân cùng có mặt trong dạ tiệc và do sự sắp xếp của chủ nhân, hai chàng Hắc - Bạch đã ngồi cùng bàn. Vào lúc tiệc đang hào hứng thì đèn vụt tắt, để chuẩn bị buổi khiêu vũ. Cũng đúng lúc đó, Hắc công tử vô ý đánh rơi tờ giấy "oảnh" (vinght - hai mươi đồng). Thời đó, tờ giấy hai mươi đồng khá lớn (trị giá một lạng vàng) nên công tử Bạc Liêu bật diêm quẹt cúi xuống tìm. Bất ngờ, Bạch công tử Phước George đã móc ra tờ giấy "xăng" (cent - một trăm đồng) bật diêm đốt cháy tờ giấy bạc soi cho Hắc công tử tìm tờ giấy 20 đồng.

    Cậu Hai Miêng

    Sở dĩ phải nhắc tới nhân vật này là vì dân chơi lục tỉnh, miền Tây Nam Bộ (bây giờ chỉ có 6 tỉnh) ngày xưa không phân biệt thành phần, xuất thân của Hai Miêng, vẫn xem ông này như một loại "hảo hán". Hai Miêng tên thật là Huỳnh Công Miêng, con trai của tên đại Việt gian Huỳnh Công Tấn, người đã sát hại hai vị nghĩa quân anh hùng Trương Định và Thủ Khoa Huân. Được hưởng ân sủng của cha, thuở nhỏ, Hai Miêng được gửi đi học ở Philippines, được biệt đãi như một vương tôn, công tử. Về nước, đúng 20 tuổi, "cậu Hai" (một danh xưng mà Hai Miêng rất thích được gọi) đã ngang tàng hết cỡ. Cậu ta lập nhóm "Lương Sơn Bạc" (nửa mùa thôi, vì cậu có làm phản, có chống nhà nước Pháp như các hảo hán Lương Sơn Bạc ngày xưa chống Tống đâu) và thường "cứu giúp dân nghèo" bằng cách lấy công quỹ của Pháp để.. tiêu xài.

    Nhà nước bảo hộ Pháp chỉ thị cho các ngân khố ở các tỉnh Nam Bộ phải biệt đãi Hai Miêng bằng cách khi cậu Hai cần tiền bất kỳ lúc nào, thì có quyền tới bất cứ ngân khố ở bất cứ đâu để lấy, bao nhiêu tùy thích! Do đó, để chứng tỏ mình là "hảo hán", là "dân chơi", cậu Hai Miêng đã tung tiền mua chuộc đàn em, người nghèo bằng cách hễ ai thiếu hụt tiền nong, cậu Hai sẵn sàng ra tay "tế độ". Vì thế, đi tới đâu, Hai Miêng cũng được người ta xưng tụng, kính cẩn gọi một điều "cậu Hai", hai điều "cậu Hai". Thậm chí sau đó, có người còn đặt hẳn một bài vè khá dài, để ca ngợi hành động gọi là "anh hùng hảo hán" của dòng máu đại Việt gian này!

    Đầu trộm đuôi cướp xưng hùng

    Có hai nhân vật tiêu biểu cho loại này là Tư Mắt và Sáu Ngọ. Tư Mắt thuộc về thế hệ đàn anh hơn cả những nhân vật vừa kể. Ông ta sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn vào đầu thế kỷ này. Là dân "anh chị", trùm thế giới "giang hồ" thời đó với hai "biệt tài" : Cờ bạc và cướp. Tuy nhiên, Tư Mắt chỉ cướp của nhà giàu chia bớt cho người nghèo. Còn cờ bạc thì ông ta không đánh lẻ tẻ, mà làm chủ chứa hay "bảo kê" cho các điểm đánh bạc ở Sài Gòn và vài tỉnh lân cận. Nơi nào có Tư Mắt đỡ đầu thì coi như bất khả xâm phạm, làng lính không bao giờ dám đụng tới. Hầu hết dân anh chị Nam Bộ thời ấy đều tôn Tư Mắt là đại ca.

    Người tiếp nối "sự nghiệp" Tư Mắt là Sáu Ngọ. Đây là một nhân vật rất đặc biệt, chỉ làm nghề cờ bạc mà có biệt danh "thầy Sáu". Có lẽ do Sáu Ngọ khôn khéo núp bóng Tây, nhập tịch Pháp và khéo sống như một "đại công chức". Không phải thầy thông, thầy phán, không một chức tước gì của chính quyền bảo hộ, vậy mà khi bước ra đường, Sáu Ngọ đều ngồi ô-tô bóng loáng, lúc nào cũng có hai cận vệ kè bên, súng ngắn lận lưng. Việc duy nhất của "thầy Sáu" mỗi ngày là đi một vòng khắp Sài Gòn - Chợ Lớn để "thị sát" địa bàn, kiểm tra các sòng bạc lậu (nhưng chơi gần như là công khai) để "lấy xâu" (ăn tiền trong các vụ chứa cờ bạc).

    Chính quyền Pháp ở Sài Gòn biết rõ: Mỗi ngày, Sáu Ngọ thu "hụi chết" không dưới 100 sòng bạc, bỏ túi không dưới vài chục ngàn (thời điểm 20 đồng một lạng vàng), nhưng họ đã lờ đi, hoặc là ăn chia hay bất lực trước mạng lưới quá rộng của tay trùm cờ bạc này. Sáu Ngọ đã "thống trị" thế giới "đỏ đen" Sài Gòn hơn 20 năm, đến khi khu cờ bạc lớn nhất Đông Nam Á là Đại Thế Giới (Grand Monde) được chính quyền Pháp chính thức cho phép hoạt động.

    Cái gọi là "hảo hán chơi ngông" theo kiểu anh hùng cá nhân rồi cũng chấm dứt. Xét ra, tính cách của những "dân chơi" này thật xa lạ với phong cách người dân miền cực Nam của Tổ quốc với bản tính bộc trực, phóng khoáng rất đáng yêu..
     
  5. Nhật Thiên Thanh

    Bài viết:
    179
    3: Dân anh chị tại Sài Gòn

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sài Gòn, ngay từ thời xa xưa, cùng lúc với sự hình thành và phát triển của nó, bên cạnh những mặt tích cực, vẫn đầy rẫy những mặt tiêu cực, mà các tay "anh chị" là một tiêu biểu.

    Đất Gia Định - Sài Gòn là một vùng đất phát triển theo đà Nam tiến của ông cha ta ngày xưa. Dân mang tiếng là "cố cựu" của Sài Gòn không nhiều, trong khi đó, các lưu dân từ miền ngoài (Trung, Bắc) và miền dưới (miền Tây) có phần đông hơn.

    Ngoài yếu tố dân đông, đa nguồn gốc, nên mỗi cộng đồng có "phe" riêng của mình, còn có nguyên nhân xuất phát tất yếu từ cuộc sống bon chen chốn thị thành, theo kiểu mạnh được, yếu thua, do đó Sài Gòn luôn luôn là lò xuất phát những băng nhóm "anh chị" nổi tiếng khắp Nam kỳ lục tỉnh.

    Người Sài Gòn sơ khai đã có thói quen "nghĩa hiệp", đối xử với nhau nặng tính "giang hồ" theo một nghĩa tốt đẹp: Giúp đỡ nhau bằng hành động hiệp nghĩa mỗi khi thấy ai đó gặp hoạn nạn, ít khi tin tưởng hay nhờ vả vào luật pháp. Thí dụ như những giai thoại được những vị cao niên kể lại, thì từ đầu thế kỷ XVII, khi có một số di dân từ miền ngoài vào, trong lúc chờ ổn định cuộc sống, đã cùng nhau neo ghe ở một đoạn sông Soài Rạp (vùng Nhà Bè ngày nay) để nương náu. Vào một hôm, họ bị nhóm thảo khấu đến từ hướng Gò Công đánh cướp. Thân cô thế cô, nhóm di dân chỉ biết kêu la cầu cứu trong vô vọng. Thật bất ngờ, chỉ ít phút sau, từ hai bên bờ sông cây cối rậm rạp đã có nhiều ánh lửa nổi lên, cùng với tiếng chiêng liên hồi vang dội. Lũ thảo khấu đã bị một số dân bản địa đông đến hàng trăm người, chẳng biết từ đâu tới, tấn công và giải nguy cho nhóm người xa lạ. Các tay "nghĩa hiệp" này chính là các hộ dân làm nghề mò cua bắt ốc, dựng lều ở hai bên kênh rạch gần đó. Họ nghèo vật chất, nhưng nhân hậu và giàu tính "hảo hán", thường "giữa đàng thấy việc bất bằng..". Phong cách này, các đời sau vẫn còn lại trong các tầng lớp dân chịu chơi của Sài Gòn và Nam Bộ.

    Theo truyền thuyết, thì cũng xuất phát từ những cuộc tụ tập ghe thuyền lưu dân các nơi tại vùng kênh Soài Rạp đó, một người tên là Võ Thủ Hoằng đã đứng ra lập một cái chợ nổi, kết bằng những bè tre, nứa; để rồi thành danh là chợ Nhà Bè cho mãi đến ngày nay. Dân họp chợ trên bè, sống trên ghe xuồng, lều trại tạm bợ.. nhưng về tính cương trực và "chịu chơi" thì khó ai bì. Bởi vậy, khi xảy ra đánh nhau giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, nhà Nguyễn đã lấy lòng được nhóm dân "nghĩa hiệp, chịu chơi" ấy, và gầy dựng bàn đạp ở vùng đất phương Nam này, để rồi sau đó ít lâu, đã phản công và thắng được nhà Tây Sơn.

    Điển hình cho sự việc trên là vụ nhóm "Cái bang" ở Sài Gòn đã giải nguy cho Nguyễn Ánh, khi ông vua nhà Nguyễn này đang bôn tẩu. Truyền thuyết kể rằng, vào những năm đánh nhau ác liệt giữa Tây Sơn và tàn quân Nguyễn Ánh, một hôm Nguyễn Ánh chạy nạn tới khu vực mà ngày nay là giao lộ Nguyễn Trãi - Cống Quỳnh, vốn là khu vực tập trung dân cái bang (ăn xin) của thành phố. Chẳng phải họ biết thân thế hay thương mến gì ông vua đang bôn tẩu đó, nhưng "giữa đàng thấy chuyện bất bằng..", họ đã ra tay cứu giúp. Bằng cách, cả làng cái bang hè nhau gõ trống, mõ, nồi niêu xoong chảo ầm ĩ, như có thiên binh vạn mã sắp xông ra, làm cho quân Tây Sơn đang truy đuổi phải chùn bước và sau cùng rút lui vì ngại.. Nhờ thế, Nguyễn Ánh (về sau là vua Gia Long) đã thoát nạn. Khi lên ngôi, để tưởng nhớ công lao cứu tử, vua Gia Long đặt tên cho xóm cái bang là Tân Lộc Phường và ưu đãi họ.

    Khi Pháp chiếm Sài Gòn, họ đã phát triển thành phố, mở mang phố xá, nhà cửa, đồng thời tạo ra một lớp thị dân mới. Từ đó, bộ mặt dân "anh chị" cũng đổi thay theo.

    Nếu thời Gia Long, dân cái bang được thế thì sang thời Pháp, ngay buổi đầu đã nổi lên một nhóm "anh chị" rất hung hăng, nguyên là các tay bồi, bếp của các chư Tây. Bọn này ỷ thế chủ, hống hách với người chung quanh, lâu dần thành thói quen du côn, ức hiếp bất cứ ai chúng "hổng ưa". Dù chúng dữ dằn như vậy, nhưng mọi người vẫn nhìn chúng với cặp mắt khinh thị, gọi chúng là dân "dọn bàn", dân "bồi Tây". Bọn này "đồn trú" tại khu Bồn Kèn (khu vực bồn phun nước Nguyễn Huệ chạy đến trước Nhà hát thành phố ngày nay), là nơi thị tứ nhất của thành phố. Bọn họ còn được gọi là du côn "Bôn-Be", bởi đa số đều cư ngụ ở đường Paul Bert (Trần Quang Khải ngày nay).

