Giọt coaxecva (hay Coacervate) lần đầu tiên được ghi nhận vào năm 1924 bởi Aleksandr Ivanovich Oparin - một nhà bác học người Nga. Ông cho rằng: Trong khí quyển nguyên thuỷ bao quanh Trái Đất cổ xưa đã có nhiều hợp chất hữu cơ khác nhau, được sinh ra theo con đường phi sinh học. Những hợp chất này nặng hơn mọi chất khí, nên rơi xuống, ở đại dương tạo thành nồi súp nguyên thuỷ . Trong môi trường nước biển, những hợp chất này hỗn hợp với nhau, từ đó vô số những "giọt" keo rất nhỏ thuộc nhiều loại khác nhau gọi chung là coaxecva được hình thành. Do vậy ông đã tiến hành thí nghiệm với dung môi protein gelatin và vật liệu polysaccharide được gọi là gôm arabic trong nước từ đó ghi nhận sự hình thành của coaxecva mang những đặc điểm tương tự với tế bào sống. Chúng có lớp vỏ lipid giống với màng, có khả năng hấp thụ hàng loạt chất khác nhau từ lớp vỏ bao quanh, chứa enzyme có thể nhận các phần tử cơ chất và giải phóng các sản phẩm trở lại dung dịch bên ngoài. Ở các thí nghiệm cuối, hệ thống quang hợp đã được tạo nên bởi sự hình thành các giọt có chứa diệp lục. Thành phần các giọt coaxecva trong các lòng đại dương trước khi có sự sống là rất khác nhau nhưng chúng có thể mang một số đặc tính của hệ thống mô hình Oparin. Các giọt coaxecva chứa polynucleotide được xem là đã phát sinh ra những tế bào sống đầu tiên và từ các giọt coaxecva qua quá trình tiến hóa đã hình thành nên các dạng sống đa dạng và phong phú. Ảnh nhà bác học Aleksandr Ivanovich Oparin