Đông-A hùng truyện Tác giả: Nam Hoa Giới thiệu: Kể chuyện xưa, thuở Đông-A Hào khí giữ nước ông cha lẫy lừng Non sông gấm vóc chúng ta đang có được ngày hôm nay, là thành quả đấu tranh xây dựng và bảo vệ của biết bao thế hệ cha ông đi trước. Ngót ngàn năm Bắc thuộc, nền móng tự chủ được khởi nguồn từ họ Khúc, họ Dương, để rồi nền độc lập được khai sinh kể từ Ngô Vương Quyền sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938. Từ đó về sau, gần như triều đại phong kiến nào ở dải đất phương Nam chúng ta cũng đều phải trải qua những cuộc kháng chiến chống quân xâm lược từ phương Bắc. Nhà Tiền Lê có kháng chiến chống Tống xâm lược (năm 981) ; nhà Lý kháng chiến chống Tống xâm lược (năm 1075) ; nhà Trần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông (suốt nửa cuối thế kỷ XIII) ; nhà Hồ kháng chiến (thất bại) chống quân Minh xâm lược (năm 1407) ; nhà Hậu Lê được dựng nên sau cuộc khởi nghĩa ròng rã 10 năm chống quân Minh xâm lược.. Trong số đó, có lẽ chói lọi nhất là 3 cuộc kháng chiến ở đầu thời nhà Trần chống quân Nguyên – Mông, đế quốc hùng mạnh nhất thế giới đương thời. Chắc hẳn trong số chúng ta, hầu như ai cũng đều từng đọc hoặc nghe về các giai thoại, các câu chuyện về thời kỳ hào hùng này: Nào giai thoại thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản vô tình bóp nát quả cam vì không được họp bàn kế sách đánh giặc do chưa đủ tuổi; nào chuyện các bô lão đầu tóc bạc phơ, nắm tay rần rần hô "Đánh" ở điện Diên Hồng khi được nhà vua hỏi ý kiến khi giặc lăm le bờ cõi; nào giai thoại về anh hùng Trần Bình Trọng, thà "làm quỷ nước Nam" chứ không thèm "làm vương đất Bắc"; nào giai thoại về tướng giặc Thoát Hoan thua trận nhục nhã phải "chui vào ống đồng" cho lính kéo chạy trối chết về bên kia biên giới.. rồi những trận đánh vang dội của quân dân nhà Trần ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, và nổi bật nhất là trận Bạch Đằng năm 1288 làm tê liệt hẳn âm mưu xâm lược Đại Việt của nhà Nguyên. Đông-A hùng truyện là câu chuyện "dã sử diễn ca" về thời đại anh hùng ấy. Được phóng tác dựa trên các tình tiết của một số tiểu thuyết lịch sử, câu chuyện không đi quá sâu vào một/vài cá nhân nào, mà nặng về việc kể lại diễn biến, quá trình của 3 cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên ở đầu thời Trần, kéo dài trong suốt nửa cuối thế kỷ XIII. Mời các bạn theo dõi. (Các chú giải do người viết tìm tòi ở các tài liệu, có cả chính sử, có cả dã sử, và có cả những vấn đề được nhìn nhận dưới góc nhìn của người viết) Các chương của câu chuyện: - Chương 1: CUỘC XÂM LƯỢC CỦA QUÂN MÔNG CỔ - Chương 2: QUÂN TA PHẢN CÔNG, PHÁ GIẶC - Chương 3: NHÀ NGUYÊN XÁC LẬP, DÒM NGÓ PHƯƠNG NAM - Chương 4: HƯNG ĐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN - Chương 5: HỘI NGHỊ BÌNH THAN - Chương 6: HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG, CÁC BÔ LÃO QUYẾT ĐÁNH YẾT KIÊU TRUNG DŨNG, CỨU CHỦ Ở BÃI TÂN - Chương 7: GIẶC TIẾN SÁT THĂNG LONG - Chương 8: ANH HÙNG TRẦN BÌNH TRỌNG - Chương 9: CÔNG CHÚA AN TƯ - Chương 10: NGHỮNG NGÀY GIAN KHỔ - Chương 11: TRẬN A LỖ - Chương 12: TRẬN HÀM TỬ - Chương 13: THIẾU NIÊN ANH HÙNG TRẦN QUỐC TOẢN - Chương 14: CHI LĂNG, THOÁT HOAN CHUI ỐNG ĐỒNG TÂY KẾT, TOA ĐÔ BAY THỦ CẤP - Chương 15: KHÚC KHẢI HOÀN LẦN 2 - Chương 16: "NĂM NAY THẮNG GIẶC DỄ" - Chương 17: TRẬN VÂN ĐỒN - Chương 18: CHÉM PHẠM NHAN, TRIỆT ÍCH TẮC - Chương 19: QUÂN NGUYÊN THIẾU ĐÓI - Chương 20: TẨU VI THƯỢNG SÁCH - Chương 21: BÀY TRẬN BẠCH ĐẰNG - Chương 22: ÉP GIẶC VÀO RỌ - Chương 23: SÔI SỤC BẠCH ĐẰNG GIẾT GIẶC - Chương 24: ĐẤT NƯỚC THÁI BÌNH Các tài liệu nguồn: - Trần Thủ Độ & sự nghiệp nhà Trần – Ngô Văn Phú, NXB Văn học – 1995. - Trần Quang Khải, tể tướng thời tao loạn – Ngô Văn Phú, NXB Hội nhà văn – 2000. - Danh tướng Trần Hưng Đạo – Hoàng Công Khanh, NXB Văn học – 1995. - Yết Kiêu – Giang Hà Vị-Viết Linh, NXB Thanh niên – 2005 Link góp ý: [Thảo luận - Góp ý] - Các tác phẩm sáng tác của Nam Hoa
CHƯƠNG 1: CUỘC XÂM LƯỢC CỦA QUÂN MÔNG CỔ Lật xem lịch sử cha ông Ngày xưa thắng giặc Nguyên - Mông ba lần Chuyện xảy ra đầu thời Trần Quân Mông khi đó muôn phần hung hăng Vó ngựa vượt khỏi sông Hằng Thành Cát suýt nữa đạp bằng châu Âu Nhà Trần dựng nghiệp chưa lâu Đế quốc Mông Cổ tiến vào Trung Nguyên Kim diệt, Nam Tống ngả nghiêng Quân Mông một nhánh thọc miền Vân Nam Nước Đại Lý sớm đầu hàng Quân Mông Cổ tiến thẳng sang nước mình Ngột Lương Hợp Thai¹ điểm binh Dẫn theo ba vạn kỵ binh kiêu hùng (Vào năm Đinh Tỵ, cuối đông Nhằm năm thứ 7 Nguyên Phong triều Trần[2] ) Thế giặc tiến mạnh muôn phần Các lộ biên giới dần dần lui quân Vua Thái Tông mới đích thân Đem quân chặn giặc ở gần sông Lô (Ở kinh, Quốc mẫu Linh Từ[3] Lo rút hoàng tộc, anh thư vẹn tuyền ) Đụng trận ở Bình Lệ Nguyên[4] Quân Mông đóng gấp bè thuyền vượt sông Tướng Triệt Triệt Đô[5] tiên phong Không đánh trực diện, đánh vòng sườn ta Thái Tông voi ngự xông ra Thúc quân đánh giặc rất là oai phong Nhưng vốn thiện chiến, quân Mông Vẫn né trực diện, đánh vòng hậu quân Dẫu hậu quân rối, Lê Tần[6] Vẫn bình tĩnh chặn đánh quân giặc thù Trung quân giặc vượt sông Lô Dồn sang lớp lớp tự hồ sóng hung Quân Trần bị ép vào thung Vẫn đánh quyết liệt anh hùng hiên ngang Sáu lộ quân Thái Tông mang[7] Bung ra chiến đấu chẳng màng tiếc thân Tần khuyên vua hãy lui quân Tránh thế giặc mạnh, lực quân bảo toàn Đúng lúc, Cự Chích[8] tử thương Quân giặc ào lại tính đường hại vua Tên giặc bắn tới như mưa Lê Tần múa mộc xông bừa ra che Thái Tông lệnh rút quân về Tần đi chặn hậu, trổ khoe oai thần Quân Mông Cổ khiếp sợ Tần, Quân ta vừa kịp rút dần về sau Vượt qua ngã ba sông Cầu Giặc vẫn đuổi rát phía sau ào ào Tần bèn cho phá cầu phao Quân ta rút hết, giặc vào Thăng Long Lúc này thành trống, nhà không Dân tình rút hết ra vùng ngoại vi Tể tướng Nhật Hiệu rút đi Bị giặc truy đuổi, Hiệu thì sợ run Gặp vua vẫn sợ mất khôn Tính chuyện "nhập Tống" bảo tồn tấm thân[9] * * * 1. Ngột Lương Hợp Thai :(Uriyangqatai) – viên dũng tướng Mông Cổ từng tham gia đánh chiếm các nước Kim, Đức, Ba Lan, Ả Rập, Đại Lý. Cha của Uriyangqatai là Subotai (Tốc Bất Đài), một trong "Tứ dũng" của Thành Cát Tư Hãn. Uriyangqatai và con trai là Aju được xếp vào hàng công thần thứ 3 của nhà Nguyên. 