    Đối đầu với dân du đãng dọn bàn vừa nói, có nhóm "anh chị" bến tàu (Khánh Hội - Quận 4), là thành phần tứ chiếng giang hồ, chủ yếu sống quanh vùng thương cảng, làm đủ thứ nghề từ bốc vác đến "đá cá lăn dưa", đâm thuê chém mướn. Đặc biệt, dân anh chị bến tàu rất ghét bọn "du côn dọn bàn". Bởi theo họ thì dân dọn bàn ngoài việc dựa hơi Tây, ỷ thế của chủ và chút ít tiền do bợ đít Tây ra, chúng không có gì để đáng gọi là "anh chị".

    "Du côn bến tàu" từ bao đời đã có truyền thống lấy cái "mác" nghèo để làm "hành trang" trong mọi hành động. Họ cho rằng mình bị coi thường dưới mắt các thị dân khác, nên phản kháng bằng sự ngang ngược, bạo động. Nói chung, dân bến tàu sống rất thủy chung, và bênh vực cộng đồng hết mình.

    Bên cạnh đó còn hai loại dân anh chị khác mà bất cứ ai sống lâu năm ở Sài Gòn đều nghe tên biết tiếng: Dân anh chị Mạc Má Hồng (đường MacMaHon, sau này là Công Lý, rồi Nam Kỳ Khởi Nghĩa) và dân Lăng Bu Xề (khu Cống Quỳnh - Nguyễn Trãi ngày nay).

    Thuở đó, thỉnh thoảng người ta được chứng kiến những cuộc đụng độ nháng lửa giữa các băng nhóm kể trên. Họ thường sử dụng dao búa, xà beng, xích sắt, củ chì, tay sắt, nên sau khi tàn trận, thường để lại thương vong rất lớn. Cảnh sát Pháp thường tỏ ra thiên vị các "anh chị dọn bàn", xử ép các nhóm kia. Bởi vậy sự hiềm khích ngày càng tăng, năm bảy chục năm sau vẫn chưa xóa nhòa, dẫn đến cuộc thanh toán đẫm máu giữa du côn dọn bàn và anh chị Lăng xu bề vào năm 1920 tại Cột Cờ Thủ Ngữ (bến Bạch Đằng ngày nay), khiến gần 30 dân dọn bàn phải vào bệnh viện, nghe nói có 4 người tử vong. Chỉ vì ghét dân dọn bàn hống hách, nên đám cái bang Lăng xu bề đã đón lõng và rượt cả nhóm gồm 40 tên bồi bàn của các khách sạn Majestic, Continental vào thủy lộ (bến sông) rồi ra tay trừng trị.

    Tuy nhiên, độc đáo nhất của những cuộc đụng độ giữa các nhóm anh chị ở Sài Gòn thuở trước chính là giữa các hội múa lân với nhau. Múa lân là loại hình giải trí của người Hoa, được du nhập vào Sài Gòn theo chân các nhóm người Hoa "phản Thanh phục Minh". Lúc đầu chỉ cộng đồng người Hoa tổ chức những nhóm múa lân, gọi là Hội lân. Dần dần, người Việt bản xứ cũng hội nhập.

    Múa lân thông thường thì không có gì để nói. Ở đây, người ta đã mượn danh nghĩa Hội lân để che giấu các hoạt động khác. Điển hình là Thiên địa hội. Chính từ các Hội lân đượm màu sắc "hội kín" đã khai sinh ra các hình thức đẳng cấp trong các phường múa lân.

    Nhóm lân nổi tiếng đầu tiên của Chợ Lớn xuất phát từ Quàng Tóng Cái (Quảng Đông Nhai). Đây là một hội lân giàu có và có thế lực bậc nhất thời ấy (nửa thế kỷ XVIII). Họ có một con lân râu bạc đầu tiên gọi là Kỳ lân vương, thống trị hầu như khắp các bang hội múa lân. Cả Sài Gòn, Chợ Lớn thời ấy chỉ có hai con lân chính thức được phong Kỳ lân vương: Một của Quàng Tóng Cái, một của bang Phúc Kiến ở vùng chợ Bình Tây. Mỗi khi lân râu bạc đi tới đâu, thì hầu hết lân râu đen, râu xám đều phải tránh né, co đuôi. Ngược lại, sẽ bị xử theo luật anh chị. Đã có vô số những vụ thanh toán đẫm máu chỉ vì màu râu đầu lân.

    Về sau, các băng nhóm anh chị bản xứ cũng dùng đầu lân để diễu võ giương oai với nhau. Đã từng xảy ra những cuộc đụng độ kinh hồn ở cầu Ông Lãnh, Khánh Hội, mà vang dội nhất là trận chiến giữa đội lân Nghĩa Hòa của nhóm người Minh Hương vùng cầu Ông Lãnh, Cầu Muối. Trận chiến lân râu bạc đó xảy ra vào năm 1943, còn được gọi là cuộc tranh hùng giữa lân Sài Gòn - lân Chợ Lớn (Lân Nghĩa Hòa thuộc phe Chợ Lớn). "Chiến trường" đẫm máu chưa từng thấy: Gần ba mươi người tử vong, gấp đôi con số đó bị thương tật, cả chục tay cầm đầu bị bắt, bị kêu án rất nặng về tội cố sát và gây rối trật tự công cộng.

    Có thể nói, suốt một thời gian dài cho đến tận thập niên 60, các băng nhóm "anh chị" ở Sài Gòn vẫn còn ẩn nấp dưới chiêu bài "lân vương" để xưng hùng. Vào thời 1945-1954, nhóm Bình Xuyên của Bảy Viễn còn dùng cả súng ống để hỗ trợ cho các cuộc múa lân. Những "lân râu bạc" được bảo kê bởi các tay anh chị Bình Xuyên, khi múa ở nhà nào, thì gia chủ phải làm đúng thủ tục, phải treo thưởng đúng với đẳng cấp râu bạc. Còn bằng không, võ sĩ múa lân chẳng hiểu vô tình hay cố ý, cứ vừa múa vừa vén áo lên, để lộ vài trái lựu đạn đeo lủng lẳng!

    Tuy nhiên, có người vẫn nhận xét rằng, qua thời gian, với nhiều hình thức "anh chị" khác nhau, gây ra biết bao tội lỗi, tạo nhiều sự bất bình, oán than, nhưng nói chung, dân anh chị ở Sài Gòn vẫn còn dừng lại ở một mức độ nhất định nào đó, chưa đến độ tàn bạo và hắc ám như "anh chị" ở nhiều nơi khác.
     
  6. Nhật Thiên Thanh

    Bài viết:
    179
    4: Làng võ Sài Gòn xưa và những võ sĩ huyền thoại

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Dân Sài Gòn từ bao đời vốn trọng đạo nghĩa, sống phóng khoáng, nên rất thích nghề võ. Mà không riêng Sài Gòn, hầu như nơi nào ở vùng đất phương Nam cũng đều có những "thầy võ", những võ sĩ vô danh, chuyên "thấy chuyện bất bình chẳng tha". Vùng Thất Sơn (Bảy Núi) ở An Giang đã có bao nhiêu truyền thuyết về những tay cao thủ võ lâm, đượm màu huyền thoại, không thua gì các hảo hán Trung Hoa, song được nhắc đến nhiều, được thêu dệt và ái mộ, lại chính là các võ sĩ xuất thân hoặc "hành hiệp" tại Sài Gòn. Họ là một phần làm phong phú cho nền văn hóa, văn minh của Sài Gòn 300 năm lịch sử.

    Võ Tây Sơn

    Theo truyền thuyết, khi anh em nhà Tây Sơn nổi lên chống nhà Nguyễn, nhất là từ khi Nguyễn Lữ được phái vào Gia Định để trấn giữ vùng đất phía Nam, thì môn võ lâu đời của Tây Sơn đã được mang theo. Trong dân gian từng lưu truyền nhiều giai thoại về thú mê đá gà và các trò giải trí của vị "phó vương" Nguyễn Lữ. Những trường gà nổi tiếng được mở ra khắp vùng Gia Định, tạo nên phong trào sưu tầm và nuôi gà đá rất độc đáo ở Gia Định và các tỉnh miền Tây. Bên cạnh đó, phong trào luyện võ Bình Định cũng bắt đầu lan rộng. Dân phương Nam, từ trước đó rất mê luyện võ Thiếu Lâm (do các Hoa kiều chạy nạn Mãn Thanh mang sang), nhưng từ khi được tiếp xúc với võ Tây Sơn thì lại chuyên hướng tập luyện môn phái này. Tương truyền, đầu tiên võ Tây Sơn đã thâm nhập giới tư sĩ, nổi bật nhất là các nhà sư vùng Cần Giuộc và Chợ Quán. Những vị sư này võ nghệ rất cao cường, thường giúp dân chống lại ác thú và đánh đuổi bọn cướp.

    Theo một thống kê không chính thức, trong số các phái võ ở vùng Sài Gòn - Gia Định từ thế kỷ XVIII trở về sau, đa phần thuộc nguồn gốc Tây Sơn, số còn lại là từ Thiếu Lâm tự, hoặc sự pha trộn giữa các phái để trở thành vài phái địa phương. Sau này, giai đoạn 1930-1950, những "hảo hán" xưng hùng ở Bình Xuyên, Bà Điểm, Hóc Môn, Cần Giuộc, Cần Đước như: Ba Dương, Tám Mạnh, Cố Hoạnh, Bảy Viễn, Mười Trí.. ít nhiều thừa hưởng những chiêu thức võ công từ đất Tây Sơn, mà các võ sư gốc di dân như Ba Thi (Chợ Lớn), Sáu Lầu (Bình Khánh, Nhà Bè), Bộ Dực (Bến Tre), Bảy Khuyên (Hóc Môn), Hai Ngàn (Tân Khánh, Bà Trà), Tư Thêm (Vàm Láng) và Sáu Cường (Trà Vinh).. đã truyền cho họ.

    Sau khi Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định, hầu như những gì của Tây Sơn đều bị triệt tiêu. Nhưng có một thứ không thể mất, đó là võ Bình Định. Những phái võ có xuất xứ từ đất võ miền Trung vẫn còn tồn tại ở Gia Định và các tỉnh Nam Kỳ. Võ Duy Dương, là võ Quan triều Nguyễn, rất giỏi võ Bình Định, khi theo Nguyễn Tri Phương vào trấn giữ Sài Gòn đã từng làm cho binh sĩ dưới quyền nể mặt bởi võ nghệ tuyệt luân của ông. Khi Pháp đánh chiếm Sài Gòn, phá vỡ đồn Kỳ Hòa, Võ Duy Dương rút về cố thủ ở vùng Đồng Tháp Mười, chỉ mang 24 bộ tướng. Tương truyền, trong 24 thuộc hạ của ông võ nghệ rất cao cường. Tại cứ địa Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương và 24 thuộc hạ đã tụ tập binh mã, rèn luyện võ thuật cho họ, trở thành đội ngũ tinh nhuệ, thiện chiến, sau đó mở những trận tập kích, làm cho quân Pháp phải kiêng nể. Về sau, Võ Duy Dương (được dân địa phương gọi là Thiên Hộ Dương) chết, trong số đệ tử chân truyền của ông có một số người bí mật rút về vùng Thất Sơn (An Giang), tạo ra những huyền thoại võ lâm mới..

