Gợi ý phân tích tác phẩm tây tiến - Quang dũng

Thảo luận trong 'Học Online' bắt đầu bởi Chung Vy, 20 Tháng tư 2021.

  1. Chung Vy

    Bài viết:
    1
    I. TÌM HIỂU CHUNG

    1. Tác giả: Quang Dũng

    - Quê quán: Đan Phượng, Hà Tây.

    - Nghệ sĩ đa tài: Làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc → Dấu ấn hội họa và âm nhạc in đậm trong các thi phẩm của Quang Dũng.

    - Phong cách thơ: Hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa → hào hoa là chữ nói lên hồn cốt con người cũng như thơ ca Quang Dũng.

    2. Tác phẩm

    - Hoàn cảnh ra đời:

    + Đoàn binh Tây Tiến:

    · Thời gian thành lập: Đầu năm 1947

    · Nhiệm vụ: Phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân Pháp ở Thượng Lào và miền tây Bắc Bộ của Việt Nam.

    · Địa bàn: Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa (Việt Nam), Sầm Nưa (Lào) → địa bàn rộng lớn, hoang vu, hiểm trở, rừng thiêng nước độc.

    · Thành phần: Phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, điều kiện chiến đấu gian khổ, thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy họ vẫn sống rất lạc quan, vẫn giữ cốt cách hào hoa, lãng mạn.

    · Sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52.

    + Cuối năm 1948: Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại Phù Lưu Chanh, tác giả viết bài thơ "Nhớ Tây Tiến".

    - Nhan đề:

    + Ban đầu "Nhớ Tây Tiến" -> in lại đổi thành "Tây Tiến"

    + Ý nghĩa:

    Đảm bảo tính hàm súc của thơ ( "Văn hay mạch kị lộ") → cảm xúc chủ đạo chi phối mạch thơ (nối nhớ) được giấu kín.

    Làm nổi rõ hình tượng trung tâm của tác phẩm: Đoàn quân Tây Tiến.

    Bỏ đi từ "Nhớ" → vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến - không chỉ là một đoàn binh sống trong nỗi nhớ tha thiết của Quang Dũng mà trở thành một hình tượng bất tử trong thơ.

    - Bố cục: Chia 4 đoạn

    + Đoạn 1 (từ đầu – "Mai Châu mùa em thơm nếp xôi") : Những cuộc hành quân gian khổ và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội.

    + Đoạn 2 (tiếp – "Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa") : Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.

    + Đoạn 3 (tiếp – "Sông Mã gầm lên khúc độc hành") : Chân dung người lính Tây Tiến.

    + Đoạn 4 (còn lại) : Khúc vĩ thanh (Lời thề gắn bó với đoàn quân và miền Tây)

    II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

    1. Đoạn 1: Những cuộc hành quân gian khổ và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội.

    - Hai câu đầu: Khơi mở mạch cảm xúc cho bài thơ

    "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

    Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"

    + Cảm xúc chủ đạo: "Nhớ"

    + Đối tượng nỗi nhớ:

    · Nhớ Sông Mã, nhớ "rừng núi". Tác giả gọi tên con Sông Mã đầu tiên trong nỗi nhớ của mình. Vì con sông Mã là người bạn là nhân chứng đã theo suốt bước chân quân hành chứng kiến biết bao buồn vui bao mất mát hi sinh vất vả của người lính Tây Tiến. Sông Mã không thuần túy là một địa danh vô hồn, là tên một dòng sông mà đã trở thành đất mẹ yêu thương, thành cả một miền nhớ đau đáu khôn khuây.

    · Nhớ Tây Tiến → nỗi nhớ một đoàn quân đã gắn bó máu thịt đã trở thành một "mảnh tâm hồn" của tác giả.