2. Cuối năm 1257 3. Quốc mẫu Linh Từ: Bà Trần Thị Dung, vợ Thái sư Trần Thủ Độ. Bà và Trần Thủ Độ vốn là chị em họ con chú bác. Trước đây bà được gả cho vua Lý Huệ Tông và sinh được 2 con gái, trong đó con gái lớn gả cho Trần Liễu, con của Trần Thừa anh ruột bà. Con gái thứ hai của bà với vua Lý Huệ Tông về sau được truyền ngôi – tức là vua Lý Chiêu Hoàng, nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử nước ta – rồi được gả cho Trần Cảnh, là em ruột Trần Liễu, và sau đó là cuộc chuyển giao ngôi báu từ nhà Lý sang nhà Trần dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung (Lý Chiêu Hoàng 7 tuổi nhường ngôi cho chồng Trần Cảnh 8 tuổi). Nhà Trần xác lập, Lý Huệ Tông sau đó bị Trần Thủ Độ ép phải chết, Trần Thị Dung và Trần Thủ Độ lấy nhau. Trần Thủ Độ được phong Thái sư, vợ ông được phong Linh Từ Quốc mẫu. 4. Bình Lệ Nguyên: được cho là nằm tại xã Tam Canh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay. 5. Triệt Triệt Đô :(Cacakdu) viên tướng Mông Cổ, sau trận này đã tự sát vì bị Ngột Lương Hợp Thai trách tội không bắt được vua Trần. 6. Lê Tần: Danh tướng thời Trần, sau cuộc kháng chiến chống Mông Cổ được vua Trần ban tên Lê Phụ Trần và gả công chúa Chiêu Thánh (vốn là vua Lý Chiêu Hoàng triều Lý, vợ cũ vua Trần Thái Tông. Vì ở với nhau lâu không có con, nên Trần Thủ Độ ép vua Thái Tông lập vợ của Trần Liễu – cũng là chị ruột của Chiêu Thánh – đang có thai 3 tháng làm hoàng hậu và giáng Chiêu Thánh từ hoàng hậu xuống thành công chúa Chiêu Thánh). 7. Sáu lộ quân: là các quân Thiên Thuộc, Thiên Chương, Thánh Dực, Chương Thánh, Thần Sách, Củng Thần - toàn bộ quân chủ lực nhà Trần lúc đó. 8. Phạm Cự Chích: Tướng nhà Trần, hy sinh khi cản hậu cho đại quân của vua Thái Tông rút lui trong trận Bình Lệ Nguyên. 9. Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển V chép: Thế giặc rất mạnh, vua lại phải lui giữ sông Thiên Mạc. Phụ Trần theo vua bàn những việc rất cơ mật, rất ít người biết được điều đó. Vua ngự thuyền nhỏ đến thuyền Thái úy Nhật Hiệu hỏi kế sách (chống giặc). Nhật Hiệu đương dựa mạn thuyền, cứ ngồi chứ không đứng dậy nổi, chỉ lấy ngón tay chấm nước viết hai chữ "nhập Tống" lên mạn thuyền. Vua hỏi quân Tinh Cương ở đâu? (Tinh Cương là quân do Nhật Hiệu chỉ huy). Nhật Hiệu trả lời: "Không gọi được chúng đến". (Còn tiếp)
CHƯƠNG 2: QUÂN TRẦN PHẢN CÔNG, PHÁ GIẶC .. Tể tướng Nhật Hiệu rút đi Bị giặc truy đuổi, Hiệu thì sợ run Gặp vua vẫn sợ mất khôn Tính chuyện "nhập Tống" bảo tồn tấm thân Vua giận lắm, nhưng phân vân Tiếp tục tìm đến hỏi Trần Thái sư [10 ] Trần Thủ Độ giận, hầm hừ: " Tể tướng sợ chết, hèn như vậy à? Khi nào đầu Thủ Độ ta Chưa rơi xuống đất, Quan gia [ 11 ] khỏi bàn " Vua nghe, lòng lại thấy an Bèn cùng tả hữu lo bàn quân cơ. Giặc đóng quân dọc sông Lô Cướp phá, vơ vét xác xơ cả miền Dân ta không để giặc yên Đánh du kích, giặc sợ điên tức cuồng Vua lui về mạn Thiên Trường Họp với các tướng, tính đường phản công Tần bàn: "Giặc ở Thăng Long Muốn đánh, mở rộng đất Mông phía này Tạo thế gọng kìm bao vây Diệt nhà Nam Tống, lấp đầy Trung Nguyên Nhưng nay tình thế biến thiên Kẹt ở đây, sợ mất miền Vân Nam Chúng đang tiến thoái lưỡng nan Lúng túng phương lược, họp bàn không xong Nếu giờ ta tổng phản công Chắc chắn chúng bỏ Thăng Long chạy về " Vua và Thủ Độ bèn nghe Hợp quân thủy - bộ tiến về kinh đô Nghi binh Thiên Mạc, Mạn Trù Thủy trại cờ xí toàn bù nhìn rơm Khiến giặc khinh địch, coi thường Quân ta sáu đạo chia đường về kinh. Vua thân nắm đạo thủy binh Ngược sông Hồng tiến sát mình Thăng Long Đổ bộ hữu ngạn sông Hồng Thánh Dực, Thần Sách đánh Đông Bộ Đầu [12 ] Quân giặc vỡ trận rất mau A Truật [13 ] phò mã thua đau Thạch Bàn Khánh Dư thúc quân đánh tràn Ba mũi công phá, giặc tan, máu nhoè Ngột Lương Hợp Thai im re Vội vàng ra lệnh rút về Vân Nam Quân giặc ba vạn kéo sang Ba phần còn một, tan hoang chạy về Qua vùng Quy Hóa sơn khê Hà Bổng chặn đánh, thêm bề tả tơi. Qua ngày ông Táo về trời Quân dân nô nức lại dời về kinh Ăn Tết Mậu Ngọ linh đình Quét sạch giặc dữ, thái bình yên vui Thưởng công, phạt tội từng người Lê Tần công lớn được ngồi gần vua Lại đem Chiêu Thánh gả cho [14 ] Cả nước đón Tết ấm no mọi nhà Tháng Hai có chiếu ban ra: " Giặc vừa bại trận, nhưng mà chưa thôi Nay Đức vua sẽ nhường ngôi Để Thái tử Hoảng được ngồi lên ngai Lo dần công việc lâu dài " Thái Tông lui lại, ở vai Thượng hoàng Đất nước sạch bóng sài lang Nhà nhà yên ấm, mùa màng bội thu Trước dã tâm của giặc thù Triều đình cảnh giác, cương - nhu nhịp nhàng Trần Nhật Duật trấn Đà Giang Quốc Khang, Quang Khải vào Hoan, Diễn rồi Đinh Sửu [15 ] , Thái Tông về trời Thánh Tông năm tiếp[ 16 ] về ngôi Thượng hoàng Nhân Tông tiếp quản ngai vàng Hưng Đạo Vương trấn An Bang, Vân Đồn Chẳng bao lâu, trận Nhai Sơn [17 ] Vua Tống bại trận, ngậm hờn tuẫn thân Từ Tể tướng đến quan quân Trầm mình tuẫn tiết, muôn phần bi thương * * * 10. Trần Thái sư: chỉ Trần Thủ Độ, lúc đó đang mang chức Thái sư. Tuy nhiên lúc này ông đã lớn tuổi (khoảng 65 tuổi) nên không thân chinh cầm quân ra trận nữa. 11. Quan gia: cách gọi của quần thần với vua