    Tư Mắt và nghề võ

    Trong số các nhân vật giang hồ hảo hán của Sài Gòn hồi đầu thế kỷ XX, có Tư Mắt, một nhân vật nửa tướng cướp, nửa hảo hán. Ông ta có "nghề võ" rất cao cường, khi ra "hành hiệp" thì được dân anh chị của Sài Gòn kiêng nể, tôn làm đại ca. Theo nhiều người kể lại, Tư Mắt giỏi võ Thiếu Lâm, do được một võ sư của môn phái Thái Cực Đường Lang của Thiếu Lâm tự từ Trung Hoa sang dạy cho. Nhưng một số giai thoại khác do những người từng sống chung với Tư Mắt ở chùa Giác Lâm (lúc tay anh chị này hết thời về sống nương nhờ cửa Phật tại đây) kể lại, thì võ công của Tư Mắt đích thực là võ Việt Nam có pha trộn võ Thiếu Lâm. "Anh Tư" (tên giang hồ của Tư Mắt) có vài chiêu thức cực kỳ lợi hại, trong đó, lạ lùng và nguy hiểm nhất là chiêu cầm nã thủ: Khi xuất chiêu nhanh như gió, chỉ thoáng một cái, cả năm ngón tay đã chộp vào cổ họng của địch thủ, hạ gục trong nháy mắt!

    Tư Mắt đã làm trùm anh chị ở Sài Gòn và cả các tỉnh Nam Kỳ một thời gian dài, từng đụng với các võ sĩ người Pháp. Chúng xem thường người An Nam, chẳng coi Tư Mắt ra gì. Có một giai thoại kể lại rằng, vào năm 1912, tên Aman, một võ sĩ quyền Anh hạng lông rất nổi tiếng, nhân theo tàu buôn Pháp ghé bến Sài Gòn, lên bờ và mở võ đài ở câu lạc bộ hàng hải Pháp, thách các võ sĩ bản xứ đấu với anh ta. Aman lớn lối tuyên bố là chấp mỗi đêm 10 võ sĩ bất kể hạng cân, của Sài Gòn lên võ đài. Ngay đêm đầu, chỉ cần một mình Tư Mắt với một đòn duy nhất, tên võ sĩ kiêu căng nọ đã bị nốc ao.

    Huyền thoại Sáu Cường

    Vào những năm trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, ở Sài Gòn và vùng Nam Kỳ lục tỉnh, nổi lên Sáu Cường, là võ sĩ vô địch. Ông người Trà Vinh, học võ với "một ai đó" không tên tuổi. Lúc ra "giang hồ", Sáu Cường tròn 20 tuổi. Bấy giờ ở Sài Gòn và vùng lục tỉnh đã nổi lên phong trào "nghề võ" rất ồn ào. Hầu hết các cao thủ đều là người Pháp, Miên (Campuchia), Lào, Thái Lan. Họ thích làm mưa, làm gió trên các võ đài, khiến cho phần đông người bản xứ tức giận và cứ mong "ai đó" ra tay! Mà "người nào đó" không ai khác ngoài Sáu Cường. Ông xuất hiện đầu tiên ở một trận đấu tại thành phố Cần Thơ, do viên chủ tịch tỉnh lúc đó tổ chức cho võ sĩ Pháp gốc Ấn Độ (có bản lĩnh võ thuật rất lạ, phối hợp giữa quyền Anh và võ Ấn). Anh chàng võ sĩ này đã từng đấu 10 trận ở khu vực Đông Nam Á, thắng cả 10. Nhưng khi Sáu Cường thượng đài, thì đó là trận đầu tiên anh chàng võ sĩ gốc Ấn này bị nằm dài, ngay trong hiệp 2, bởi cú đá song phi của Sáu Cường.

    Sau trận đó ba tháng, Sáu Cường lại được dịp thượng đài ở Sài Gòn, với một võ sĩ Xiêm (Thái Lan) tên là Anthuong Chay. Đây là một võ sĩ từng thi đấu nhiều nước ở châu Âu, thắng đến 30 trận, chưa biết nếm mùi thất bại. Anh ta đánh một thứ võ gọi là Muong Thai, vừa đánh bằng tay, vừa sử dụng chân đá, rất lợi hại. Kết quả: Sáu Cường lại thắng! Có thể nói, vào thời điểm đó, Sáu Cường đã trở thành một huyền thoại của làng võ Việt Nam. Hầu hết các độ võ đài ở Sài Gòn hoặc vùng Nam kỳ lục tỉnh, Sáu Cường chưa hề nếm mùi thất bại.

    Từ Kid Dempsey đến Minh Cảnh

    Trong những "huyền thoại" cận đại, phải kể đến võ sĩ Kid Dempsey và Minh Cảnh. Những người này đã làm rạng danh làng võ Việt Nam từ những năm trước và sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Kid Dempsey thật sự là một người Việt Nam. Tên thật là Văn Phát (Nguyễn văn Phát), sinh năm 1914, do ái mộ võ sĩ vô địch hạng nặng của Mỹ là Jack Dempsey, nên đã tự đặt cho mình cái tên Kid Dempsey. Phải nói rằng, đây là một võ sĩ Việt Nam đầu tiên từng làm mưa làm gió trên võ đài trong nước và ngoài nước. Sau khi thắng trận đầu tiên vào năm 1939, đoạt chức vô địch Đông Dương, Kid Dempsey được mời sang Pháp thi đấu. Từ đó đến năm 1958, ông lưu trú luôn tại đất Pháp, hành nghề võ sĩ ở đó, với những trận thắng vang dội các võ sĩ người Pháp tại những thành phố lớn như Paris, Marseille.. rồi lấy vợ Pháp, sinh con. Năm 1958, Kid Dempsey trở lại Sài Gòn, tiếp tục thượng đài và hầu như không có đối thủ. Ông thắng hầu hết gần trăm trận đấu khắp miền Nam và cả các nước Đông Dương. Đến năm 1983, ông qua đời tại quê hương, đất Sài Gòn, trong lúc nếu muốn, ông có thể được các con của ông hiện sống ở Pháp bảo lãnh.

    Sau Kid Dempsey một thời gian, năm 1944, tại Sài Gòn đã nổi lên một tài năng khác của làng võ. Đó là Minh Cảnh, một huyền thoại mới về quyền Anh. Năm đó, Minh Cảnh đoạt chức vô địch quyền Anh Đông Dương, được tổ chức tại Hà Nội. Ông vốn là đệ tử của võ sư Muôn, nhà vô địch quyền Anh Việt Nam vào thời 1938-1940, lại được các võ sư tiền bối như Sáu Cường, Thái Ngọc Kỳ (Rạch Giá) truyền dạy thêm những tuyệt kỹ, nên ở Minh Cảnh có được tinh hoa của môn quyền Anh mang đặc tính phù hợp với thể chất người châu Á, với căn bản kỹ thuật hoàn chỉnh, cộng thêm sự gan lì hiếm thấy ở một võ sĩ. Minh Cảnh đã gây được tiếng vang lớn trên võ đài toàn cõi Đông Dương. Nhiều võ sĩ châu Âu đã bị Minh Cảnh hạ đo ván ngay tại Sài Gòn, sau đó đã phải "tâm phục khẩu phục", công nhận tài nghệ thật sự của người võ sĩ có thể hình nhỏ nhắn, nhưng cực kỳ nhanh nhẹn và dũng mãnh. Hiện nay, ông Minh Cảnh đã lớn tuổi, vẫn sống đạm bạc ở thành phố Hồ Chí Minh.

    Võ Thiếu Lâm tại Sài Gòn

    Nói đến võ thuật của Sài Gòn mà không đề cập đến võ Thiếu Lâm là một thiếu sót. Bởi vì, như đã nói ở phần đầu, làng võ Sài Gòn đã tích lũy cái vốn rất quý của hai nguồn cội võ thuật, đó là võ dân tộc (võ Bình Định là chính) và võ Thiếu Lâm. Chính các lưu dân gốc Trung Hoa, khi chạy nạn Mãn Thanh, đã đem sang Việt Nam các tinh hoa của võ thuật xứ họ, mà Thiếu Lâm công phu là cái gốc.

    Võ Thiếu Lâm chia ra làm nhiều hệ phái ngay tại nguồn gốc của nó và khi truyền sang Việt Nam cũng giữ nguyên như vậy. Vùng Sài Gòn - Chợ Lớn là nơi tiếp nhận và sau đó phổ biến các nơi. Có thể kể ra những phái chính của võ Thiếu Lâm được truyền dạy ở Chợ Lớn ngay từ những năm của thế kỷ XVIII: Thái Cực Đường Lang, Thiếu Lâm Hồng gia, Thiếu Lâm Châu gia, Thái Lý Phật, Nga Mi, Võ Đang.

    Đã có những tên tuổi cũng đáng gọi là "huyền thoại" trong làng võ Thiếu Lâm ở Chợ Lớn, như Triệu Trúc Khê, Tạ Xy Vinh, Tạ Nam, Trần Nhất Minh, Đặng văn Thành, Tăng Huê, Triệu Di Văn, Huỳnh Thuận Quý (đệ tử đời thứ ba của tổ sư Thiếu Lâm Hồng gia Hồng Hy Quang).. Những tên tuổi trên đã làm rạng danh sư tổ của họ như Trương Tam Phong, Hồng Hy Quang, Lý Bá Sơn, Ngũ Mai sư thái, Phùng Đạo Đức, Miêu Hiển, hòa thượng Chí Thiện, Tân Uyên trưởng lão, Châu gia Ngũ hổ..

    Cái hay của võ sĩ Việt Nam là tuy tiếp thu cả nền võ học của nước ngoài như Thiếu Lâm, nhưng đã khéo léo cải biên, chắt lọc tinh hoa, để có riêng một vài trường phái mang đậm sắc dân tộc, gọi chung là võ Việt Nam. Người ta gọi Sài Gòn là cái nôi của làng võ, bởi sự tiếp thu rộng rãi và biết chắt lọc, phát huy như thế. Những huyền thoại của làng võ Sài Gòn sẽ còn tiếp nối những tên tuổi khác đang theo dòng lịch sử..
     
  7. Nhật Thiên Thanh

    Bài viết:
    179
    5: Thiên Địa hội tại Sài Gòn

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ngày trước, ở Việt Nam, và nói riêng ở Sài Gòn, Nam Kỳ, đã có những nhóm hoạt động bí mật chống thực dân Pháp, thường gọi là hội kín. Một trong những hội kín đó là Thiên Địa hội. Nhưng, Thiên Địa hội thực chất là hội của những người Trung Hoa. Vậy, tại sao được nhiều người Việt Nam ủng hộ trong đó có người Sài Gòn?

    Nguồn gốc Thiên Địa hội

    Khi người Mãn Châu tràn vào Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XVII, dựng lên các triều đại Mãn Thanh, thì những người Hán đã bắt đầu một cuộc trường kỳ phản kháng. Họ lần lượt lập nên những tổ chức, những nhóm bí mật dưới danh nghĩa "Phù Minh diệt Thanh". Trong số này có Thiên Địa hội. Đặc biệt là từ triều đại Hàm Phong (vua Hàm Phong là chồng của Tây thái hậu Từ Hi), khi phong trào chống đối chế độ hà khắc của nhà Thanh lên cao, thì các "hội kín" lại càng hoạt động mạnh. Việc Hồng Tú Toàn tự xưng đế, lập nên "Thái Bình thiên quốc", đã là ngọn lửa bùng lên, lan rộng khắp nơi của các tổ chức đối lập.

    Thiên Địa hội không chỉ bó gọn trong phạm vi lục địa Trung Quốc, mà còn lan ra khắp nơi có người Hoa định cư ở nước ngoài. Vào năm 1680, một bộ phận gồm khoảng 3.000 người Hán rời bỏ đất mẹ, vì sự đàn áp, truy đuổi của triều đình Mãn, đã dong buồm chạy thẳng qua Việt Nam. Toán người Hoa này đặt dưới sự lãnh đạo của Dương Ngạn Địch, Huỳnh Tấn, Trần Thắng Tài và Trần An Bình.