    - Vần "ơi" kết hợp từ láy "chơi vơi" là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man không dứt câu thơ sâu lắng bồi hồi ngân dài từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng lan rộng lan xa trong không gian. Nỗi nhớ như có hình dáng của núi non, của hồn cây, vách đá, con sông. → Hai câu thơ giống như một tiếng gọi - tiếng gọi của nhớ thương vời vợi từ trong vô thức. Nó biến tên một địa danh, một đoàn quân trở thành hai miền nhớ thương, mang linh hồn. Nỗi nhớ làm hiển hiện bao nhiêu hình ảnh tươi đẹp. Là hoài niệm mà sống động như mới hôm qua.

    - Mức độ nhớ: "Nhớ chơi vơi"

    Dẫn chứng minh họa thêm: Thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả:

    Ca dao có câu:

    "Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

    Như đứng đống lửa như ngồi đống than"

    Diễn tả tình cảm cách mạng Tố Hữu có câu:

    "Nhớ gì như nhớ người yêu

    Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương"

    Nhưng đến Quang Dũng thì nỗi nhớ sáng tạo hơn cả - nhớ chơi vơi. Chơi vơi là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng không thể bấu víu vào đâu cả. Nhớ chơi vơi có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông bề bộn không đầu không cuối, không thứ tự thời gian không gian. Đó là nỗi nhớ da diết miên man bồi hồi làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên. Và nỗi nhớ ấy tiếng gọi ấy đang đưa nhà thơ về với những kỉ niệm không quên của một thời gian khổ → Nỗi nhớ không xác định, mang màu sắc của vô thức → nỗi nhớ vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mông, ám ảnh.

    → Hai câu thơ đầu khơi mở mạch cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ. Đến các câu thơ tiếp theo, nỗi nhớ được cụ thể hóa.

    - Câu 3 - 4: Hình ảnh đoàn binh hành quân trong đêm:

    "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

    Mường Lát hoa về trong đêm hơi"

    + Vừa tả thực: "Sương lấp", "mỏi" → Sương vùng cao như chùm lấp và nuốt chửng đoàn binh → Quang Dũng đã nhìn thấy và miêu tả một mảng hiện thực chiến tranh vẫn bị khuất lấp trong thơ ca kháng chiến. Đằng sau hình ảnh những đoàn quân hùng dũng, hăm hở ra trận là những đoàn quân mỏi mệt, rã rời.

    Con người chứ không phải thánh thần. Có những lúc rệu rã, có những lúc hào sảng phấn chấn. Đằng sau vinh quang chiến thắng còn có cả những đau khổ hi sinh.

    Quang Dũng dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nhắc tới cái bi bên cạnh cái hùng → Có một thời người ta né tránh "Tây Tiến" cũng bởi điều này.

    + Vừa sử dụng bút pháp lãng mạn: "Hoa về trong đêm hơi" → Gợi không gian huyền ảo → Có thể là hình ảnh những đoàn quân, dẫu mỏi mệt đấy nhưng tâm hồn vẫn trẻ trung tươi tắn, vẫn cầm trên tay những đóa hoa rừng thơm ngát -> hé mở vẻ đẹp hào hoa, lạc quan, yêu đời của người lính.

    - 4 câu tiếp: Đặc tả hình sông thế núi hiểm trở nhưng cũng không kém phần thơ mộng của miền Tây trên đừờng hành quân của người lính Tây Tiến.

    "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

    Heo hút cồn mây súng ngửi trời

    Ngàn thước lên cao ngàn thứớc xuống

    Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"

    + Đường đi toàn dốc cao được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình "khúc khuỷu" (quanh co khó đi) "thăm thẳm" (diễn tả độ cao độ sâu) "heo hút" (xa cách cuộc sống con người), kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 → sự gập ghềnh, ẩn chứa bao bất trắc, hiểm nguy, độ sâu của dốc núi.

