Đọc hiểu: Trẻ con không được ăn thịt chó - Nam Cao 1. Tóm tắt tiểu sử và con người Nam Cao - Nam Cao (1915/1917 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri. - Quê ông ở Lý Nhân, Hà Nam. - Ông sinh ra trong một gia đình công giáo bậc trung. - Thuở nhỏ ông học ở trường làng, sau đó được gửi xuống Nam Định học. - Sau đó do thể chất yếu nên ông về nhà chữa bệnh rồi cưới vợ. - Năm 18 tuổi ông vào Sài Gòn nhận làm thư kí cho một hiệu may. - Khi trở ra Bắc ông dạy học tại Hà Nội. - Năm 1943 ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. - Năm 1945 ông tham gia cướp chính quyền ở Lý Nhân và được cử làm chủ tịch xã. - Năm 1946 ông gia Hà Nội hoạt động Hội Văn hóa cứu quốc - Năm 1948 ông gia nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam. - Năm 1950 ông làm việc cho Hội Văn nghệ Việt Nam, tại tạp chí văn nghệ. 2. Sự nghiệp văn học Quan điểm sáng tác của Nam Cao - Ông theo quan điểm "nghệ thuật vị nhân sinh" : "Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than" - Ông quan niệm: Tác phẩm "phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác ái, công bằng" và "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có." Phong cách nghệ thuật của Nam Cao - Đề cao tư tưởng con người: Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá "con người trong con người" - Đi sâu khám phá nội tâm nhân vật - Thường viết về những cái nhỏ nhặt nhưng lại mang ý nghĩa triết lý sâu sắc - Ông có phong cách triết lý trữ tình sắc lạnh. 3- Những tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao Ông để lại khối lượng tác phẩm lớn với nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, truyện ký như các tác phẩm: "Sống mòn", "Lão Hạc", "Chí Phèo", "Giăng sáng", "Lão Hạc", "Chí Phèo", "Đôi mắt".. * Tóm tắt Trẻ con không được ăn thịt chó Truyện Trẻ con không được ăn thịt chó bắt đầu với nhân vật "Hắn" - là một người nghiện rượu. Hắn nghèo không có tiền nên chửi đời, chửi người, tức lên và lại muốn đi ăn chịu. Nhưng hắn nghĩ đến chuyện mình đã đi ăn chịu quá nhiều lần, chắc giờ chẳng ai cho mình ăn chịu nữa. Tức mình, hắn đi về nhà với cái miệng vẫn còn thèm thuồng thì bỗng thấy con chó nhà mình đang nằm ngủ ở bờ rào rồi viện mọi lý do hợp lý để mổ nó. Vậy là hắn mang con chó ra mổ trong sự háo hức của những đứa con vì chúng tưởng sẽ được ăn một bữa ngon và sự bàng hoàng của người vợ. Nhà nghèo đến mức không có gì để ăn mà còn phải chịu cảnh tên chồng ham ăn. Hắn ăn nhậu cùng bạn bè mà để mặc vợ con đói khát. Rồi cái Gái dọn mâm xuống chỉ còn trống không dưới ánh mắt thèm khát của những đứa em. Người vợ như chết lặng đi, đau đớn rưng rức khóc, rồi những đứa con cũng khóc theo. Trẻ con không được ăn thịt chó đọc hiểu Đọc đoạn văn sau: Người mẹ rất còm cõi và bốn đứa con gầy ốm, quây quần với nhau trong xó bếp. Trong gia đình này, năm mẹ con thường giống như một bọn dân hèn yếu cùng chung phận con sâu, cái kiến dưới cái ách một ông bạo chúa. Thấy lũ con đứa nào cũng nhăn nhăn, nhó nhó, người mẹ thương đứt ruột. Thị biết rằng chúng đói. Khi người ta đã đói mà lại ngửi thấy mùi thịt chó, thì bụng càng đói thêm. Thế mà bữa rượu của người bố với ba ông khách cứ kéo dài mãi. Nghĩ mà bực quá! Cái thể không chết được, chứ giá chết được thì thị chỉ thắt cổ mà chết đi cho rồi.. Thị dỗ con: - Cố mà nhịn lúc nữa, các con ạ: Đợi trên nhà ăn xong, còn thừa thì ta ăn. Rồi muốn cho chúng quên đi, thị sổ tóc ra cho chúng xúm vào bắt chấy. Úi chà! Nhiều chấy quá! Chỉ việc rẽ một đám tóc ra là đủ thấy bốn, năm con bò lổm ngổm. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ thi nhau bắt. Chúng cho cu Con mấy con chấy kềnh làm trâu. Mới đầu cái trò chơi ấy cũng hay hay. Nhưng chỉ một lúc là chúng chán. Thằng cu Con ra hiệu đình công trước. Nó lăn vào lòng mẹ, oằn oại vừa hụ hị kêu: - Đói!.. Bu ơi! Đói.. Tức khắc những đứa kia cũng nhớ ra rằng chúng đói. Chúng không bắt chấy cho mẹ nữa. Chúng thở dài. Chúng nuốt bọt nhem nhép. Chúng thừ mặt ra. Chúng nằm ẹp xuống đất và lật áo lên để khoe cái bụng. Bụng đứa nào cũng gần dính lưng. Mắt thị rơm rớm nước. Cũng may, tiếng người bố trên nhà gọi: - Cái Gái đâu! Dẹp mâm đi, này! Bốn đứa trẻ cùng nhỏm dậy: Mặt chúng đột nhiên tươi tỉnh lại. Gái "vâng" một tiếng thật to và chạy lên. Cu Nhớn, cu Nhỡ ngồi chồm chỗm đợi.. Một lát sau, Gái bê mâm xuống. Nó cũng nâng lên ngang mặt như cha lúc nãy. Các em nó đứng cả lên, chực đu lấy cái mâm. Nó càng nâng cao hơn, mồm thét: - Khoan! Khoan! Kẻo vỡ.. Cu Nhớn thét: - Thì bỏ xuống! Gái vênh mặt lên, trêu nó: - Không bỏ. Không cho chúng mày ăn. - Có sợ thành tật không? - Không cho ăn thật đấy. Cu Nhỡ sốt ruột, khoặm mặt lại, vằng nhau với chị: - Làm trò mãi! Có bỏ xuống đây không nào? Gái hạ nhanh mâm xuống đất, bảo: - Này, ăn đi. Nó ngẩng mặt nhìn các em, cười the thé. Người mẹ xịu ngay xuống. Trong mâm, chỉ còn bát không. Thằng cu Con khóc òa lên. Nó lăn ra, chân đập như một người giãy chết, tay cào xé mẹ. Người mẹ đỏ mũi lên và mếu xệch đi, rưng rức khóc. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ cũng khóc theo. Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1: Em hãy nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn trích? Câu 2: Đề tài của truyện ngắn là gì? Câu 3: Nêu khái quát nội dung chính của truyện Trẻ con không được ăn thịt chó? Câu 4: Chỉ ra và nêu tác biện pháp tu từ trong đoạn văn sau: "Chúng không bắt chấy cho mẹ nữa. Chúng thở dài. Chúng nuốt bọt nhem nhép. Chúng thừ mặt ra. Chúng nằm ẹp xuống đất và lật áo lên để khoe cái bụng. Bụng đứa nào cũng gần dính lưng" Câu 5: Câu văn: "Bụng đứa nào cũng gần dính lưng" gợi cho em suy nghĩ gì? Câu 6: Ý nghĩa của câu truyện ngắn Trẻ con không được ăn thịt chó là gì? Câu 7: Nêu tình huống truyện Trẻ con không được ăn thịt chó? Câu 8: Cảm nhận của em về nhân vật "Thị" trong truyện ngắn Trẻ con không được ăn thịt chó của Nam Cao? Đáp án tham khảo. Câu 1: Phương thức chính: Tự sự Câu 2 . Đề tài: Người nông dân. Câu 3. Khắc họa, tái hiện lại một cách chân thực khung cảnh làng quê nghèo và tình cảnh thê thảm trước nạn đói của nhân dân Việt Nam trước năm 1945, đồng thời nói lên số phận khốn khổ của con người, đặc biệt là phụ nữ. Câu 4: Biện pháp