    Khi đến Việt Nam, họ đã khôn khéo dùng quà cáp, vàng bạc đút lót cho nhà Nguyễn (lúc đó là Hiền Vương), nên đã được Hiền Vương thu nạp, cho tá túc. Bởi thời ấy Trịnh - Nguyễn đang phân tranh nên Hiền Vương sợ nếu để nhóm con cháu Hán này ở kinh đô, họ sẽ có cơ hội móc nối với chúa Trịnh, bèn đẩy toàn bộ họ vào vùng đất mới ở Đàng Trong, chỉ định cho cư trú ở vùng đất Gia Định và Định Tường (Mỹ Tho).

    Dương Ngạn Địch, gốc người Phúc Kiến, chiếm đất Mỹ Tho. Còn Trần Thắng Tài, Huỳnh Tấn, Trần An Bình thì trụ ở Cù lao Phố (Biên Hòa, Đồng Nai thời ấy đều thuộc về trấn Gia Định). Nhóm này gốc người Triều Châu.

    Thiên Địa hội chia làm hai phái, tuy cùng mục đích "Phù Minh diệt Thanh", nhưng phương thức hành động khác nhau. Nhóm Phúc Kiến dưới danh nghĩa "Nghĩa Hùng đoàn", tục gọi là nhóm Kèo xanh, còn nhóm Triều Châu thì danh xưng "Nghĩa Hòa đoàn" (Kèo vàng).

    Thiên Địa hội âm thầm phát triển ở Việt Nam từ đó. Đối với nhóm người Hoa lưu vong, thì sự tồn tại của Thiên Địa hội là hình thức cảnh giác, để đề phòng sự truy đuổi của nhà Thanh, đồng thời nhen nhóm hy vọng giấc mơ phản Thanh phục Minh của toàn thể người Hán. Còn người Việt bản xứ tại sao lại thừa nhận và đồng hóa nó như một tổ chức của chính mình?

    Thiên Địa hội ở Nam Kỳ

    Đầu tiên, Thiên Địa hội phát triển ở Cù lao Phố và Mỹ Tho, sau đó lớn mạnh ở Chợ Lớn (Đề Ngạn - Thầy Ngoòn) và dần dần lan ra khắp Nam Kỳ lục tỉnh, nơi có những người Hoa len lỏi đến sinh sống cùng người bản xứ.

    Ở các vùng đất mới khai hoang, nạn cường hào ác bá nhũng nhiễu dân lành là tiền đề cho sự du nhập Thiên Địa hội vào cộng đồng người địa phương. Phần đông họ đều hiểu biết một cách lờ mờ về nguồn gốc của tổ chức bí mật này, chỉ biết rằng, đó là một hội kín của những người cô thế, nên cứ lấy đó làm chỗ dựa tinh thần để chống lại sự áp bức, bóc lột của quan lại địa phương và xa hơn là phản kháng chế độ phong kiến. Các bần nông, lao động nghèo ở các vùng xa xôi Nam Bộ, qua tác động của Thiên Địa hội đã làm nên những cuộc nổi dậy chống cường quyền, mà hậu quả thảm khốc là những cuộc tàn sát đẫm máu ở Đồng Nọc Nạn và một số nơi..

    Đến khi có Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời, các cuộc đấu tranh mới có tổ chức, có mục tiêu cụ thể, có sách lược thì ảnh hưởng của Thiên Địa hội mới thu hẹp lại.

    Thiên Địa hội ở Sài Gòn

    Đại đa số dân di trú người Hoa đều sống ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Thiên Địa hội dù là Kèo xanh hay Kèo vàng đều chung sống ở đây. Đặc biệt là sau cuộc huynh đệ tương tàn giữa hai nhóm Minh Hương Cù lao phố và Mỹ Tho vào năm 1688. Cũng như sau lần bị Ngải Vương nhà Nguyễn tàn sát, giết thủ lĩnh phe Kèo vàng Huỳnh Tấn, rồi đến lần quân của Nguyễn Nhạc (nhà Tây Sơn) kéo vào trừng trị, giết Dương Ngạn Địch (phe Kèo xanh), thì hầu như Thiên Địa hội của người Minh Hương chỉ còn lại một phái.

    Tuy nhiên, cả hai phái Thiên Địa hội đều tồn tại trong các phe nhóm "giang hồ" người bản xứ. Các nhóm này đều tự xưng, lấy các hoạt động hảo hán cá nhân làm phương châm. Nhất là vào thời điểm những năm đầu thế kỷ XX, tại Sải Gòn nổi lên Nguyễn văn Trước tự Tư Mắt và Phan Phát Sanh tự Phan Xích Long, thì Thiên Địa hội mới "dậy" lên rùm beng. Tư Mắt là tay anh chị, lấy kế sinh nhai, nhưng để dễ bề chiêu dụ hảo hán, anh ta tự xưng là Thống lãnh binh Thiên Địa hội, lãnh đạo một nhóm đàn em.

    Sau Tư Mắt là Phan Xích Long, người này có ý chí lớn, không chủ trương cướp bóc, chỉ phản kháng sự áp bức, cường quyền và cũng xưng là Thống lĩnh Thiên Địa hội.

    Dân theo Phan Xích Long gồm các thành phần lao động nghèo ở vùng Chợ Lớn, cũng như một số đông dân miệt Cần Đước, Cần Giuộc (thuộc địa phận của tỉnh Gia Định bao gồm Sài Gòn - Chợ Lớn - giáp ranh Tân An). Họ nhất mực cho rằng Thiên Địa hội do Phan Xích Long lập nên. Có thể nói, Thiên Địa hội của Phan Xích Long được tổ chức quy mô nhất. Do vậy, khi Phan Xích Long bị nhốt ở khám lớn Sài Gòn, các toán "chi nhánh" của Thiên Địa hội vùng Cần Giuộc, Cần Đước, Chợ Lớn đã nhất tề vũ trang giáo mác, dao găm, gậy gộc và.. bùa ngải, cùng kéo về đánh khám đường, giải thoát cho đại ca. Mưu sự tuy bất thành, nhưng tiếng vang của Thiên Địa hội làm chính quyền thuộc địa lúc đó phải ăn không ngon, ngủ không yên.

    Tiếp nối Tư Mắt, Phan Xích Long, các nhóm "giang hồ" khác quanh vùng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đều nhất loạt "hành hiệp" dưới danh nghĩa Thiên Địa hội. Thậm chí còn có nhóm chuyên đi đánh cướp cũng vỗ ngực xưng danh với gia chủ: "Tụi tao là Kèo vàng Thiên Địa hội đây!". Người dân lành chỉ nhìn thấy mặt rằng mày ri của các "hảo hán" đã hồn vía lên mây, còn đâu dám hỏi Kèo vàng, Kèo xanh là gì?

    Thực tế, đâu có mấy người biết rõ thế nào là Kèo xanh, Kèo vàng? Tại Sài Gòn, có lần tay trùm mật thám Pháp Sanvani đã được một Kèo vàng phản bội khai báo: "Thiên Địa hội hoạt động bí mật, nên mọi hành tung đều lấy ám hiệu, ám ngữ để liên lạc nhau. Khi hai người hội viên gặp nhau ngoài đường, muốn xác minh xem có phải phe ta hay không, một người liền bật ba que diêm. Nếu người kia nhận là chiến hữu, thì lập tức cũng làm đúng như vậy. Sau màn dạo đầu đó, họ sẽ thực hiện tiếp để nhận hệ phái của nhau. Đi đâu họ cũng mang theo một cây dù (ô) đen và luôn xếp gọn, chỉ khi nào cần làm ám hiệu, họ mới giương dù lên. Lúc ấy, đối tượng sẽ nhận ra cán dù, kèo dù màu gì, xanh hay vàng.

    Một chi tiết quan trọng nữa, khi nhìn thấy" phe ta "xách dù đúng theo quy định, người muốn liên lạc cần phải nhanh mắt quan sát xem cán dù móc trên cánh tay, đầu móc quay vô trong hay quay ra? Nếu quay vô thì báo hiệu đang có người theo dõi, đừng tiếp xúc, cảnh giác!

    Khi bước vô nhà, nếu khách dựng dù để cán xuống dưới, là dấu hiệu sẽ ở lại lâu, còn cán quay ngược lên thì báo rằng có việc khẩn cấp cần đi ngay (nếu đội nón cũng theo phương thức úp ngửa).

    Đó là những ám hiệu dành cho liên lạc trên bộ, còn đi ghe thì có cách khác. Nếu nhìn thấy ghe nào ở đầu bánh lái có một cái nón lá úp lên thì đó là hội viên Thiên Địa hội. Về sau, những ám hiệu đó bị lộ, các hội viên đổi sang cách khác tinh vi hơn. Trong đó có cách đọc vài câu thơ. Nếu là chiến hữu thì phải đọc thơ đáp lại. Những câu thơ này đã được phổ biến và quy ước trước. Tùy trường hợp mà áp dụng từng loại thơ khác nhau. Do đó, mỗi khi trong đêm thanh vắng, hay trên một đoạn sông hiu quạnh, bỗng có người cất tiếng hát, ngâm thơ, thì có thể đó là ám hiệu liên lạc của Thiên Địa hội.

    Người dân Sài Gòn hay Nam Bộ nói chung, tuy đôi lúc kinh sợ và oán thán một số hành động cướp bóc của một số tay cướp cạn xưng Thiên Địa hội, song trong thâm tâm họ ngầm thán phục những người đứng lên phản kháng cường quyền như Tư Mắt, Phan Xích Long. Còn như hành động cướp cạn của bọn Bối Ba Cụm ở Tân Kiên, Tân Bửu (Bình Chánh - Gia Định) thì làm sao thiên hạ tin là Kèo xanh, Kèo vàngl Ai ở Sài Gòn, miền Nam đều biết Bôi Ba Cụm. Bôi chỉ là một bọn cướp đường sông, ở vùng Ba Cụm. Chúng bơi rất giỏi, luôn mai phục dưới nước, chờ các ghe thương hồ đi qua, chúng trồi lên, bất ngờ trèo lên ghe xuồng, bê đi bất cứ món gì chúng muốn, ngay cả nồi cơm đang nấu sôi. Tài bơi lặn của chúng xứng đáng là hậu duệ của anh em nhà họ Nguyễn trong truyện Thủy Hử. Nhiều ghe chủ đi qua Ba Cụm đã cảnh giác tối đa, cắt người canh giữ chặt chẽ, vậy mà thoắt cái, các bôi đã xuất hiện, lấy cắp và chuồn đi nhanh như bóng ma.

    Bối Ba Cụm có thời cũng tự nhận mình là Kèo xanh của Thiên Địa hội.

    Cuộc cách mạng mùa thu 1945 là làn gió mới thổi tới, xóa tan các áng mây mù, trong đó có màn mây bấy lâu che phủ Thiên Địa hội. Mọi người từng ủng hộ Thiên Địa hội hiểu rằng từ lâu do ngộ nhận mà ủng hộ Thiên Địa hội. Nay đã có tổ chức cách mạng có lý tưởng cao đẹp và chính nghĩa, nên họ đồng lòng ủng hộ. Đó là lý do vì sao trong cuộc Nam Bộ kháng chiến, trong hàng ngũ nhân dân yêu nước, lại có rất nhiều" cựu hội viên Thiên Địa hội"cùng tham gia.
     
  8. Nhật Thiên Thanh

    Bài viết:
    179
    6: Chuyện cậu Hai Miêng nhà tỷ phú "Lương Sơn Bạc"

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Sơ lược lai lịch Huỳnh Công Miêng

    Như đã nhắc đến trong bài Sài Gòn "tam ác", Huỳnh Công Miêng là con trai trưởng của tay Việt gian Huỳnh Công Tấn (người đã phản bội, đem bán đứng vị anh hùng yêu nước Trương Định cho Pháp). Đúng ra, Hai Miêng tên là Huỳnh Công Minh, song có lẽ do húy kỵ ai đó, nên anh ta mới mang tên Miêng (đồng nghĩa, khác âm). Sinh tại Sài Gòn nhưng hầu như gần suốt thời thơ ấu, Miêng sinh sống tại Pháp (vì người Pháp nhớ công lao của Huỳnh Công Tấn nên ban đặc ân cho Tấn được gửi con sang "mẫu quốc" học hành, phía Pháp đài thọ mọi chi phí).