    + Hình ảnh "Súng ngửi trời" : Vừa đặc tả độ cao chót vót của dốc núi (cao đến mức khi người lính lên tới đỉnh núi thì mũi súng gần như chạm vào trời). Đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây mây nổi thành cồn mũi súng chạm trời. Mũi súng của người lính được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: "Súng ngửi trời" giàu chất thơ mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn cho ta nhiều thi vị vừa thể hiện "chất lính" tinh nghịch qua cách nói nhân hóa (ánh nhìn độc đáo trêu đùa làm giảm nỗi mệt nhọc trên con đường hành quân gian khổ). Đồng thời khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới "Khó khăn nào cũng vượt qua - Kẻ thù nào cũng đánh thắng!". Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính Tây Tiến không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức.

    + Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: "Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống". Hết lên lại xuống xuống thấp lại lên cao đèo nối đèo dốc tiếp dốc không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: "Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống" làm câu thơ như bẻ đôi diễn tả con dốc với chiều cao sâu rợn ngợp: Nhìn lên cao chót vót nhìn xuống sâu thăm thẳm. Hình tượng thơ cân xứng hài hòa cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ - chiến sĩ.

    + Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp gợi tả sự êm dịu tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường những mái nhà dân hiền lành và yêu thương nơi mà các anh sẽ đến đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.

    * Nhận xét:

    · Gợi liên tưởng tới thơ cổ: "Hình khe thế núi gần xa/ Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao" ( "Chinh phụ ngâm"), "Thục đạo chi nan, nan vu thướng thanh thiên" (Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh – "Thục đạo nan" của Lí Bạch)

    · Ba câu thơ giàu màu sắc hội họa vẽ lên bức tranh dốc đèo hoang vu, hiểm trở → đặc tả cái hùng vĩ của thiên nhiên đồng thời gợi hình dung về những cuộc hành quân leo dốc gian khổ.

    + Câu thơ thứ 4 đối lập với ba câu trên: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi" : Toàn thanh bằng, âm vần "ơi" kết thúc dòng thơ→ câu thơ nhẹ bẫng như nhịp thở thư giãn của người lính - đứng trên đỉnh núi, nhìn ra xa, thấy màn mưa giăng mắc, tạm dừng chân sau chặng đường leo dốc mỏi mệt để tận cảm cái bình yên, lãng mạn của núi rừng.

    Hình ảnh người lính trên đường hành quân được tái hiện cụ thể trên nền thiên nhiên miền Tây đa dạng (vừa dữ dội hoang vu hùng vĩ vừa êm đềm ấm áp thơ mộng) : Có cái bi tráng của những cuộc hành quân nhọc mệt vừa có chất trẻ trung yêu đời, nghệ sĩ của tâm hồn những chàng trai tràn trề nhiệt huyết.

    - 8 câu tiếp:

    "Anh bạn dãi dầu không bước nữa

    Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

    Chiều chiều oai linh thác gầm thét

    Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

    Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"

    + Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người: "Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Cái chết đậm chất bi hùng: Chết trong tư thế đẹp ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu không quên nhiệm vụ của người lính. Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát hy sinh nhưng không chút bi lụy thảm thương.

    + Cái hoang vu, hiểm trở của núi rừng đựợc cảm nhận theo chiều thời gian:

    · Thời gian: Chiều chiều, đêm đêm

    · Âm thanh: "Thác gầm thét", hình ảnh: "Cọp trêu người"

    · Các thanh trắc ở âm vực trầm nhất (thanh nặng) → câu thơ đọc lên trúc trắc, khó nhọc

    · Cách sử dụng các từ chỉ địa danh (Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch) : Lạ → gợi không gian đại ngàn hoang vu, rừng thiêng nước độc.

    "Chiều chiều.." rồi "đêm đêm" nhưng âm thanh ấy "thác gầm thét" "cọp trêu người" luôn khẳng định cái bí mật cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: Gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước người nối người băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn

    + Kết thúc đột ngột bằng 2 câu:

    "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

    Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"

    "Nhớ ôi!" tình cảm dạt dào đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến "đoàn binh không mọc tóc". Câu thơ đậm đà tình quân dân.

    · Sau chặng đường hành quân vất vả, người lính dừng chân quay quần bên nồi xôi nếp đang bốc khói.