Trần 12. Đông Bộ Đầu: có nghĩa là bến sông phía Đông (của kinh thành Thăng Long) – là một địa điểm nổi tiếng, đã được các nhà sử học xác định là khu vực chùa Hòe Nhai, phố Hàng Than hiện nay, dựa trên các tài liệu chính sử và văn bia tại chùa Hòe Nhai. 13. A Truật: (Aju) viên tướng Mông Cổ - con trai Ngột Lương Hợp Thai, là cháu nội của Tốc Bất Đài – từng là chủ soái chỉ huy cuộc tấn công của quân Mông Cổ diệt Nam Tống. Aju chính là vị tướng trực tiếp hạ thành Tương Dương và Phàn Thành bên nước Tống, đẩy nhà Nam Tống vào con đường diệt vong. 14. Chiêu Thánh: T ức công chúa Chiêu Thánh, cũng là vị vua cuối cùng của triều Lý – Lý Chiêu Hoàng – là nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Việt Nam. Sau khi bị Trần Thủ Độ đạo diễn cưới Trần Cảnh và sau đó nhường ngôi cho chồng lúc mới 7 tuổi, bà được vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) phong làm Chiêu Thánh Hoàng hậu. Năm 1237 (bà 19 tuổi) do lâu không có con với vua nên bị (Thủ Độ ép vua) phế truất xuống thành Chiêu Thánh công chúa. Người kế vị ngôi hậu lại chính là chị ruột của bà (và đang là vợ của anh ruột vua), sau này sinh ra vua Thánh Tông, Trần Quang Khải. Năm 1258, ở tuổi 40, bà được gả cho Lê Phụ Trần và có với ông 2 người con (trong đó có thuyết nói danh tướng anh hùng Trần Bình Trọng chính là con trai bà – nhưng không chứng minh được rõ ràng). Bà mất năm 1278. 15 . Đinh Sửu :(Năm 1277) vua Trần Thái Tông mất. 16. Năm 1278: Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Khâm – vua Trần Nhân Tông. 17. Trận Nhai Sơn: là trận hải chiến diễn ra vào ngày 19/3/1279 trên vùng biển ngoài khơi Nhai Môn, Quảng Đông. Dù chỉ có lực lượng bằng một phần mười đối phương, quân Nguyên đã đánh bại hoàn toàn quân Tống, trận chiến khiến cho hơn 100.000 binh lính, quan lại của nhà Tống thiệt mạng trong đó có ông vua cuối cùng của nhà Tống, do phụ chính đại thần Lục Tú Phu ôm theo nhảy xuống biển tự vẫn. Trận Nhai Sơn đã đánh dấu sự diệt vong của nhà Tống và hoàn thành quá trình chinh phục Trung Hoa của người Mông Cổ. (còn tiếp)
CHƯƠNG 3: NHÀ NGUYÊN XÁC LẬP, DÒM NGÓ PHƯƠNG NAM .. Chẳng bao lâu, trận Nhai Sơn Vua Tống bại trận, ngậm hờn tuẫn thân Từ Tể tướng đến quan quân Trầm mình tuẫn tiết, muôn phần bi thương Nhà Nguyên xác lập, hùng cường Diệt xong Nam Tống, tìm đường đánh ta. Biết là thống nhất Trung Hoa Nhà Nguyên tất sẽ nhòm qua nước mình Trước sau, hạch sách linh tinh, Nhân Tông bèn phái chú mình sang Nguyên Đem cống lễ vật khắp miền Nhún mình xuống trước để xin hiếu hòa Nhà Nguyên mua chuộc sứ ta Phong Trần Di Ái[18 ] được là Quốc vương. Di Ái bạc nhược tầm thường Lê Tuân, Lê Mục cũng phường tham vinh Ham vinh, phản bội nước mình Quân Nguyên hộ tống linh đình về Nam. Biết tin Di Ái vì tham Làm nhục mệnh chúa, can làm tay sai Triều đình sắp đặt an bài Phục binh bắt gọn hết loài Việt gian Vua Nguyên càng lúc càng ngang Quán dịch[19 ], sứ bộ mở mang thêm nhiều Sứ Nguyên nghênh ngang vào triều Quân Nguyên đốn gỗ đóng nhiều thuyền to Lý Hằng[20 ], Lý Quán, Toa Đô Cùng với Ô Mã[21 ] chực chờ vùng biên Quân dân ta khắp mọi miền Sẵn sàng chuẩn bị kết liên mọi nhà. Tên sứ giặc Sài Thung qua Nghe Ái bị bắt, nạt ta đủ điều Thượng tướng Quang Khải[22 ] nghênh chiêu Thung nằm quán dịch đến chiều không ra Hưng Đạo Vương giả sư già Thung tưởng gián điệp[23 ], bèn ra mời vào Ân cần đón tiếp, mời chào Vương bèn cười nói: "Tôi nào phải sư" Sài Thung ngượng, mặt đỏ dừ Giở giọng quát nạt y như thằng khùng Hưng Đạo Vương đáp ung dung Cương - nhu kín kẽ, làm Thung tịt ngòi Lính Thung lấy mũi tên chòi Đầu Vương chảy máu, vẫn ngồi an nhiên[24 ] Thung sợ, về lại nước Nguyên Kéo theo phẩm vật qua miền biên cương Gặp phải viên tướng địa phương Đón sứ, bị đánh giữa đường khi xưa[25 ] Thấy Thung phẩm vật vét vơ Uất hận ngùn ngụt, bắn bừa một tên Thung ôm mắt trái thét lên Được lính hộ vệ, đeo tên chạy về. Hai vua chiều ấy xuống ghe Cùng Trần Quang Khải xuôi về An Bang Gặp Trần Hưng Đạo họp bàn Tính kế khi giặc sắp tràn biên cương. * * * 18. Trần Di Ái: Thực tế là chú họ vua Thánh Tông. Năm 1281 nhà Nguyên đòi vua Nhân Tông sang chầu, nhà Trần kiếm cớ từ chối và cử Ái "là chú vua" đi thay. 19. Quán dịch: Là các nhà trạm do nhà Nguyên (ngang nhiên đòi) dựng lên ở nhiều nơi trên đất Đại Việt, để bọn sứ Nguyên có chỗ ăn nghỉ khi sang sứ nước ta. 20. Lý Hằng: Viên đại tướng xuất sắc của nhà Nguyên, người Đảng Hạng (Tây Hạ. 21. Toa Đô (Sagotu), Ô Mã Nhi (Omar) : Các viên dũng tướng Mông Cổ trong triều Nguyên. Triều Nguyên do người Mông Cổ lập nên ở Trung Hoa sau khi diệt nhà Tống, nên trong triều cũng như trong quân đội, có cả các quan, tướng người Hán và "người Mông Cổ" - bao gồm cả người các dân tộc Trung Á khác, như Ô Mã Nhi là người vốn có gốc gác từ đế quốc Khwarezm (phiên âm tiếng Hán là "Hoa Thích Tử Mô", ngày nay là Uzbekistan) 22. Thượng tướng Quang Khải: Chiêu Minh Vương Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải. - Chiêu Minh Vương (sau được phong là Chiêu Minh Đại Vương) là tước phong của triều đình; - Thượng tướng Thái sư là chức vụ tại triều đinh. Tước phong và chức vụ trong triều đình là hai việc độc lập với nhau. Có nhiều người có tước phong, nhưng không mang chức vụ gì (không tham gia vào bộ máy điều hành đất nước). Ví dụ Hưng Đạo (Đại) Vương Trần Quốc Tuấn, ông mang tước rất cao (Đại Vương), nhưng lại không tham gia triều chính nên không có chức vụ gì trong triều. Năm 1283, Trần Quốc Tuấn được phong Quốc Công, tiết chế thống lĩnh quân đội toàn quốc. Tuy Quốc Công ở đây là một chức danh, tuy nhiên đối với Trần Quốc Tuấn, nó là chức danh tạm thời, ông chỉ là "nguyên soái" tạm thời trong cuộc chiến. Vì chức nguyên soái thực tế của nhà Trần là chức "Thượng tướng quân" (Trần Quang Khải). Trần Hưng Đạo tuy "thống lĩnh quân đội toàn quốc" nhưng không trực tiếp ra lệnh cho Thượng tướng Trần Quang Khải được (ông phải "xin vua sai Quang Khải đem quân vào đóng ở Nghệ An" – theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục). 