    Sau khi đỗ tú tài toàn phần ở Paris, Miêng vào học luật ở một trường danh tiếng. Có lẽ mộng của Huỳnh Công Tấn là con mình sẽ chen chân vào chốn quan trường nhiều quyền uy và lợi lộc vào thời ấy. Nhưng mưu tính là một chuyện, còn thực tế là chuyện khác. Hai Miêng chỉ học luật được có một năm, rồi lao vào một cuộc phiêu lưu ở Paris. Hai Miêng không giống như các vương tôn công tử khác, không trác táng chơi bời trong các sàn nhảy, nhà chứa hay sòng bạc, mà lại thích giao du kết bạn với các tay hảo hán của kinh đô ánh sáng. Mont Martre, Saint Germain des Prés là những nơi qui tụ đủ các thành phần dân tứ xứ của thủ đô Paris. Tại đó, Hai Miêng được dịp kết thân với những "tay chơi" có cỡ, gốc người đảo Corse (vốn là những người có máu hảo hán, có máu băng đảng giống như dân Sicile ở Ý). Chính thời gian này đã đào luyện Hai Miêng trở thành một thứ "dân chơi" độc đáo. Những người sống cùng thời với Hai Miêng ở Paris về sau đó có dịp kể lại hành tung của chàng công tử này đã nhấn mạnh: Vốn có máu ngang tàng phóng túng rất Nam Bộ, Hai Miêng hội nhập rất nhanh với các yêng hùng đảo Corse. Họ chuyên đứng làm "bảo kê" cho các sòng bạc, đường dây mại dâm sang trọng. Hai Miêng tuy nhỏ tuổi, lại là dân "An Nam", nhưng đã sớm chứng tỏ cho các hảo hán của "mẫu quốc" biết tài nghệ, bản lĩnh của mình, khi cậu ta đóng vai trò quân sư rất có hiệu quả trong nhiều vụ việc. Được nể trọng và bắt đầu nổi tiếng thì cũng là lúc Hai Miêng được lệnh ông bố ở Sài Gòn cho người sang tận Paris bắt đem về xứ (có người mật báo cho ông ta về cuộc chơi nguy hiểm của con trai mà ông ta đặt nhiều hy vọng). Thấy trước một nguy cơ, Huỳnh Công Tấn bằng mọi giá phải kéo Miêng rời khỏi Paris lập tức.

    Bị cắt ngang cuộc phiêu lưu đầy hứng thú, Hai Miêng đành bóp bụng trở về quê nhà. Cha cậu biết rõ tính con mình: Nếu không tìm công việc gì cách ly Miêng với đường dây ở Paris, thì thế nào cậu quý tử cũng móc nối trở lại rồi sinh hư. Vì thế, ông ta mới gửi gắm một viên chức cao cấp người Pháp, nhờ ông này bố trí để Hai Miêng tham gia bộ máy Nhà nước. Miêng được sung vào đội quân "bình định" của Đốc phủ Trần Bá Lộc, lúc đó đang mở chiến dịch tấn công phong trào Văn Thân ở vùng Thuận Khánh (Bình Thuận, Khánh Hòa). Sự việc này cũng chứng tỏ tâm địa Việt gian của Huỳnh Công Tấn: Muốn con trai mình đi vào con đường xấu xa của ông ta.

    Song, chẳng hiểu do động cơ nào thúc đẩy, chỉ phục vụ Trần Bá Lộc được một thời gian ngắn, Hai Miêng bỗng dưng bỏ ngang, trở lại Sài Gòn. Từ đó anh ta chẳng màng đến danh lợi. Không thèm bất cứ công việc nào trong ngạch công chức (mà nếu muốn, thì Miêng sẽ được những chức vụ mà bao kẻ khác mơ cũng không thấy), chỉ chuyên tâm vào việc kết bè đảng, rong chơi. Chẳng mấy chốc, cái danh "Cậu Hai Miêng" đã lan rộng khắp Sài Gòn, Gia Định rồi lan ra đến tận các tỉnh Nam Kỳ.

    Lưu Linh miễn tử

    Người Sài Gòn thời đó không ai còn xa lạ với biệt danh Lưu Linh miễn tử thiên hạ đặt cho Hai Miêng.

    Thật ra, danh xưng này nổi lên sau khi Hai Miêng bắt đầu hành hiệp một thời gian, đã đặt dấu chân hảo hán khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Hai Miêng hành động bất chấp luật lệ, muốn làm gì làm nấy, chẳng quan chức nào dám bắt tội anh ta cả. Biệt danh Lưu Linh miễn tử thiên hạ đặt cho Hai Miêng, ngầm ý nói rằng anh ta là đứa con ngang tàng, chẳng ai làm gì Bộ ưa chuộng, tán dương. Do vậy, dù biết Hai Miêng là con trai của tên Việt gian Huỳnh Công Tấn, nhưng trước các hành động tự phát, ngang tàng, bất chấp luật lệ của Nhà nước bảo hộ, người ta lại quay sang ủng hộ Hai Miêng hơn là ghét bỏ anh ta.

    Lúc đầu, khi thấy con trai mình đi theo con đường phóng túng, Huỳnh Công Tấn rất bực tức và tìm đủ mọi cách ngăn chặn. Song, chỉ ít lâu sau, ông ta nhận ra một điều: Để Hai Miêng tự do hành động như thế, âu cũng là cách tốt nhất mong dân Nam Kỳ quên đi cái tội ác tày trời mà ông ta đã gây ra cho nhà yêu nước Trương Định. Có lẽ, nhờ vậy mà Hai Miêng như được.. chắp cánh bay cao hơn. Anh ta làm một cuộc phiêu lưu vô tiền khoáng hậu trong lịch sử mở mang đất phương Nam này. Đến nỗi vào thời đó, hễ nhắc đến tên cậu Hai Miêng là người dân đều dành cho một thiện cảm hay chí ít cũng một nụ cười khoái trá..

    Vụ điển hình đầu tiên theo kiểu "cậu Hai Miêng" xảy ra ở Gò Công. Quê của Hai Miêng ở Gò Công. Bố anh theo Trương Định cũng ở đất này và sau đó bắn gãy sống lưng nhà yêu nước cũng ở vùng ấy. Người dân Gò Công căm hận, khinh khi tên đại Việt gian. Huỳnh Công Tấn cũng hiểu thế, nên hầu như ông ta không trở về quê quán kể từ khi được phong chức lãnh binh. Vậy mà, khi bắt đầu cuộc phiêu lưu hành hiệp, Hai Miêng lại chọn ngay tỉnh nhà làm trạm đầu tiên.

    Hôm đó, toàn khu vực chợ Gò Công đều nghe tin cậu Hai Miêng mời tiệc tất cả những ai muốn làm bạn với cậu Hai, tại một tửu lầu thuộc loại lớn nhất tỉnh. Danh tiếng của Hai Miêng đã lan xa nên ai nấy đều háo hức muốn gặp mặt lại có dịp dự yến cùng cậu nữa thì còn gì bằng). Họ kéo tới tửu quán có dư trăm người. Hôm ấy, coi như Hai Miêng bao đứt hiệu cao lâu này. Đích thân anh ta mời rượu mọi người, quen hay không chẳng cần biết, cứ cụng ly với cậu Hai thoải mái. Chưa bao giờ có một tiệc rượu tưng bừng hào hứng đến cỡ đó. Thậm chí, đến cả dân đá cá lăn dưa, ăn mày cái bang, đầu trộm đuôi cướp, làm thuê làm mướn, cũng có mặt ở đây để chè chén no say.

    Tiệc tàn, thực khách giải tán, Hai Miêng đứng dậy về công xá của tỉnh để nghỉ ngơi. Còn tiền bạc, đáng lý phải thanh toán cho chủ quán thì Hai Miêng, trước khi rời quán, phán gọn một câu: "Quan chủ tỉnh trả!". Trong bữa tiệc đó có cả viên phụ tá của Tỉnh trưởng. Anh ta lặng câm, để rồi sau đó về trình lại với chủ. Viên Tỉnh trưởng người Pháp ức trong lòng lắm, nhưng cũng đành ngậm đắng nuốt cay ra lệnh cho thuộc hạ đem số tiền cả ngàn đồng trả cho chủ cao lâu (thời giá một lạng vàng chỉ chưa tới mười đồng). Sở dĩ viên chủ tỉnh người Pháp phải chịu lép vế bởi vì trước đó, ông ta đã được mật lệnh phải dành mọi ưu đãi cho thân nhân Huỳnh Công Tấn, coi như một cách để người Pháp đền đáp công lao khuyển mã của Tấn. Đây là chiêu bài dụ dỗ của Pháp với những ai mềm lòng trước bả hư danh!

    Vụ điển hình thứ hai diễn ra ở tỉnh Long Xuyên. Một hôm, Hai Miêng cùng đoàn tùy tùng trên trăm người, đi trên tám chiếc ghe bầu, từ Mỹ Tho xuống chợ Long Xuyên. Tin truyền miệng về sự có mặt của Hai Miêng lan rất nhanh, chỉ một giờ sau khi ghe của cậu Hai cập bến là thiên hạ đã tụ tập đen kín, từ bến sông đến bến chợ. Hai Miêng được đàn em công kênh lên giữa đám đông, anh ta chào đón bà con theo kiểu võ sĩ trên võ đài, rồi tuyên bố thật to: "Hôm nay tôi sẽ phát phiếu chẩn bần cho bà con nghèo. Ai cần thì cứ gặp người của tôi để lấy phiếu, sau đó cứ tới ngân khố tỉnh mà lãnh tiền. Mỗi người được 5 đồng!"

    Chỉ sau nửa giờ, số phiếu phát ra đã lên đến số ngàn. Sau đó, chính Hai Miêng dõng dạc báo tin: "Bà con cứ đi theo tôi đến ngân khố lãnh tiền". Anh ta đi đầu, kế đến là đám đàn em, sau cùng là cả ngàn rưỡi người dân đi theo. Họ kéo đến ngân khố ngay trong giờ làm việc. Hai Miêng vào trước, đi thẳng đến quầy phát tiền, nói như ra lệnh: "Cho gặp Trưởng ty ngân khố. Nói có cậu Hai Miêng xuống đây thăm".

    Chỉ vắn tắt có thế, vậy mà một phút sau, đã thấy một viên chức người Pháp đích thân ra đón khách. Nhác thấy số người đông đảo đứng vây kín phía trước cùng với đám bộ hạ mặt rằn ri của Hai Miêng, viên Trưởng ty ngân khố biết có chuyện chẳng lành. Ông ta chưa kịp hỏi thì Hai Miêng đã lên tiếng trước: "Hôm nay Miêng mỗ có việc qua đây. Nhân ngày trước có nợ với số bà con này một ít tiền, nay phải trả, mà lại không có sẵn tiền. Vậy phiền ngài Trưởng ty lệnh cho xuất quỹ trả giúp, theo phiếu có chữ ký của tôi. Xin cảm ơn ngài rất nhiều". Nói xong, Hai Miêng bắt tay rồi lui ra, mất dạng. Viên Trưởng ty ngân khố tái mặt khi nhẩm tính số tiền phải chi ra, không khéo hết cả tiền quỹ! Mà không trả theo yêu cầu thì liệu với cả ngàn người khố rách áo ôm như thế, chuyện gì sẽ xảy ra? Cuối cùng, ngót 5.000 đồng được chi ra..

    Củng nhờ hành động nghĩa hiệp đó nên suốt những ngày Hai Miêng lưu lại Long Xuyên, anh ta được đối xử như một anh hùng! Dân hảo hán địa phương tới "đầu quân" vô số kể, đến nỗi Hai Miêng phải "tách bến" sớm hơn dự định. Anh ta ghé Cần Thơ, rồi Bạc Liêu.. Ở mỗi nơi, lại những trò tương tự diễn ra, tuy mức độ có nhỏ hơn, nhưng nói chung vẫn là cách chơi theo kiểu.. cậu Hai Miêng!