    · Hương thơm: Nếp xôi → nhớ những cảm giác tinh tế, nhớ những khoảnh khắc ngắn ngủi → Hương thơm dịu ngọt mong manh đi vào nỗi nhớ người lính mà vương vấn mãi không thể phôi pha → Nỗi nhớ đi vào chiều sâu, đau đáu khôn khuây (Liên hệ với "hương cốm mới" trong nỗi nhớ của Nguyễn Đình Thi ở bài "Đất nước") → chất nghệ sĩ trong tâm hồn người lính Tây Tiến.

    · "Mùa em" : Kết hợp từ khá lạ, quan hệ từ bị lược bớt → khoảng mơ hồ ngữ nghĩa → tạo không gian huyền mộng, lãng mạn → gợi cảm giác êm dịu, ấm áp → tạo tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo.

    2. Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.

    - Khái quát: Tráng qua lớp men say của hoài niệm, hình ảnh thiên nhiên và con người miền Tây hiện ra với vẻ đẹp thơ mộng, mĩ lệ, trữ tình.

    - Đêm liên hoan văn nghệ:

    "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

    Kìa em xiêm áo tự bao giờ

    Khèn lên man điệu nàng e ấp

    Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"

    + Từ "Bừng lên" gợi cảm giác ấm áp gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội ngọn đuốc nứa đuốc lau thành "đuốc hoa" ( "Đuốc hoa" là hoa chúc - cây nến đốt lên trong phòng cưới đêm tân hôn) gợi không khí ấm cúng, huyền ảo, lung linh rực rỡ. "Bừng" chỉ ánh sáng của đuốc hoa của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn tiếng hát tiếng cười tưng bừng rộn rã.

    + Âm thanh: "Khèn" → vi vu, réo rắt.

    + Nhân vật trung tâm: "Em" với xiêm áo lộng lẫy (xiêm áo tự bao giờ) vừa e thẹn, tình tứ (e ấp) vừa duyên dáng trong điệu vu làm đắm say lòng người (man điệu).

    Từ "kìa em" thể hiện sự ngạc nhiên ngỡ ngàng vừa mê say ngây ngất trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục "xiêm áo" lộng lẫy cùng dáng vẻ "e ấp" rất thiếu nữ. Những thiếu nữ Mường những thiếu nữ Thái những cô gái Lào xinh đẹp duyên dáng "e ấp" xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ cùng với tiếng khèn "man điệu" đã "xây hồn thơ" trong lòng các chàng lính trẻ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Họ càng yêu đời hơn yêu đất bạn hơn "Nhạc về.."

    + Không chỉ thế người lính còn mải mê say trong tiếng nhạc điệu khèn của vùng đất lạ.

    → Vẻ đẹp lung linh, hoang dại, trữ tình đến mê hoặc.

    - Cảnh sông nước miền Tây:

    "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

    Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

    Có nhớ dáng người trên độc mộc

    Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"

    + Không gian: Chiều sương, dòng nước → mênh mông, nhòe mờ, ảo mộng. Thời gian: Chiều sương ấy gợi màu sắc bảng lảng sương khói vừa có nỗi buồn man mác.

    + Sông nước hoang dại bên bờ lau lách hoa rừng đong đưa. Hình ảnh "hoa đong đưa" là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái "dáng người trên độc mộc" trôi theo thời gian và dòng hoài niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ thấp thoáng gần xa hư ảo trên cái nền "chiều sương ấy". Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác bâng khuâng. Bút pháp thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.

    Hình ảnh: "Hồn lau", "dáng người trên độc mộc", "hoa đong đưa" → những nét vẽ mềm mại, duyên dáng, khác hẳn những nét khắc bạo, khỏe, gân guốc khi đặc tả dốc đèo miền Tây.

    + "Có nhớ" "có thấy" luyến láy khắc họa thêm nỗi nhớ: Lưu luyến bồi hồi.

    * Nhận xét:

    · Thiên nhiên và con người ở đây hòa hợp trong một vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn, thơ mộng.