23. Thời đó nhà Nguyên thường phái lực lượng gián điệp sang Đại Việt, Chiêm Thành thể dò la thu thập tin tức, lực lượng này thường được núp dưới vỏ bọc các nhà sư. 24. Tương truyền, sau khi biết được Hưng Đạo Vương giả sư để lừa được Sài Thung ra tiếp chuyện, lính của Thung nấp sau lưng Vương, lấy mũi tên nhọn chích vào đầu Vương trong lúc Vương và Thung đang nói chuyện. Tuy bị tên chọ chảy máu đầu, nhưng sắc mặt Vương hoàn toàn bình thản, vẫn đối đáp với Thung như không có chuyện gì. 25. Chuyện kể rằng, Sài Thung sang sứ nước ta rất hống hách. Vào Thăng Long, y ngông nghênh đi thẳng vào cửa chính Dương Minh – là cửa chỉ dành cho vua đi – mà không chịu đi lối cửa Nhật Tân và Văn Hội hai bên. Viên tiểu tướng canh cửa Dương Minh xông ra cản lại, liền bị Thung ngồi trên lưng ngựa rút roi quất vào đầu chảy máu. Tuy nhiên vì chủ trương triều đình khi đó là hết sức nhún nhường nên Thung vô sự. (còn nữa)
CHƯƠNG 4: HƯNG ĐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN .. Hai vua chiều ấy xuống ghe Cùng Trần Quang Khải xuôi về An Bang Gặp Trần Hưng Đạo họp bàn Tính kế khi giặc sắp tràn biên cương. (Hưng Đạo với Chiêu Minh Vương Đại diện hai nhánh, vừa thương, vừa kình Thương, vì ruột thịt gia đình Kình, vì sự biến ở kinh năm nào[26] Gặp khi vận nước lao đao Cả hai tìm cách gỡ rào cản xưa Ngày nọ, trời lạnh, lại mưa Hưng Đạo Vương lại kinh sư họp bàn Xong xuôi, Quang Khải ghé sang Thuyền của Vạn Kiếp đang ràng bên sông Hai người bàn tiếp việc chung Mải mê việc nước mà không ngó giờ Cuối ngày, trời vẫn lạnh mưa Hưng Đạo thấy vậy mới đưa mấy lời: "Mấy khi Thượng tướng ghé chơi Lại bàn việc nước, giúp tôi tỏ tường Nhân trời mưa lạnh bất thường Nước thơm đã nấu, xin đừng chấp nê Mình mẩy cáu bẩn hết kìa Xin mời vào tắm, để về thơm tho" Nói rồi, không đợi không chờ Nắm tay Quang Khải và đưa vào phòng Tự tay giội nước, chà lưng Nước nóng nấu lá thơm lừng bốc lên - Hưng Đạo thích tắm thường xuyên Quang Khải vốn ngại tắm nên rất lười - Hưng Đạo giội nước và cười: "Hôm nay được tắm cho ngài Thái sư" Quang Khải cũng mới vui đùa: "Được Quốc công tắm rửa cho sạch rồi" Thế là từ đó hai người Rũ bỏ hiềm khích, sánh vai thân tình Người gánh vác việc triều đình Người lo bao quát tình hình biên cương[27] ) Lại nói về Hưng Đạo Vương Binh pháp, trận thế, đao, thương gồm tài Thao lược có một không hai Môn khách, gia tướng, toàn người giỏi giang Từ Vạn Kiếp đến An Bang Chí Linh, đến Lục Đầu Giang sóng tràn Quân tinh nhuệ, dân an khang Thủy - bộ luyện tập không màng nắng mưa Hán Siêu lo việc giấy tờ Yết Kiêu, Dã Tượng quân cơ hơn người Yết Kiêu nổi tiếng tài bơi (Tên Phạm Hữu Thế, gốc người Hải Đông[28] Nhà nghèo, chài lưới trên sông Bơi lặn rất giỏi, cá không hơn nhiều Tương truyền, vào một buổi chiều Ông về nhà, xách theo nhiều cá tôm Bỗng ngang qua bãi đầu thôn Có 2 trâu trắng đang gồng húc nhau Chúng ghì sừng húc rất lâu Quần thảo tới tối lúc nào không hay Tiện có đòn ống trong tay Ông xông vào quật cả hai trâu này Hai trâu bị quật mấy tay Phi xuống sông, biến mất ngay thình lình Biết cặp trâu đó rất linh Thấy trên đòn ống của mình dính lông Ông bèn đem nuốt vào lòng Thế là từ đó sức ông phi thường Bơi lặn như đi trên đường Vài ngày dưới nước là thường với ông Có cơ duyên gặp Quốc Công Ông mê đánh giặc, một lòng xin theo Được ban tên mới: Yết Kiêu Tham gia chinh chiến lập nhiều chiến công) Dã Tượng là bạn của ông Hai người phò tá Quốc Công tuyệt vời Yết Kiêu giỏi lặn, tài bơi Dã Tượng, sức khỏe như voi trên rừng Phạm Ngũ Lão cũng anh hùng Tinh thông võ nghệ, giỏi dùng binh thư (Người làng Phù Ủng ngày xưa Chí khí, khảng khái, không ưa thủ thường Một lần, đan sọt bên đường Mải nghĩ đến việc quê hương an bình - Khi đó gặp lúc tình hình Việt – Nguyên đang lúc việc binh căng dần - Bỗng trên đường có toán quân Trảy ngang Phù Ủng, đến gần chàng trai Mải nghĩ, mọi việc ngoài tai Chàng vẫn yên lặng, miệt mài tay đan Lính quát tháo, dẹp đường quan Chàng trai vẫn cứ ngồi đan bên đường Người lính bèn rút cây thương[29] Đùi bị đâm trúng, vẫn dường như không Nhận thấy có sự lạ lùng Vị quan ra hiệu quân dừng, xuống xem Lúc này chàng mới ngửng lên Nhận ra Hưng Đạo Vương, bèn cúi thưa: "Lỡ không biết Đức ông qua, Thần, Phạm Ngũ Lão vốn là nông dân Ngèo không đất ruộng làm ăn Đành hành nghề bán sọt đan kiếm tiền Nay đang mải nghĩ liên miên Về binh thư đến mức quên chuyện ngoài Nên lỡ mạo phạm đến ngài Xin được xá tội, mong ngài thể cho" Hưng Đạo vương thấy khôi ngô Hỏi thêm, lại thấy binh thư thông tường Bèn sai lính dịt vết thương Đem chàng theo với lính Vương về triều Về sau, chàng lập công nhiều Hưng Đạo tiến cử vào triều làm quan Trải dài qua mấy triều Trần Song toàn văn võ, tiếng lành ngàn thu) * * * 26. Sự biến năm 1237: Khi Trần Thủ Độ ép Thái Tông Trần Cảnh lấy vợ của anh là Trần Liễu (đang có mang 3 tháng), khiến Liễu uất ức nổi loạn ở sông Cái. Vụ việc bất thành, tuy nhiên Thái Tông vẫn hết sức bảo vệ anh mình khỏi bị Trần Thủ Độ (là chú của 2 anh em) giết hại. Liễu là con trưởng của Trần Thừa, Cảnh là con thứ, ngai vàng cuối cùng lại nằm ở ngành thứ. Đến đời thứ hai, các con của Thái Tông và Trần Liễu, không kể Trần Quốc Khang mang danh là con trưởng của Thái Tông nhưng thực tế lại là con của Trần Liễu, tiếp đến là Trần Hoảng ngồi trên ngai vàng (vua Trần Thánh Tông), thì Trần Quang Khải có thể coi là gương mặt tiêu biểu của ngành thứ, khi ông gánh vác các chức vụ quan trọng nhất của triều đinh. Bên ngành trưởng, Tuệ Trung Thượng Sỹ Trần Tung cũng là bậc kiệt hiệt, nhưng ông lại theo con đường tu hành, giặc đến thì cầm quân đánh giặc, giặc tan lại trở về với sách thiền, cho nên Trần Quốc Tuấn trở nên gương mặt trụ cột của ngành trưởng. Hiềm khích của cha chú không thể nói không ảnh hưởng đến các con, giữa Trần Quang Khải và Trần Quốc Tuấn trước đó cũng rất giữ ý với nhau, chứ không thân thiết, dù họ là anh em họ rất gần. 27. Về giai thoại này, Đại Việt sử ký toàn thư chép: Một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải: "Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm", rồi cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: "Hôm nay được tắm cho Thượng tướng". Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm rửa cho". Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng văn, tướng võ, giúp rập nhà vua, hai ông đứng hàng đầu. 28. Quê Yết Kiêu ở là làng Hạ Bì, Gia Lộc, Hải Dương. Thời Trần thì đất Hải Dương có lúc mang tên Hải Đông. 29. Thương: Nguyên bản trong giai thoại là cây giáo. (còn nữa)
CHƯƠNG 5: HỘI NGHỊ BÌNH THAN .. Về sau, chàng lập công nhiều Hưng Đạo tiến cử vào triều làm quan Trải dài qua mấy triều Trần Song toàn văn võ, tiếng lành ngàn thu) Hưng Đạo Vương gác chuyện tư[ 30 ] Một lòng vì nước, không từ gian nan Khi giặc sắp sửa kéo sang Vua mở Hội nghị Bình Than - Lục Đầu Tập trung tướng tá, vương hầu Bàn kế chống giặc, trước sau rõ ràng. Quốc Toản xuống bến Bình Than Nằng nặc đòi được vào bàn quân cơ Lính canh giữ lại trên bờ Quốc Toản không chịu, la to đòi vào Vua nghe trên bến lao xao Bèn truyền cho lính gác vào trình tâu Khi biết chuyện Hoài Văn Hầu Vua khen ngợi Toản, xoa đầu thưởng cam (Trên bờ, Toản vẫn hầm hầm Tay bóp nát mất quả cam lúc nào. Bèn về may ngọn cờ đào Chiêu mộ trai tráng, sung vào đội quân "Phá cường địch, báo hoàng ân" Cờ thêu sáu chữ, luyện quân miệt mài ). Bình Than, trước buổi thứ hai Vua đang đứng ngắm sông dài mênh mang Chợt thấy một chiếc thuyền nan Vun vút lướt sóng, chất than củi đầy Một trung niên, dáng cao gầy Nón tơi, áo chẽn ngắn tay trên thuyền Vua chợt nhận thấy quen quen Trong lòng nghi hoặc, bèn truyền đuổi theo Thuyền than vẫn lướt vèo vèo Ông lão ngoái đáp: "Tôi theo nghề này Bán than kiếm sống qua ngày Vương hầu hội họp, tôi hay biết gì ?" Vua nghe khẩu khí càng nghi Không phải quý tộc, chắc gì dám ngang? Bèn truyền, đòi chủ thuyền than Thấy: Dáng vàng võ, phong trần hằn sâu Nhưng ẩn bên dưới tóc râu Là vẻ quắc thước vương hầu kinh sư Còn ai khác Trần Khánh Dư Năm xưa bị tội, ẩn cư nơi này Bán than kiếm sống qua ngày (Xưa, Khánh Dư cũng là tay lẫy lừng Đinh Tỵ, thắng trận tưng bừng [ 31] Được ghi công lớn khi mừng chiến công Sau, lại mắc tội tư thông Với vợ Quốc Nghiễn [32] , lúc ông vắng nhà Vua bắt tội, chiếu ban ra: Dùng gậy đánh chết, mới là đáng thân. Nhưng nghĩ, Dư cũng công thần Bèn dặn chấp pháp có phần nương tay Đánh cho đau, ốm chục ngày Cắt hết quan tước, đuổi ngay khỏi thành Dư bèn về lại Chí Linh Vốn là đất của cha mình [33] khi xưa Đất ấy đồn trại lưa thưa Bổng lộc cũng ít, chẳng vừa đủ ăn Đích thân Dư phải ủ than Tình cờ hôm ấy đi ngang Lục Đầu ) Gặp Dư, vua cũng ngẹn ngào Dư khóc, phục xuống lạy chào hai vua Nhân Tông bèn xá tội xưa Lại cởi áo ngự để đưa Dư choàng Cho vào hội nghị họp bàn (Xưa nay Dư vốn dọc ngang Vân Đồn ) Khánh Dư phát biểu hùng hồn Bàn việc quân thuỷ, thiệt hơn rạch ròi: "Nước ta chằng chịt sông ngòi Quân thủy cơ động, tiến lui thần tình, Lại nên phòng mặt Chiêm Thành Đề phòng Nguyên sẽ đánh quành trở lên" Giọng Khánh Dư vẫn vang rền Gian khổ vẫn giữ được nền tảng xưa. Quả nhiên, Dư tính không thừa Thông tin mật báo: Nguyên vừa khởi binh Toa Đô đi đánh Chiêm Thành Tạo gọng kìm đánh nước mình phía sau Nhâm Ngọ [ 34] , từ đất Quảng Châu Thủy quân Nguyên kéo đánh vào đất Chiêm. Chiêm Thành quân kỷ rất nghiêm Toa Đô đánh mãi, xin thêm quân nhà Viện binh vạn rưỡi kéo qua Gặp cơn bão biển, tan ra muôn đường [ 35] Toa Đô khốn đốn vô phương, Tiến vào Ô - Lý, gần đường Nghệ An (Thực ra, khi đó Quốc Khang Ngầm gửi lương thảo giúp sang Chiêm Thành [ 36] ) Giặc đóng quân sát nước mình Đốn gỗ dựng thành, cướp phá thảo lương Quan trấn thủ Tĩnh Quốc Vương Điều binh án ngữ, chặn đường vùng biên * * * 30. Cha Hưng Đạo Vương là Trần Liễu, anh ruột vua Thái Tông (Trần Cảnh). Năm 1237 Thái Tông ở ngôi đã 19 năm mà không có con (với hoàng hậu Chiêu Thánh), Trần Thủ Độ ép Thái Tông phế truất Chiêu Thánh, lại lập chị của Chiêu Thánh – là vợ của Trần Liễu đang mang thai 3 tháng – làm hoàng hậu. Liễu phẫn uất nổi loạn, nhưng sớm thất bại. Trần Thủ Độ muốn giết Liễu, nhưng vua Thái Tông ra sức che chở cho anh mình. Tương truyền, trước khi mất, Trần Liễu dặn Trần Quốc Tuấn phải cướp lại ngôi báu, và "Quốc Tuấn nghe, nhưng không cho là phải" 31. Đinh Tỵ (năm 1258) : Chiến thắng quân Mông Cổ (lần 1) 32. Hưng Vũ Vương Quốc Nghiễn: Là con trai Hưng Đạo Vương. Sử chép rằng Khánh Dư thông gian với vợ Nghiễn, vua ngại Hưng Đạo Vương nên phạt tội Dư rất nặng. 33. Một số tài liệu sử cho rằng Trần Khánh Dư là con của Nhân Thành Hầu Trần Phó Duyệt, mà Trần Phó Duyệt lại là con của Thái sư Trần Thủ Độ, tức Khánh Dư là cháu nội của Trần Thủ Độ. Tuy nhiên việc này chưa được chứng minh rõ ràng, chỉ mang tính dã sử. Trần Khánh Dư là danh tướng triều Trần, sống và làm quan dưới nhiều triều vua Trần. Tương truyền, ông là người vinh dự được viết lời tựa cho cuốn Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, trong đó có đoạn: "Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận. Người giỏi bày trận thì không cần phải đánh. Người giỏi đánh thì không thua. Người giỏi, thua thì không chết." Ông là một trong số 4 danh tướng triều Trần được nhắc đến trong số 16 danh tướng từ thời Lý đến thời Lê sơ – trong Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú. 4 vị tướng triều Trần gồm: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão. 34. Nhâm Ngọ :(Năm 1283) cuối năm Toa Đô xuất quân 35. Việc này diễn ra tháng 3/1284 36. Một số tài liệu chép rằng, trong chiến dịch này, phía Đại Việt đã gửi 2 vạn quân chủ lực cùng 500 chiến thuyền sang giúp Chiêm Thành cầm chân quân Nguyên, gián tiếp tạo sự an toàn từ phía Nam cho Đại Việt. (còn nữa)