    Ngoài những hành động trên, Hai Miêng cùng đồng bọn còn có các hành tung chẳng khác các yêng hùng trên đảo Corse, Sicile (chỉ có điều là mức độ ngang tàng thấp hơn, nặng tính "chơi cho đời biết mặt", lấy tiếng là chính). Hai Miêng thường tuyên bố mình là Tống Giang của Lương Sơn Bạc, lấy tiền kẻ giàu chia cho người nghèo! Tuy phương châm hành động qua tuyên bố miệng thì ngon lành như thế, song chưa thấy lần nào Hai Miêng lấy chính tiền của cha mình chia cho dân nghèo. Huỳnh Công Tấn chắc cùng lờ đi mọi hành động của con khi thấy anh ta chỉ moi tiền của kẻ khác để làm nghĩa hiệp, còn tài sản riêng của lão thì bất khả xâm phạm!

    Người Pháp rất ngán ngại những hành động của Hai Miêng, nhưng vì đã trót có chủ trương biệt đãi từ đầu, nên họ đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Tuy nhiên, về sau họ có ngầm hạn chế, chỉ chấp nhận chi trả cho cậu Hai những số tiền vừa phải. Thí dụ, khi đến bất cứ đâu, nếu Hai Miêng cần tiền chi xài việc gì đó, thì cậu cứ tới ngân khố "vay" (dù không cần trả) một số đủ để ăn chơi trong các chuyến "lưu du". Mà chừng như Hai Miêng cũng hiểu và biết tự kiềm chế, nên sau hai vụ lớn ở Gò Công cùng Long Xuyên kể trên, cậu Hai chỉ dừng lại ở mức vừa đủ để thiên hạ nể mặt!

    Sau này, lúc Hai Miêng qua đời (không thọ lắm, chỉ ở độ tuổi trên dưới 50, có lẽ do ăn chơi trác táng quá nhiều), anh ta đã được thiên hạ lưu danh bằng loạt bài vè (Vè cậu Hai Miêng ) và được giới bình dân thuộc lòng, truyền miệng. Ở hầu hết bên xe, bến tàu, Vè cậu Hai Miêng được đọc, được hát bởi các tay bán thuốc dạo, dân cái bang, hay các tay du ca dân gian.. Có những cụ già vừa ngồi gảy đàn độc huyền (đàn bầu) vừa hát vè Hai Miêng, rất được ưa thích..
     
  9. Nhật Thiên Thanh

    Bài viết:
    179
    7: Bình Xuyên từ huyền thoại đến thực tế

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Ai từng sống ở Sài Gòn từ năm 1975 trở về trước, đặc biệt là giai đoạn 1945-1954, đều nghe và biết về Bình Xuyên, một tổ chức tự phát, quy tụ mọi thành phần có tiếng là "đầu trộm đuôi cướp", nhưng vẫn thường tự xưng là "hảo hán". Họ có những hành tung đượm tính chất Lương Sơn Bạc, lại vừa nặng mùi sắt máu của bọn mafia.. Có một thời, hai chữ Bình Xuyên đã làm cho người dân Sài Gòn ăn không ngon, ngủ không yên..

    Bình Xuyên là gì?

    Sài Gòn từ năm 1950 trở về trước còn là một thành phố mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Nhà ít, dân thưa, đường sá còn hoang vắng, thô sơ, việc giao thông của vùng ngoại thành chủ yếu dựa vào sông rạch, ghe xuồng. Ở phía Tây Nam của thành phố, tức phần đất bên kia Tân Thuận, ngày nay gọi là Nhà Bè, thời trước 1945 còn mang cái tên chung là Bình Xuyên. Làng Bình Xuyên chạy dọc từ cầu Tân Thuận, qua cầu chữ Y, vào tận cầu Mới (cầu Nhị Thiên Đường), vốn là vùng đất hoang sơ, chưa có đường nhựa. Hai con đường Trần Xuân Soạn và Phạm Thế Hiển ngày nay, lúc ấy là đường làng, chỉ có xe ngựa chạy được từng đoạn, việc đi lại hầu hết bằng xuồng, ghe.

    Các vị bô lão am tường vùng Bình Xuyên, đã giải thích ý nghĩa chữ Bình Xuyên như sau: Bình là vùng đất yên bình, Xuyên có nghĩa là chằng chịt, xuyên từ chỗ này tới chỗ kia như hình chữ Xuyên (Hán). Nghĩa chung là vùng sông nước, kênh rạch chằng chịt, sống yên bình.

    Song vùng đất ấy có thực bình và xuyên như cái tên của nó? Buổi ban đầu, tức những năm đầu thế kỷ XIX, thì phần nào đúng. Bởi vào thời ấy, những người lưu lạc từ các nơi khác (một số ở miền ngoài - miền Trung; số khác thì từ lục tỉnh - các tỉnh miền Tây) đã tìm đến và định cư ở vùng đất ven đô. Dân tứ xứ hầu hết nghèo, tới vùng đất mới tìm kế sinh nhai, làm ăn bằng những nghề hạ tiện nhất thời ấy, như kéo xe, đánh xe ngựa, mò cua, bắt ốc, ở đợ, vác thuê và "bạ đâu làm đó", chẳng từ một nghề gì, miễn kiếm được miếng ăn.

    Dần dần chính sự bất công của xã hội đã đẩy những con người chân đất đó vào thế chẳng đặng đừng. Mầm mống đạo tặc, cướp bóc đã bắt đầu từ đây..

    Trong làng Bình Xuyên thuở ấy, khu vực được xem là nghèo nàn nhất, hoang sơ nhất là các kênh rạch mang những cái tên như Rạch Đỉa, Cây Khô, Hố Bần.. cũng chính là xuất phát điểm của các băng nhóm trộm đạo, cướp bóc và xưng hùng xưng bá. Hố Bần, Rạch Đỉa từng được ví như căn cứ Lương Sơn Bạc của nhóm 108 hảo hán thời Tống ở Trung Quốc.

    Nhân vật Bình Xuyên

    Thực tình mà nói, không phải người nào thuộc nhóm Bình Xuyên đều xấu. Trong số họ, tuy lúc đầu cũng thuộc cánh "giang hồ" nhưng về sau đã có nhiều người giác ngộ, tham gia cách mạng chống thực dân, đế quốc. Trong số này, đáng kể là ông Nguyễn văn Mạnh (Tám Mạnh), Mai văn Vĩnh (Hai Vĩnh), Nguyễn văn Rô (Bảy Rô).. là những người đã chí cốt, trung thành với cách mạng. Qua họ, dân Bình Xuyên đã phần nào nở mày nở mặt.

    Tuy nhiên, vào thời ấy (1940 - 1954), vùng Bình Xuyên và những con người Bình Xuyên là nỗi ám ảnh kinh hoàng của người dân lương thiện Sài Gòn. Trong đó có Bảy Viễn, một cái tên đã biến Bình Xuyên thành cơn ác mộng. Vậy Bảy Viễn là ai?

    Vào các năm 1940-1941, dân Bình Xuyên xem Dương văn Dương là "thần tượng". Họ vừa nể, vừa thân tình với con người này, nên thường gọi ông bằng cái tên thân mật: Ba Dương. Khi ấy Ba Dương được xem là thủ lĩnh của Bình Xuyên, bởi ông đứng đầu nhóm hảo hán thường can thiệp giúp dân khi có chuyện bất bình, chuyên đi cướp kẻ giàu, đem về giúp dân nghèo tại địa phương. Dần dà, đi đâu trong khu vực Bình Xuyên cũng đều nghe tiếng ca tụng Ba Dương. Thời đó, tuy nhóm Ba Dương thực chất là một băng cướp, nhưng nhờ những hành động không thái quá và đứng về phía người nghèo, nên nhóm này được dân Bình Xuyên rất thương, không bao giờ tố cáo, mà còn che giấu khi có sự.

    Vài năm sau, trong lực lượng của Ba Dương nổi lên những bộ mặt mới, báo hiệu những chuyển biến không lành về sau. Người đáng kể nhất là Lê văn Viễn, tục gọi là Bảy Viễn. Tuy nhỏ tuổi hơn Ba Dương, kém cỏi Ba Dương về nhiều mặt, nhưng ngay từ lúc mới gia nhập nhóm Bình Xuyên, Bảy Viễn đã ngấm ngầm bất phục vị thủ lĩnh của mình. Ông ta thường tuyên bố trước nhóm em út rằng: "Thà làm đầu gà hơn là đuôi phượng", ngược với câu nói cương quyết của một hảo hán khác, vốn là bạn thân của Bảy Viễn, đó là Huỳnh văn Trí, tức Mười Trí, khi ông này nói: "Làm đuôi phượng còn hơn làm đầu gà"! Ý của Mười Trí là thà sống khiêm nhường mà thanh cao, còn hơn danh vọng mà hèn hạ.

    Trong khi thanh thế của Ba Dương còn lớn, Bảy Viễn tạm thời hành động thầm lặng, nhưng cũng không kém phần dữ dằn. Bảy Viễn chuyên đánh cướp những phú thương, những tay cự phú ở Sài Gòn, Chợ Lớn và các vùng thuộc địa phận giáp ranh với làng Bình Xuyên. Một trong những vụ cướp táo bạo nhất vào những năm giữa thập niên 40 là vụ đột nhập nhà riêng và cũng là sòng bạc lớn nhất của "vua cờ bạc" Sáu Ngọ, để cướp đi một số tiền rất lớn, đồng thời cũng chính thức đối đầu với một nhân vật thuộc loại "trùm" như Sáu Ngọ, người mà ngay cả nhà đương cuộc Pháp cũng ngán ngại khi đụng đến. Mục đích của Bảy Viễn khi ra tay với Sáu Ngọ không đơn thuần vì tiền, mà chứng tỏ mình là "trùm" thực sự, chứ không phải ai khác.

    Bảy Viễn từng bị bắt nhiều lần vì tội cướp của, giết người, bị đày ra Côn Đảo và sau đó thoát về đất liền dễ như người ta đi du lịch. Thời đó, các tay trùm mật thám Pháp ở Sài Gòn như Bazin, Savani một mặt truy lùng Bảy Viễn, mặt khác lại rất e dè tay này. Họ biết rằng kẻ nguy hiểm nhất trong lực lượng Bình Xuyên chính là Bảy Viễn chứ không phải Ba Dương.

    Vào đầu năm 1946, lực lượng Bình Xuyên của Ba Dương đã giác ngộ, bắt đầu tham gia vào công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của toàn dân Nam Bộ. Chính viên thủ lĩnh "giang hồ" nhưng có đầu óc tiến bộ này đã đích thân kéo quân đi chi viện cho mặt trận ở vùng giáp ranh giữa Bến Tre và Đồng Tháp Mười. Chẳng may, Ba Dương bị tử trận dưới làn đạn của máy bay Pháp. Đây là giờ phút quyết định cho vận số của lực lượng Bình Xuyên. Bởi khi Ba Dương chết, dù có những người khác được đưa lên thay thế, nhưng Bảy Viễn nhất định bất phục. Anh ta vừa công khai vừa âm thầm gây thanh thế, khẳng định rằng chỉ có Bảy Viễn mới là người đủ khả năng lãnh đạo nhóm Bình Xuyên!