    · Tác giả chỉ gợi mà không tả, vận dụng bút pháp của nhạc của họa để dựng cảnh → Đoạn thơ đầy chất nhạc, chất họa → Đúng với trạng thái "chơi vơi" của nỗi nhớ ở đầu bài thơ.

    · Đoạn thơ thể hiện rõ chất tài hoa của hồn thơ Quang Dũng.

    3. Đoạn 3: Chân dung người lính Tây Tiến.

    - Khái quát: Vẫn tiếp tục mạch cảm hứng về người lính Tây Tiến đã được triển khai lẻ tẻ ở các đoạn trước: Vừa lãng mạn vừa bi tráng. Ở 8 câu thơ này, tác giả tập trung khắc tạc một tượng đài người lính trên nền thiên nhiên miền Tây đa dạng.

    - Hai câu đầu: Chân dung hiện thực của người lính

    "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

    Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

    + Vừa bi: "Không mọc tóc" : Vừa để tiện lợi trong việc đánh giáp lá cà, vừa phản ảnh một thực tế - bị rụng tóc vì sốt rét, "quân xanh màu lá" : Nước da xanh xao do ăn uống thiếu thốn, sốt rét bệnh tật hành hạ. (Liên hệ: "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh/ Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi" – trong Đồng chí của Chính Hữu, "Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ" – trong "Cá nước" của Tố Hữu).

    + Vừa hùng: Tác giả không né tránh hiện thực tàn khốc của chiến tranh đã lưu dấu trên hình dung người lính nhưng qua cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn:

    · "Đoàn binh" chứ không phải "đoàn quân" → hào hùng.

    · "Quân xanh màu lá" vẫn "giữ oai hùm" → oai phong, dữ dằn với tư thế lẫm liệt của chúa tể nơi rừng thiêng.

    - Hai câu tiếp: Giấc mộng lãng mạn của người lính

    "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

    Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm"

    + Tả vẻ lẫm liệt uy phong của người lính, nhà thơ không cố công khắc tạc tượng đài trượng phu khô cứng không tim.

    + Nỗi nhớ trong giấc mơ: Hà Nội, dáng Kiều thơm: Đằng sau vẻ ngoài dữ dằn, oai nghiêm là trái tim khao khát yêu thương, đầy chất nghệ sĩ (họ mang dấu trong tim một bóng hình lãng mạn, không phải là "giếng nước gốc đa", "gian nhà không" như nỗi nhớ của người lính nông dân trong "Đồng chí" của Chính Hữu)

    * Nhận xét:

    - Cảm hứng: Có bi nhưng không lụy. Người ta thấy cái gian khổ khốc liệt của chiến tranh nhưng cũng cảm nhận được vẻ đẹp oai hùng, lãng mạn của người lính.

    - Tượng đài người lính Tây Tiến được dựng từ hai nguồn chất liệu nhuần nhuyễn: Bi tráng và lãng mạn, hào hùng và hào hoa.

    + Hào hùng: Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn mạnh mẽ: Đoàn binh không mọc tóc" "Quân xanh màu lá" tương phản với "dữ oai hùm". Cả ba nét vẻ đều sắc góc cạnh hình ảnh những "Vệ túm" "Vệ trọc" một thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng thế mà quắc thước hiên ngang xung trận đánh giáp lá cà "dữ oai hùm" làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía." "Đoàn binh" gợi lên sự mạnh mẽ lạ thường của "Quân đi điệp điệp trùng trùng" của "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu" (sức mạnh ba quân nuốt trôi trâu). Ba từ "dữ oai hùm" gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt oai của chúa sơn lâm người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình làm chủ núi rừng chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh đạp bằng mọi gian khổ. "Mắt trừng" dữ tợn căm thù mạnh mẽ nung nấu quyết đoán làm kẻ thù khiếp sợ.

    + Tâm hồn Lãng mạn: Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa giữa bao nhiêu gian khổ thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa. Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội về quê hương.