CHƯƠNG 6: HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG, CÁC BÔ LÃO QUYẾT ĐÁNH YẾT KIÊU TRUNG DŨNG, CỨU CHỦ Ở BÃI TÂN Bấm để xem * * * Giặc đóng quân sát nước mình Đốn gỗ dựng thành, cướp phá thảo lương Quan trấn thủ Tĩnh Quốc Vương Điều binh án ngữ, chặn đường vùng biên Cùng lúc, phía Bắc vua Nguyên Đòi mượn đường bộ đánh miền phía Nam Lại đòi Đại Việt phải kham Chu cấp lương thực - dã tâm rõ ràng Xác định giặc sẽ đánh sang Vua bèn xuống chiếu sẵn sàng toàn dân Trai tráng nô nức sung quân Thích chữ "Sát Thát" tỏ phần quyết tâm Rèn đúc vũ khí ầm ầm Khí thế sôi sục vang âm mọi làng Hưng Đạo Vương trút tâm can Viết Hịch Tướng Sĩ, bày gan trải lòng Nhậm chức Tiết Chế Quốc Công Thống lĩnh công cuộc quốc phòng toàn dân Dịp ấy sắp Tết Giáp Thân[37 ] Nhà vua xuống chiếu, ân cần khiêm cung Nêu rõ tình hình giặc hung Mời các bô lão về cung Diên Hồng Gần xa, bô lão nức lòng Đổ về diện kiến mặt rồng tại kinh Vua trình bày rõ việc binh Hỏi các bô lão tình hình ý dân Dưới điện, các cụ hô rần Một lòng quyết đánh đuổi quân giặc thù Cuối năm 1284 26 tháng Chạp, tin từ vùng biên Năm chục vạn quân giặc Nguyên Chia hai cánh lớn, vượt biên tiến vào Thoát Hoan[38 ] thống lĩnh tối cao Xua quân giặc dữ tràn vào nước ta Một cánh do Bôn Kha Đa[39 ] Vượt Khâu Ôn tiến thẳng qua nước mình Một cánh theo hướng Lộc Bình Qua Lộc Châu, có đại binh cánh này Chỉ huy là Xa Tac Tai[40 ] Cùng Lý Bang Hiến, lệnh bài tiên phong Quân ta ít, quân giặc đông Ải Kha Ly mất chỉ trong một ngày Quân Nguyên thừa thắng tiến ngay Vượt qua Bản Động, xuống ngay Nội Bàng Cánh Tây, từ phía Khâu Ôn Qua ải Pha Lũy đánh dồn Chi Lăng Hưng Đạo Vương trấn Nội Bàng[41 ] Thoát Hoan cử sứ giả sang dụ hàng Nhưng tên sứ giặc vừa sang Liền bị gọt tóc và quăng trở về Thoát Hoan tức giận hầm hè Thúc quân từng lớp, từng bè tấn công Giặc tràn lên, cậy quân đông Dần dần chọc thủng được phòng tuyến ta Thoát Hoan bèn tách quân ra Hai cánh thủy - bộ, đánh qua Lục Đầu Chiến trường vang tiếng gươm đao Quân Trần lăn xả đánh vào giặc hung Chặn từng hẻm núi, khúc sông Giặc tiến rất chậm, dù đông hơn nhiều Từ sáng sớm đến sẩm chiều Nội Bàng thất thủ, ta nhiều thương vong Cản chậm được bước giặc hung Hưng Đạo Vương rút lui cùng ít quân Đến gần ngã ba bãi Tân Đường nhỏ, giặc lại đuổi gần sau lưng Có người bèn nói với Vương Nên rẽ đường khác mà đừng ra sông Sợ giặc đuổi kịp, hại ông. Hưng Đạo Vương cũng trong lòng đắn đo Dã Tượng hiểu chủ, bèn dò: "Đức Ông lúc trước dặn dò Yết Kiêu Đề phòng thế trận xoay chiều Phục thuyền đón sẵn, nay Kiêu còn chờ ?" Vương đáp: "Chính thế, ta lo Muộn rồi, Kiêu có còn chờ hay không ?" (Giặc nhằm Vạn Kiếp tấn công Quân Trần chủ ý là không đối đầu Không dốc toàn lực đánh nhau Cốt chia tách giặc hai đầu Bắc, Nam Ngăn Toa Đô với Thoát Hoan Tìm kế đánh trả, diệt dần giặc hung ) Biết Yết Kiêu rất nghĩa trung Dã Tượng bèn khẳng định cùng Đại Vương: "Nhận mật lệnh đón dọc đường Yết Kiêu nhất định chờ Vương đến cùng" Vương nghe thế mới yên lòng Tiếp tục đường nhỏ hướng sông rút dần Thầy trò kịp đến bãi Tân Giặc Nguyên đuổi gấp, sát gần phía sau Yết Kiêu quả vẫn cắm sào Dừng thuyền chờ đợi, trước sau không dời Đại Vương cảm kích buột lời: "Chim Hồng hộc ở trên trời cao xanh Bay cao, nhờ ở bên mình Sáu hàng lông cánh kiên trinh, vững vàng" [42 ] * * * Bấm để xem 37. Tết Giáp Thân: Cuối năm 1284. Đây là dịp vua Trần Nhân Tông mở "Hội nghị Diên Hồng" nổi tiếng trong lịch sử, mời các bô lão khắp cả nước về kinh tham dự, để hỏi ý kiến các cụ về việc đối phó với sự xâm lược của nhà Nguyên – có lẽ là cuộc "trưng cầu dân ý" đầu tiên trong lịch sử nước ta. 38. Thoát Hoan :(Toghan) là con trai thứ 9 của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt (Kubilai). Triều Nguyên cai trị Trung Quốc do người Mông Cổ dựng nên bởi Hốt Tất Liệt – cháu nội của Thành Cát Tư Hãn. Vì thế trong quân Nguyên có cả tướng Mông Cổ và tướng Hán. 39. Bôn Kha Đa :(Bolqadar) viên tướng Mông Cổ. 41. Nội Bàng: Được một số ý kiến cho là khu vực thị trấn Chũ, Bắc Giang ngày nay. 42. Về sự kiện này, Đại Việt sử ký toàn thư, quyển V, trang 51 chép: "Yết Kiêu cùng với Dã Tượng là 2 gia nô trung thành của Hưng Đạo Vương. Khi quân Nguyên tới, Yết Kiêu giữ thuyền ở bãi Tân (trên sông Lục Nam), Dã Tượng đi theo Hưng Đạo Vương. Khi quân Việt thua chạy, thủy quân bị tan cả. Hưng Đạo Vương định rút theo lối chân núi. Dã Tượng nói:" Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không dời thuyền ". Hưng Đạo Vương đến bãi Tân, chỉ có thuyền Yết Kiêu, vui mừng nói:" Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng là chim thường thôi ". Nói xong chèo thuyền đi, kỵ binh Nguyên đuổi theo không kịp." (còn nữa)