    Bình Xuyên bị bán đứng và bộ mặt thật của Bảy Viễn

    Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nổ ra ở Nam Bộ, cùng với toàn dân, nhóm Bình Xuyên cũng tích cực tham gia. Song, khi Ba Dương tử trận, quyền lực phần lớn nằm trong tay Bảy Viễn, thì Bình Xuyên đã bắt đầu bị bán đứng. Dù có một thời gian, Bảy Viễn và các chỉ huy khác của Bình Xuyên kéo xuống Rừng Sác lập chiến khu, tham gia vào lực lượng vũ trang của quân khu 7, do tướng Nguyễn Bình làm khu bộ trưởng, nhưng đó chỉ là giai đoạn "thử lửa". Chỉ những tay giang hồ có lòng yêu nước thực sự mới trụ lại với cách mạng, còn riêng Bảy Viễn thì đã sớm lộ bản chất, móc nối với phòng nhì Pháp (Deuxième Bureau). Sau đó, vào ngày 13 tháng 6 năm 1948, Lê văn Viễn, tự Bảy Viễn, đã trở cờ, kéo quân ra đầu hàng Pháp tại Sài Gòn. Viễn được phong quân hàm đại tá, được giao chỉ huy lực lượng Bình Xuyên cũ. Từ đó cái tên Bình Xuyên bắt đầu trở thành nỗi kinh hoàng cho mọi người. Bởi vì thực chất cái gọi là "lực lượng Bình Xuyên" chỉ là một nhóm ô hợp những tay đầu trộm đuôi cướp, những thành phần bất hảo, du thủ du thực, được đàn em của Bảy Viễn chiêu mộ, nhằm phô trương thanh thế, hầu lãnh nhiều lương của Pháp, đồng thời đó cũng để bắt đầu tổ chức những nhóm mafia sắt máu.

    Từ năm 1948 đến 1954, Bảy Viễn là một thứ siêu "bố già", với quyền lực gần như vô song. Có lãnh thổ, quân đội, công an mật vụ riêng và đặc biệt hơn, có nguồn tài chính dồi dào, nhờ được độc quyền khai thác các sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới. Trên các đường phố Sài Gòn, Chợ Lớn, nhan nhản những binh lính đội mũ nồi xanh màu lá cây, tay lăm lăm tiểu liên. Họ là cơn ác mộng của mọi người, bởi họ chính là những "công an xung phong" được mệnh danh là hung thần Bình Xuyên.

    Rồi Bảy Viễn được người Pháp phong quân hàm thiếu tướng, hầu như bỏ quên đằng sau mình các biệt danh thời "Lương Sơn Bạc" mà ông ta từng hãnh diện xưng như "thầy Tư Hoảnh-xăng" (Vincent, một cái tên Tây tự đặt), cũng như không còn nhớ cái làng Phong Đước, quận Cần Giuộc, thuộc tỉnh Chợ Lớn, nơi chôn nhau cắt rốn của mình.. Tổng hành dinh của Bảy Viễn đóng tại vùng Chánh Hưng, quận 8, tức địa phận làng Bình Xuyên cũ, được ông ta đầu tư xây dựng nửa giống Lương Sơn Bạc, nửa giống như sở thú: Bên ngoài binh lính canh phòng nghiêm ngặt, còn bên trong thì nuôi đủ loại thú dữ như cọp, beo, gấu, rắn.. Ông ta từng huênh hoang tuyên bố với một nhà báo nước ngoài về cơ ngơi của mình: "Muốn biết lực lượng Bình Xuyên ra sao, Bảy Viễn là ai, cứ tới thăm tổng hành dinh của tôi sẽ rõ". Mỉa mai thay, chỉ ít lâu sau lời tuyên bố hách dịch đó, tổng hành dinh và cả bản thân Bảy Viễn nữa, đã bị tan tác trước sức tấn công của binh lính Ngô Đình Diệm (Bảy Viễn bị nhóm tướng tá của Ngô Đình Diệm đánh bật ra khỏi địa phận Bình Xuyên, sau đó rút tàn quân về vùng Rừng Sác và cuối cùng tan rã, Viễn chạy sang Pháp "tị nạn", vào những tháng giữa năm 1955). Lực lượng Bình Xuyên cũng như danh xưng làng Bình Xuyên đã bị xóa sổ từ đó. Những người dân Bình Xuyên chân chính, đã không dằn được sự căm phẫn đối với những kẻ đã bán đứng địa danh của họ..

    Ngày nay, vùng đất Bình Xuyên xưa đã trở thành quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh (khu vực cầu Rạch Ông Lớn, cầu chữ Y, Hiệp Ân, Nhị Thiên Đường, Chánh Hưng đã thuộc về quận 8 từ sau 1954). Nếu không nhắc lại, không khéo lớp trẻ sau này, mỗi khi đi qua những Rạch Đỉa, Hố Bần, Tân Qui.. sẽ không hề biết rằng, nơi đó đã một thời khá dài, chính là vùng đất dữ, được mệnh danh là "Lương Sơn Bạc" của Sài Gòn..
     
  10. Nhật Thiên Thanh

    Bài viết:
    179
    8: Sài Gòn "Tam ác"

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bên cạnh "Tứ đại phú" (nhất Sĩ, nhị Phương, tam Xường, tứ Định), "Tứ đại mỹ nhân", "Tam đại gia" (chú Hỏa, chú Hỷ, Quách Đàm), Sài Gòn còn có một bộ sậu được gọi là "Tam ác", từng làm ô danh hòn ngọc Viễn Đông. Đó là ba nhân vật tiếng tăm bậc nhất thời Tây mới qua, quyền uy tột đỉnh, giàu sang khó ai bì, đồng thời là bọn người mà đời đời tiếng xấu không phai, lòng căm thù của thiên hạ đối với họ chồng chất.

    Đệ nhất ác

    Trong bộ ba "cùng hung cực ác" của đất Sài Gòn buổi giao thời (tức giai đoạn người Pháp mới chiếm đất Nam Kỳ năm 1859) thì ác danh đệ nhất phải dành cho đốc phủ Trần Bá Lộc.

    Trần Bá Lộc gốc ở Cái Bè, Mỹ Tho (Tiền Giang), sớm ngoi lên ngay khi người Pháp vừa đặt chân lên đất Nam Kỳ lục tỉnh. Nhạy bén thời cuộc, hắn theo đạo Thiên Chúa để tiến thân dễ dàng hơn. Trần Bá Lộc lập nghiệp ở đất Sài Gòn, ngay từ khi người Pháp chưa biến thành phố này thành một "la perle de l'Extrême Orient" (hòn ngọc Viễn Đông). Đó là ý đồ rất thức thời của kẻ cơ hội, bởi vì ở buổi giao thời, chính quyền bảo hộ Pháp rất cần những kẻ hợp tác trung thành.

    Hơn cả sự trung thành, Trần Bá Lộc đã sớm tỏ ra đắc lực, tận tụy, ngoan ngoãn. Cái lý của hắn là để trả thù sự đàn áp tôn giáo (Thiên Chúa giáo) của các vua nhà Nguyễn (cụ thể là vua Tự Đức). Từ đó, Trần Bá Lộc đã tự biến mình thành một kẻ cuồng sát. Hắn tự nguyện xin lãnh các trọng trách mà một số tay Việt gian khác ngần ngại hoặc sợ hãi không dám làm, như vụ đàn áp nhóm Văn thân ở miền Trung (Bình Định, Khánh Hòa, Bình Thuận). Trần Bá Lộc thành công ngoài dự kiến của người Pháp, bởi trong khi đã mất đến gần ba năm mà Pháp vẫn chưa dẹp được lực lượng kháng chiến của Mai Xuân Thưởng và nhóm Văn thân, thì Trần Bá Lộc chỉ "ra tay" có vài tháng là xong! Truy ra mới rõ, sở dĩ hắn "thiện chiến" như vậy là nhờ áp dụng phương pháp "cùng hung cực ác". Thay vì bắt được các phần tử chống đối thì đem cầm tù, chờ ngày xử theo luật, Trần Bá Lộc đã hành động gọn hơn, nhanh hơn, đó là "tiên hạ trảm vi cường", giết lầm hơn tha lầm. Hàng ngàn người, cả nhóm chống đối lẫn thường dân vô tội, đã chết dưới bàn tay khát máu của Trần Bá Lộc! Bởi thế, con đường thăng quan tiến chức của hắn nhanh hơn bất cứ ai đương thời: Từ một cai đội tầm thường, Lộc đã leo lên Tri huyện, rồi Tri phủ và sau cùng lên đến tột đỉnh với chức Tổng đốc.

    Thời đó, thậm chí mãi nửa thế kỷ sau, người dân Sài Gòn và các tỉnh miền Trung, mỗi khi nghe đến tên Trần Bá Lộc đều rợn da gà, hận thù sục sôi. Đến nỗi, ngay cả các ông chủ Tây của Lộc như quan Toàn quyền Paul Doumer cũng lạnh gáy với cái ác của tên Việt gian này. Trong quyển sách Ký ức Đông Dương (L'Indochine Souvenirs), Paul Doumer đã viết: "Việc ấy là tất nhiên, ta thừa biết nó là như vậy. Nếu muốn nhân nghĩa và nếu còn có cách nào khác thì tốt hơn là đừng sai ông ta cầm quân.."

    Cúc cung tận tụy, nhưng do quá tàn ác nên sau khi "hoàn thành nhiệm vụ", chính người Pháp cũng không còn dám dùng, phải cho Lộc về hưu sớm với chức hàm Tổng đốc. May mắn cho lương dân, Trần Bá Lộc ngã bệnh và qua đời vào năm 1899 ở Mỹ Tho. Tương truyền trước khi chết, hắn trối trăn, dặn phải chôn đứng thi thể! Có lẽ còn nuôi tiếc trần gian, Lộc muốn nhìn lại chức tước, quyền uy và tiền của mà hắn trả lại cho đời..

    Đệ nhị ác

    Đúng ra phải xếp Huỳnh Công Tấn là đệ nhất Việt gian, bởi hắn ta mắc một tội tày trời: Phản bội và dâng nạp nhà yêu nước Trương Định cho Pháp, sau khi lén bắn ông gãy sống lưng.

    Tấn là người Gò Công, lúc đầu tham gia đội quân kháng chiến chống Pháp của Trương Định, được phong cấp bậc đội, gọi là đội Tấn. Bất tài nhưng giỏi mưu mô, nên sau thời gian ẩn mình dưới lốt một nghĩa quân, đội Tân đã lén móc nối với Pháp để làm nội gián. Nhà yêu nước Trương Định đã không cảnh giác nên Tấn được sung vào đội quân thân tín của ông, để rồi thừa cơ hội, Tấn đã bắn lén chủ tướng của mình (cùng lúc với việc tập kích của quân đội Pháp). Trương Định bị Pháp bắt và đưa về bắn ở Gò Công.

    Huỳnh Công Tấn lập được đại công, người Pháp mừng vui khôn xiết, lập tức cất nhắc hắn lên chức lãnh binh, được hưởng các đặc quyền ít ai có được: Hưởng trợ cấp khá cao suốt đời, được xếp ngang hàng với các võ quan, văn quan tột đỉnh người Việt từng phụng sự cho Pháp, các con cái của Tấn được Chính phủ bảo hộ chu cấp cho ăn học đến khôn lớn, được hưởng các quyền lợi về kinh tế, tài chính không giới hạn..

    Dù lập công lớn như vậy và được lên địa vị tột đỉnh, nhưng Tấn lại bị toàn dân lên án, căm thù. Đặc biệt dân Gò Công, nơi sinh quán của hắn, nguyền rủa Tấn dữ dội. Táo bạo hơn, họ lén đặt một thạch trụ (trụ đá) ngay giữa chợ Gò Công, hài tội tên Việt gian đê tiện ấy. Thạch trụ này đôi ba phen bị chính quyền phá bỏ, nhưng phá cái này, dân xây cái khác. Cuối cùng, có lẽ thấy không thể ngăn được lòng căm hận của dân, người Pháp đành bóp bụng làm ngơ.. Do đó đến đời sau, thạch trụ bêu danh Huỳnh Công Tấn vẫn còn trơ trơ tồn tại.

    Tấn chạy về Sài Gòn để dễ bề tiến thân và tránh nguy hiểm. Có dinh cơ lớn ở đây, được Pháp ưu ái, nên nhất thời, quyền uy Tấn lại lấn áp nhiều người. Con trai trưởng của hắn tên Huỳnh Công Miêng được người Pháp bảo trợ cho học hành theo chương trình Pháp. Năm 13 tuổi, Miêng được cho theo học ở một trường dòng tại Pháp, sau đó học đến tú tài và về nước với ý đồ tham gia bộ máy cai trị thuộc địa. Đầu tiên, Miêng được cho theo "chinh chiến" cùng Trần Bá Lộc, bình định nhóm Văn thân ở Khánh Hòa, Bình Thuận. Trẻ tuổi, có khả năng, có thế lực, nhưng qua thời gian ngắn phục vụ bên cạnh tên đại gian ác Trần Bá Lộc (nhìn cảnh hắn ta chém người như chém chuối, tắm máu người như tắm biển, tắm sông), Huỳnh Công Miêng có hơi chột dạ, rợn người. Anh ta bỗng dưng bỏ ngang "con đường binh nghiệp", về Sài Gòn rồi bắt đầu dấn thân theo gương các hảo hán Lương Sơn Bạc. Chuyện Huỳnh Công Miêng (hay còn gọi là cậu Hai Miêng) khá ly kỳ, đã kể ở trên.

    Đệ tam ác

    Người thứ ba này so với hai "đại ca" trước thì có vẻ hiền hơn. Nhưng đó là "có vẻ" thôi, chứ thật sự hắn cũng thuộc nòi ác.

    Chỉ có điều khéo léo hơn nên ít bị người đời nguyền rủa. Đó là Tổng đốc (chức hàm) Đỗ Hữu Phương, còn gọi là Tổng đốc Phương. Tên hắn từng được chế độ cũ đặt cho con đường mà ngày nay gọi là Châu văn Liêm.

    Ngày xưa, con đường Châu văn Liêm bây giờ còn là một con kênh, vốn là một nhánh rẽ của kênh Chợ Lớn (nay là đường Hải Thượng Lãn Ông). Ngay ở bờ kênh, chỗ bây giờ là rạp hát Thủ Đô và khách sạn Trường Thành, chính là tư dinh đồ sộ của Đỗ Hữu Phương. Hắn là người như thế nào mà leo đến bậc cao như vậy trong quan trường? Thật ra, cũng giống như lãnh binh Tấn hay Tổng đốc Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương được gọi Tổng đốc chỉ là chức hàm, do công lao phò tá chủ Tây nên được ban ơn đền đáp. "Chiến công" lớn nhất của hắn chính là vụ bán đứng nhà yêu nước Nguyễn Hữu Huân (Thủ Khoa Huân).

    Số là ban đầu giữa hắn và Thủ Khoa Huân có mối thâm giao. Nguyễn Hữu Huân trong thời gian lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, do gặp nhiều khó khăn về tài chính buổi ban đầu, nên đôi lúc có nhờ Đỗ Hữu Phương giúp đỡ, theo kiểu một Mạnh Thường Quân. Thậm chí, có đôi lần, để né tránh sự săn lùng của mật thám Pháp, Thủ Khoa Huân đến ẩn náu trong nhà họ Đỗ, được hắn che chở.. Ai cũng tưởng Đỗ Hữu Phương thành tâm yêu nước. Chẳng ngờ, lúc Thủ Khoa Huân gây được thanh thế lớn, được toàn dân Nam Kỳ suy tôn là lãnh tụ kháng chiến thì chính Đỗ Hữu Phương chỉ điểm cho Tây bắt ông đem hành hình tại chợ Rạch Giá!

    Đó là tội ác tày trời, khó được dung tha. Bởi thế, sau vụ đó, Đỗ Hữu Phương rút cổ, co vòi sống ở Sài Gòn và lo làm giàu. Hắn là người duy nhất trong bộ "tam ác" được liệt vào danh sách "tứ đại phú" (nhất Sĩ, nhị Phương, tam Xường, tứ Định). Mà chẳng riêng gì hắn, cả bà vợ cũng nổi danh không kém, thuộc hàng nữ cự phú "hét ra tiền, thở ra bạc" một thời ở Sài Gòn. Bà ta bắt chước vợ ông Tả quân Lê văn Duyệt thời trước có dinh thự riêng, nên cũng lập ra một tư dinh mà sau này được dân Sài Gòn quen gọi là "Vườn Bà Lớn", nay còn lại chứng tích là một tòa nhà ngói xưa, khá to, gần rạp hát Long Vân (khu Ngã Bảy). Cả hai vợ chồng Tổng đốc Phương lao vào kinh doanh bất động sản, thầu các dịch vụ buôn bán lớn. Họ giàu sụ, lại được người Pháp dành cho nhiều đặc quyền nên thời đó (cuối thế kỷ XIX) được kể là một đại gia có thế lực nghiêng thiên hạ!

    Để ghi công của hắn, người Pháp đã lấy tên Đỗ Hữu Phương đặt cho một con đường vùng Chợ Lớn. Nhưng mỉa mai thay: Khi hắn chết chưa được bao lâu thì "cái danh" ấy cũng bay theo luôn! Con cháu hắn xâu xé nhau, tranh giành tài sản, đã bán ngay cái cơ ngơi (tòa tư dinh) cho người Hoa kinh doanh thương mại. Có thời gian, người chủ mới đem tòa nhà này cho Sáu Ngọ (vua cờ bạc) thuê để mở sòng sát phạt nhau, làm cho nhiều người tán gia bại sản. Tìm hiểu thêm, thiên hạ lại càng ngạc nhiên khi biết rằng đám con cái nhà họ Đỗ này đâu phải tệ: Năm con trai đều đỗ đạt cao, thành danh trên quan trường, thương trường, ba con gái đều lấy chồng giàu, thế lực.. Vậy mà tàn tạ, mai một rất nhanh. Phải chăng oan oan tương báo, làm ác gặp ác, của thiên trả địa?
     
  11. Nhật Thiên Thanh

    Bài viết:
    179
    Phần II: Các đại phú gia đất Sài Gòn - 1: Huyền thoại chú Hỏa

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Bất cứ người nào từng sống ở Sài Gòn đều ít nhiều nghe nói đến một người có cái tên ngắn gọn: Chú Hỏa. Bởi chú Hỏa vừa là một cự phú, vừa là một người mang lắm "huyền thoại" chung quanh cuộc đời ông. Tên đầy đủ của ông là Hui Bon Hoa, một người gốc Hoa.

    Theo sự "xếp loại" của dân gian vào đầu thế kỷ XX, thì tại Sài Gòn có bốn người được coi như "đại phú", đó là: Nhất Sĩ, nhị Phương, tam Xường, tứ Hỏa. Chú Hỏa được xếp hàng thứ tư, nhưng theo người hiểu biết ở Sài Gòn thì ngôi thứ đó phải ngược lại, có nghĩa là chú Hỏa phải đứng hàng thứ nhất. Chỉ vì những nhân vật kia là người Việt, lại có quyền thế hơn, nên danh của họ được nêu lên đầu. Đó là Huyện Sĩ, người bỏ tiền ra xây dựng ngôi nhà thờ ngày nay mang tên "Nhà thờ Huyện Sĩ" ở đường Tôn Thất Tùng. Phương là Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, lừng lẫy với cái danh Việt gian. Còn Xường, tức là bá hộ Xường, ông trùm các dịch vụ về lúa gạo, công nghệ thời đó.

    Chú Hỏa đâu đã làm giàu được ở đất Sài Gòn, trong khi chỉ là một người Hoa di cư? Về điều này, cho tới nay, vẫn còn bao nhiêu lời đồn đại, chưa biết đúng, sai ra sao. Chúng tôi chỉ ghi lại đây như một thông tin đa chiều, chớ không dám khẳng định. Có nhiều giai thoại về sự giàu to của chú Hỏa: Do may mắn mua được một gánh đồng nát mà lẫn trong đó là một gói vàng lớn, do an táng mộ phần của người cha ngay chỗ "long mạch", do bí mật mang được một số vàng và châu báu từ Trung Hoa sang.

    Trong cả ba giả thuyết trên, xem ra chỉ có yếu tố thứ ba là có lý phần nào. Nhưng, có một yếu tố mà người ta đã vô tình bỏ quên, ít đề cập mỗi khi kể chuyện về chú Hỏa, đó là sự cần mẫn làm giàu.

    Theo dân gian kể, thì chú Hỏa thuở ban đầu rất nghèo, lưu lạc đất Sài Gòn vào những năm hậu bán thế kỷ XIX. Ông làm một nghề mà khá nhiều người Hoa thời đó thích làm, đó là nghề "mua ve chai". Với đôi gánh trên vai, ông đã đi bộ hầu như khắp Sài Gòn - Chợ Lớn để mua từng thứ bỏ của thiên hạ. Qua thời gian mấy chục năm, số vốn tích lũy dần dần lớn lên. Vào giai đoạn Sài Gòn đang chuyển mình từ một thành phố sơ khai lên đô thị, nhu cầu về nhà ở trở nên bức thiết, ông là một trong vài người đứng ra kinh doanh nhà, đất. Chỉ trong vòng mười năm, sản nghiệp của Hui Bon Hoa đã rất lớn. Vào thời điểm trước thế chiến thứ nhất, gia sản chú Hỏa đã ngót nghét 20.000 căn phố ở khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định. Và ông thành lập công ty "Hui Bon Hoa và các con".

    Nhiều người gần gũi với ông đều ghi nhận điều này: Dù giàu tiền triệu thời đó, nhưng chú Hỏa có một cách giáo dục con cái cũng như cách tổ chức quản lý tài sản có thể gọi là khoa học và tiến bộ. Ông có nhiều con, nghe nói đến 10 người. Ai nấy đều được cho học hành đến nơi đến chốn. Điều đáng nói là trong số đông con cái của ông, chưa nghe nói có ai hư hỏng, bết bát về công danh. Một người từng làm việc trong gia đình chú Hỏa, sau này kể lại từ lúc chú Hỏa còn đương thời, ông đã lập sẵn di chúc, trong đó có phân chia gia tài một cách công bằng và tiến bộ như sau: Tài sản chung dành cho con, cháu thừa hưởng ngang nhau, tuy nhiên không người nào được tự ý rút số được chia ra để tự tiêu pha, mà tất cả phải qua một hội đồng ủy thác, được chính chú Hỏa ủy nhiệm cho Notaire (chưởng khế) sở tại. Những đứa con của chú hàng tháng được hưởng một số tiền nhất định, đủ ăn uống, tiêu pha vừa phải và học hành, đến khi nào thành thân, có gia đình. Lúc đó, nếu muốn kinh doanh gì, thì phải thông qua hội đồng ủy thác, họ sẽ cố vấn và theo dõi việc làm ăn. Tất cả những điều này nhằm không để cho người con nào ỷ lại vào tiền mà tiêu xài hoang phí, và cũng để bảo đảm công cuộc kinh doanh của dòng họ Hui Bon Hoa không thua sút ai.

    Nhờ vậy nên mãi về sau này, trong những năm Sài Gòn còn bị tạm chiếm, các con cháu của Hui Bon Hoa vẫn còn quản lý một số tài sản khổng lồ. Ngày nay, con cháu của ông hầu hết sống ở nước ngoài, tiếp tục con đường kinh doanh. Dấu tích còn lại dễ thấy nhất ở Sài Gòn bây giờ là tòa dinh thự đồ sộ của chú Hỏa nằm ở khu tứ giác Phó Đức Chính - Lê thị Hồng Gấm - Calmette - Nguyễn Thái Bình. Và nếu ai còn nhớ, thì mỗi khi đi ngang qua Trung tâm cấp cứu thành phố Hồ Chí Minh ở đường Lê Lợi, chắc chắn sẽ nhận ra đó là một công trình do chính chú Hỏa dựng lên để tặng cho thành phố Sài Gòn.
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...