    - 4 câu tiếp: Cái chết bi tráng và sự bất tử.

    "Rải rác biên cương mồ viễn xứ

    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

    Áo bào thay chiếu anh về đất

    Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

    + Hệ thống từ Hán Việt: Biên cương, mồ viễn xứ, chiến trường, áo bào, khúc độc hành → không khí trang trọng thiêng liêng.

    + Câu "rải rác.." toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính. Miêu tả về cái chết không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh mọc lên vô danh nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi miêu tả những người lính Tây Tiến ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.

    + Phủ định từ "chẳng" (so sánh với từ "không" : Sắc thái trung tính, liên hệ với cách nói "mặc kệ" trong câu: "Gian nhà không mặc kệ gió lung lay" ở Đồng chí của Chính Hữu) → thái độ kiên quyết hi sinh vì nghĩa lớn.

    Tinh thần chiến đấu "Chiến trường..". Ba từ "chẳng tiếc đời xanh" vang lên vừa gợi vẻ bất cần đồng thời mang vẻ đẹp thời đại "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh" cống hiến trọn đời vì độc lập tự do của đất nước của dân tộc.

    Dẫn chứng thêm:

    "Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,

    Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

    Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết

    Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông.."

    + Hiện thực: Người lính chết không có manh vải liệm chỉ có manh chiếu bọc thân nhưng vẫn xem cái chết nhẹ như lông hồng. Câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm cổ kính. Quang Dũng đã tráng lệ hóa cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hóa người lính nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Chết là về với đất mẹ "Người hi sinh đất hồi sinh/ máu người hóa ngọc lung linh giữa đời". Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca "Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

    Nói giảm nói tránh "anh về đất" → vợi đi cảm giác đau thương.

    + "Khúc độc hành" : Âm thanh át đi cảm xúc bi thương → gợi về sự ra đi của những anh hùng nghĩa sĩ thửa xưa, gợi nhớ dáng hình lẫm liệt của Kinh Kha bên bờ Sông Dịch thuở nào. → đưa tiễn người là khúc độc hành của núi sông → bất tử hóa hình ảnh người lính Tây Tiến

    → Sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính trang nghiêm. Lời thơ hàm súc vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng bi tráng. Hai cảm hứng lãng mạn và bi tráng đan cài dựng nên tượng đài bất tử trong thơ.

    4. Đoạn 4: Khúc vĩ thanh (Lời thề gắn bó với đoàn quân và miền Tây)

    "Tây Tiến người đi không hẹn ước

    Đường lên thăm thẳm một chia phôi

    Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

    Hồn về Sầm Nưa chẳng về xuôi"

    - Khái quát: Khép lại bài thơ, nhấn mạnh tinh thần chung của cả bài.

    - "Mùa xuân ấy" : Thời điểm lịch sử không bao giờ trở lại → mốc nhớ thương vĩnh viễn trong trái tim những người lính Tây Tiến một thời.

    - Nhịp thơ: Chậm, giọng thơ: Buồn: Nhưng tinh thần "chẳng về xuôi" vẫn mang linh hồn hào hùng của cả đoạn thơ.

    Bốn câu thơ khép lại một cảm xúc bâng khuâng làm lòng ta nao nao khó tả. Chàng trai Tây tiến khi ra đi đều không ước hẹn ngày về đều sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Vì vậy Cái chết với họ nào có là gì khi Hồn ta hòa vào hồn thiêng của toàn dân tộc bay lên bay lên mãi "chẳng về xuôi".

    * Lời thề vĩnh quyết của người lính, khúc vĩ thanh của bài thơ, lưu giữ mãi dư vang của một thời gian khổ khốc liệt nhưng không kém hào hùng lãng mạn.

    Đọc bài thơ:

    [Bài Thơ] Tây Tiến - Quang Dũng
     
    Last edited by a moderator: 16 Tháng chín 2022
  2. Đăng ký Binance
Từ Khóa:
Trả lời qua Facebook
Đang tải...