CHƯƠNG 7: GIẶC TIẾN SÁT THĂNG LONG Bấm để xem .. Đại Vương cảm kích buột lời: "Chim Hồng hộc ở trên trời cao xanh Bay cao, nhờ ở bên mình Sáu hàng lông cánh kiên trinh, vững vàng" Giặc phá được ải Nội Bàng Thủy quân Ô Mã tràn sang Lục Đầu Năm thuyền móc lại với nhau Lừng lững như một tòa lầu trên sông Bấy giờ, vào dịp cuối đông Nước rất lạnh, giặc chỉ phòng bên trên. Bàn kế, Yết Kiêu đứng lên Lập đội cảm tử đục thuyền giặc hung Lặn xuống nước lạnh đêm đông Đục vỡ thuyền giặc, việc xong rút liền Làm kinh sợ đám giặc Nguyên Đang đêm bỗng chốc chìm thuyền, chết quân Giữa Tết, không được vui xuân Nơm nớp phòng bị quân Trần tấn công Thuyền cứ chìm xuống đáy sông Ngày không dám nghỉ, đêm không dám nằm Xa Tác Tai mới lệnh ngầm Lập đội thuyền nhỏ, lưới ngầm thả sâu Đính sẵn cả loạt móc câu Khi chiến hạm đắm, phải mau "quăng chài" Tết Ất Dậu, tối mùng Hai[43] Yết Kiêu lỡ dính lưới chài giặc Nguyên Bị chúng bắt, trói lên thuyền Yết Kiêu chẳng hãi, điềm nhiên lạnh lùng Thoát Hoan thấy gã kiêu hùng Vạm vỡ, mắt sáng, oai phong muôn phần Giữa trại giặc, vẫn bình thân Trong lòng tướng giặc có phần mến yêu Bèn sai cởi trói Yết Kiêu Mời vào yến tiệc, ra chiều nể nang Trong bụng thầm tính mưu gian Định dùng vật chất dụ hàng Yết Kiêu Yết Kiêu chẳng đợi mời nhiều Uống rượu, bốc thịt ra điều tự nhiên Thoát Hoan hỏi, trả lời liền: "Yết Kiêu ta, chỉ là tên tầm thường Đưới trướng Hưng Đạo Đại Vương Người tài đầy rẫy, đâu thường như ta Ta bị bắt, chẳng qua là Đội quân cảm tử bên ta quá nhiều Cứ mỗi lần cuối giờ chiều Lại tranh nhau được xuất chiêu đục thuyền Chẳng ai nhường nhịn, cho nên Dạo này phải cậy đến quyền bắt thăm Ta bắt trúng, lại yếu tầm Chứ vào người khác, ngươi làm được chi ?" Thoát Hoan trong bụng hồ nghi: "Ngươi dẫn ta bắt đám đi đục thuyền ?" Yết Kiêu bèn gật điềm nhiên: "Tối họ xuất phát, ta liền dẫn đi" Nói xong, ăn uống tì tì Thản nhiên chẳng ngó ngàng gì giặc Nguyên Lý Bang Hiến lập 10 thuyền Yết Kiêu chỉ hướng về miền lách lau 2 tên đứng sát phía sau Hiến giương cung sẵn, nhằm đầu Yêt Kiêu (Chúng đề phòng lỡ mắc mưu ) Biết thế, trong bụng Yết Kiêu cười thầm Đến đoạn lau sậy um tùm Hai tay Kiêu thọc mắt đâm hai thằng Nhanh như chớp giật cái nhoằng Hiến chưa kịp bắn, Kiêu băng khỏi thuyền Giặc bủa ra, sẵn cung tên Chờ Kiêu ngoi thở là liền buông dây Bỗng chúng nghe vẳng đâu đây Một tiếng cười lớn, giọng đầy khinh khi: "Cám ơn Lý Bang Hiến mi Dùng chiến hạm chở ta đi về nhà" Tiếng cười theo gió vang xa Lý Bang Hiến sợ, bèn la quân về Sau đó quân giặc nhất tề Tấn công Vạn Kiếp, hai bề giáp công Đại quân của giặc cậy đông Thủy, bộ lớp lớp tấn công quân Trần Hưng Đạo Vương đã ém quân Đánh chặn, đánh tỉa, địch dần tiêu hao Nhưng giặc đông, tiến ào ào Vương không ham đánh, rút vào Thăng Long (Quân ta rút giữa đêm đông Nhẹ nhàng, nhanh gọn, giặc không biết gì ) Sáng sau, ta đã rút đi Thoát Hoan lồng lộn, tức thì đuổi ngay Quân ta đoán trước việc này Đã thả chướng ngại vật đầy trên sông Hoan sai đại tướng Lý Hằng Nắm cánh quân thủy tiến bằng đường sông Y dẫn quân bộ tấn công Cùng với Ô Mã đánh vùng Gia Lâm (Vốn Thoát Hoan có dã tâm Đuổi nhanh, đánh gấp, mong cầm Thăng Long ) Làm cầu phao để vượt sông[44] Tính đánh liên tục mà không cho ngừng Khánh Dư thấy thế, cả mừng Cho quân lặn xuống chặt thừng cầu phao Binh lực địch lại tiêu hao Bè tre quăng giặc ào ào xuống sông Quốc Toản nhân đó tấn công Đâm tả, thọc hữu, mà không đối đầu Làm giặc không thể tiến mau Làm cho tướng giặc đau đầu nghĩ mưu Sau, y cho bắc lại cầu Dùng xích sắt cột, nối nhau từng bè Cung tên liên tục bắn che Ì ạch mãi, cũng vượt bè qua sông Đóng ở bờ Bắc sông Hồng Lúc này ta đã chắn Đông Bộ đầu Bảo vệ Thăng Long phía sau Trong là thuyền chiến, ngoài rào cọc tre Máy bắn đá đặt trên đê Cung tên, giáo mác lăm le sẵn sàng Mỗi lần giặc tấn công sang Tiếng hô xung sát vang vang sông Hồng. Ta biết khó giữ Thăng Long Khi Lý Hằng tới, giặc đông thêm nhiều Nhưng để sơ tán quan triều Di tản dân chúng, cần nhiều thời gian Vua bèn kiếm một viên quan Có tài ứng đối, để sang cầu hòa Đỗ Khắc Chung mới tiến ra: "Thần tuy tài mọn, nhưng mà xin đi" Vua bảo: "Gặp Ô Mã Nhi Giả cầu hòa để ta di tản dần Nhà ngươi liệu có đủ gan Ứng đối với tướng giặc tàn hung kia ?" Khắc Chung thướng mạo thô bè Nét mặt gồ ghề, miệng rộng, mũi thô Mắt đen nhìn thẳng, trán dô Phong thái điềm tĩnh tựa hồ nước sâu Nghe vua hỏi, Chung bèn tâu: "Sở học, sức vóc thần đâu ra gì Nhưng đã nhận trọng mệnh thì Rừng gươm, biển lửa không gì từ nan" * * * 43. Tết Ất Dậu: Đầu tháng 2 năm 1285. 44. Chỗ này là giặc làm cầu phao để vượt sông Đuống. (còn nữa)
CHƯƠNG 8: ANH HÙNG TRẦN BÌNH TRỌNG Bấm để xem .. Nghe vua hỏi, Chung bèn tâu: "Sở học, sức vóc thần đâu ra gì Nhưng đã nhận trọng mệnh thì Rừng gươm, biển lửa không gì từ nan" Nói xong, cầm thư vua Trần Một mình thuyền nhỏ tiến sang trại thù Mắt nhìn thẳng, lưng không gù Rẽ hai hàng giáo từ từ tiến lên Thái độ đĩnh đạc, thản nhiên Tiến thẳng đến chỗ tướng Nguyên đang chờ Gặp Ô Mã, Chung nói to: "Xin ngài thống lĩnh nhận thư cầu hòa" Trại giặc gươm giáo sáng lòa Giọng Chung vang ấm, rất là hiên ngang Ô Mã Nhi vốn hung tàn Nhưng trong bụng đã mấy phần nể Chung Nói: "Muốn giao chiến tới cùng Thư cầu hòa chớ đem dùng ở đây" Khắc Chung bèn đáp lời ngay: "Hòa - sinh lễ nghĩa, Chiến - gây hiềm thù Quốc vương tôi, vốn ôn nhu Chọn đường hòa hiếu, ngàn thu vững bền" Nhi hạch: "Hoàng đế nhà Nguyên Là bậc kiệt hiệt khắp miền Đông - Tây Người Thát kiêu dũng, hùng oai Vua ngươi vô lễ, lại sai quân mình Thích chữ Sát Thát nhờn khinh Tội ấy to lắm với binh thiên triều" Chung đáp: "Nếu chó cắn liều Khi người lạ đến, là điều dĩ nhiên" Ô Mã Nhi chẳng hiểu liền Lặng thinh ngồi mãi. Chung bèn nói thêm: "Đó, ngài thống lĩnh nghĩ xem, Chó cắn người lạ được xem là thường Dân tôi trung với Quốc vương Tự thích chữ ấy, cũng thường mà thôi Ngay như ở cánh tay tôi Cũng có chữ ấy" - nói rồi vén ra. Nhi lại hỏi: "Đại quân ta Từ xa kéo tới, sao nhà vua ngươi Không xem gương các nước người Tự lên biên giới, trói người, hàng ta? Lại còn chống lệnh, đánh qua Liệu càng bọ ngựa được là mấy hơi ?" Chung ung dung đáp trả lời: "Nước tôi tuy nhỏ, mấy đời gần đây Lập nền độc lập đến nay Đều bảo nhau giữ, chung tay đến cùng Đầu hàng, dẫu có được dung Nhục kia lưu sử sách cùng thiên thu Vả lại, nếu biết ôn nhu Nhỏ triều cống Lớn, muôn thu hiếu hòa Các triều đại trước từng qua Nay, xin quý quốc hiếu hòa không xong Người ta nói: Thú đường cùng Quay đầu chống lại cực hung là thường Huống chi, người - lúc cùng đường Đấu tranh chống lại, là thường vậy thôi" Khắc Chung lời cứ nối lời Ý tứ chặt chẽ không lơi chút nào Ô Mã Nhi cất giọng cao: "Quân ta mượn lối đánh vào nước Chiêm Nghe lời, mọi việc sẽ yên Nhược bằng không, sẽ bị nghiền ra tro" Khắc Chung không chút âu lo Cáo từ tướng giặc, tự do ra về Được một lát, Ô Mã Nhi Nghĩ lại kêu bắt, Chung đi xa rồi Lại nói, chiến sự sục sôi Vua Nguyên sốt ruột, đừng ngồi không yên Bèn mở một cánh quân thêm Na Rút Đin[45 ] kéo qua miền Tuyên Quang Nhật Duật đem quân chặn ngang Dùng thủy quân đánh, nhịp nhàng rút lui Thuyền ta thuận gió trôi xuôi Kỵ binh giặc đuổi bám đuôi trên bờ Đến mấy khúc ngoặt quanh co Duật thấy giặc tụt lại bờ xa xa Bụng nghi giặc có kế tà Bèn sai tế tác bung ra dò tìm Quả nhiên là Na Rut Đin Cho đội kỵ mã tắt miền Châu Phong Chặn đón gần ngã ba sông Phía sau đuổi lại, tính công hai đầu Nhưng giặc kia có ngờ đâu Duật đã giấu ngựa từ lâu trong rừng Bất ngờ, thuyền cập Sơn Đông Lên ngựa, cả đạo ung dung rời thuyền Rút trong trật tự, lặng yên Men chân Tam Đảo qua miền Hồng Châu Rồi theo kế hoạch dài lâu Duật rút cả đạo về mau Thiên Trường. Lại nói, trước thế giặc cường Quốc Công Tiết Chế tính đường lui quân Rút hoàng gia với toàn dân Rồi tiếp tục rút đại quân sau cùng Xuôi dọc theo con sông Hồng (Lúc này quân thủy Lý Hằng vừa sang ) Thăng Long giờ đã bỏ hoang Đồ đạc, lương thực đều mang đi cùng Hoan vào, chè chén tiệc tùng Thấy thành trống rỗng, trong lòng bất an Hôm sau y lại kéo quân Lập trại ở tận bến Đông Bộ đầu Hưng Đạo Vương rút ít lâu Quân Trần Quốc Toản từ đâu tìm về Thăng Long thiếu thốn đủ bề Thoát Hoan buộc phải đánh về hạ lưu Bãi Đà Mạc, Bảo Nghĩa Hầu Dàn quân chặn giặc tuyến đầu quân ta Thọ địch, trận đánh mở ra Giặc đông hơn hẳn quân ta nhiều lần Bình Trọng uy vũ như thần Dẫn đội cảm tử quân Trần xung phong Quyết tâm chặn giặc lập công Cản giặc tiến sát tuyến phòng thủ ta Quân Trần tuy một chọi ba Tả xung hữu đột như là thiên binh Tất cả đều quyết liều mình Giết giặc giữ nước, kiên trinh muôn phần Quyết tâm vì nước xả thân Dù ít hơn hẳn bên phần giặc Nguyên Người trước ngã, người sau lên Tiếng hô "Sát Thát" vang rền bãi sông Về sau, quân giặc quá đông Dần dần khép chặt mấy vòng bao vây Bình Trọng đánh không ngơi tay Đao ông chớp nhoáng, giặc bay mấy đầu Trần Bình Trọng đánh đến đâu Giặc Nguyên sợ vía, rụt đầu dạt ra Địch dần giết hết quân ta Còn mình Bình Trọng, máu nhòa toàn thân Dáng ông cao lớn như thần Giáp trụ đỏ máu, thập phần oai phong Một mình, vẫn chẳng sờn lòng Dù giặc lớp lớp, vòng trong vòng ngoài Nhìn quân, thấy chẳng còn ai Vẫn xông vào giặc, tay quài đường đao Nhắm chu sư[46 ] địch nhảy vào Tả xung hữu đột, ánh đao đỏ loè Chém giặc đứa chết, đứa què Một mình xung sát, không hề núng nao Chẳng may, ông tuột tay đao Bèn nắm cẳng giặc, đổi đao thành chuỳ Quân Nguyên khiếp sợ thần uy Đứa văng xuống nước, đứa thì nát xương. Sau cùng, do lắm vết thương Ông bị giặc bắt khi đương đánh nhầu Thoát Hoan dõi trận từ đầu Cũng khiếp sợ Bảo Nghĩa Hầu uy phong Khâm phục vị tướng anh hùn Y tính mua chuộc, lại dùng mưu gian Tự tay cởi trói, mời ăn Bình Trọng vẫn đứng, chẳng cần để tâm Hoan hỏi chuyện, ông lặng câm Y dụ về Bắc, cho làm tước vương Trọng quắc mắt, bạnh cằm vuông, Quát: "Đã bị bắt, còn đường chết thôi Hà tất phải hỏi lôi thôi Hà tất bày đặt ra mời rượu cơm? Ta thà làm quỷ nước Nam Vương đất Bắc? Chẳng thèm làm đâu bay" (Và câu nói nổi tiếng này Đi vào sử sách không ngày nào phai ) Biết Trọng không thể chuyển lay Thoát Hoan bực tức bèn sai chém đầu Mắt không chớp, mày không chau Ông bình thản ngẩng cao đầu ung dung[47 ] Hoan thấy, thầm nhủ trong lòng: "Đất này nhỏ thật, nhưng không tầm thường Văn tài như Đỗ Khắc Chung, Võ tướng lẫm liệt, chết không chau mày Muốn thắng được dân tộc này Thật không hề dễ mảy may chút nào". Tin Trọng tử tiết đưa vào Quân dân cả nước ngẹn ngào khóc thương Vua truy phong ông tước Vương Kêu gọi cả nước noi gương diệt thù * * * 45. Na Rut Đin, hoặc Nạp Tốc Lạt Đinh :(Nasirud Din) viên tướng người Mông Cổ. 46. Chu sư: Một dạng soái thuyền của quân Nguyên. 47. Bảo Nghĩa Hầu Trần Bình Trọng (sau khi hy sinh ông được truy phong tước Bảo Nghĩa Vương), Đại Việt sử ký toàn thư, chép: "Trần Bình Trọng dòng dõi Lê Đại Hành, do ông cha làm quan ở đời Trần Thái Tông nên được cho quốc tính". Có một số tài liệu nói ông là con của danh tướng Lê Phụ Trần với Công chúa Chiêu Thánh (Lý chiêu Hoàng), có lẽ căn cứ vào việccó tài liệu nói Lê Phụ Trần (Lê Tần) cũng dòng dõi Lê Đại Hành, Chiêu Thánh được gả cho Lê Phụ Trần năm 1258, Trần Bình Trọng sinh năm 1259. Về việc hy sinh anh hùng của ông, Đại Việt sử ký toàn thư, quyển V chép: "Sau khi bắt được Trần Bình Trọng, tướng Nguyên tìm mọi cách để khai thác thong tin, dọa nạt, dụ dỗ ông. Tuy nhiên Trần Bình Trọng kiên quyết không khuất phục. Khi được hỏi có muốn làm vương đất Bắc không, Trần Bình Trọng khảng khái trả lời:" Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì phải hỏi lôi thôi ". Không thể khuất phục được Trần Bình Trọng, quân Nguyên buộc phải giết ông.." (còn nữa)