tu từ lặp (điệp ngữ) : "Chúng.." Tác dụng: Nhấn mạnh tình cảnh khốn khổ, đói khát, thèm muốn được ăn của những đứa trẻ, Chúng thở dài thườn thượt, mòn mỏi, chờ đợi trong vô vọng. Câu 5: Câu văn gợi lên hình ảnh những em bé đót khát, xanh xao, gầy gò da bọc lấy xương, bụng gần dính lưng.. Hình ảnh gợi ra bức tranh về nạn đói 1945 thật thê thảm.. Câu 6 - Phê phán thói tham ăn tục uống của một số bộ phận người nông dân. - Ca ngợi tấm lòng, đức hi sinh của người mẹ, người vợ, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn lo lắng, yêu thương, chăm sóc cho con cái. - Thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Câu 7 Cốt truyện tình huống, xoay quanh một gia đình đông con, người bố thì nghiện rượu đi ăn chịu khắp các cửa hàng, thậm chí hắn còn mổ nốt con chó trong nhà và mời bạn bè đến ăn nhậu, trong khi đó vợ con chỉ biết đứng nhìn cùng những giọt nước mắt. Câu 8: Nhân vật "thị" là một người phụ nữ khốn khổ khi lấy phải một người chồng nghèo, xấu tính tham ăn, ham rượu chè, bỏ bê vợ con. Ngoài ra Thị còn là một người vợ biết lo toan, tính toán, mặc dù thị luôn phải đối mặt với những bi kịch dồn dập của việc thiếu miếng ăn nhưng thị vẫn quan tâm đến các con, dành chút tiền nhỏ để mua quà cho con khi đi chợ về. Chỉ cần nghĩ đến cảnh chúng vui mừng khi thấy mấy cây mía lách mẹ mang về là thị lại tủm tỉm cười hạnh phúc. Qua đó cho ta thấy thị là một người mẹ yêu thương các con vô điều kiện. ☆ Xem đề trắc nghiệm bên dưới..
Đề tham khảo số 2 (Trắc nghiệm) Đọc đoạn văn sau: Người mẹ rất còm cõi và bốn đứa con gầy ốm, quây quần với nhau trong xó bếp. Trong gia đình này, năm mẹ con thường giống như một bọn dân hèn yếu cùng chung phận con sâu, cái kiến dưới cái ách một ông bạo chúa. Thấy lũ con đứa nào cũng nhăn nhăn, nhó nhó, người mẹ thương đứt ruột. Thị biết rằng chúng đói. Khi người ta đã đói mà lại ngửi thấy mùi thịt chó, thì bụng càng đói thêm. Thế mà bữa rượu của người bố với ba ông khách cứ kéo dài mãi. Nghĩ mà bực quá! Cái thể không chết được, chứ giá chết được thì thị chỉ thắt cổ mà chết đi cho rồi.. Thị dỗ con: - Cố mà nhịn lúc nữa, các con ạ: Đợi trên nhà ăn xong, còn thừa thì ta ăn. Rồi muốn cho chúng quên đi, thị sổ tóc ra cho chúng xúm vào bắt chấy. Úi chà! Nhiều chấy quá! Chỉ việc rẽ một đám tóc ra là đủ thấy bốn, năm con bò lổm ngổm. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ thi nhau bắt. Chúng cho cu Con mấy con chấy kềnh làm trâu. Mới đầu cái trò chơi ấy cũng hay hay. Nhưng chỉ một lúc là chúng chán. Thằng cu Con ra hiệu đình công trước. Nó lăn vào lòng mẹ, oằn oại vừa hụ hị kêu: - Đói!.. Bu ơi! Đói.. Tức khắc những đứa kia cũng nhớ ra rằng chúng đói. Chúng không bắt chấy cho mẹ nữa. Chúng thở dài. Chúng nuốt bọt nhem nhép. Chúng thừ mặt ra. Chúng nằm ẹp xuống đất và lật áo lên để khoe cái bụng. Bụng đứa nào cũng gần dính lưng. Mắt thị rơm rớm nước. Cũng may, tiếng người bố trên nhà gọi: - Cái Gái đâu! Dẹp mâm đi, này! Bốn đứa trẻ cùng nhỏm dậy: Mặt chúng đột nhiên tươi tỉnh lại. Gái "vâng" một tiếng thật to và chạy lên. Cu Nhớn, cu Nhỡ ngồi chồm chỗm đợi.. Một lát sau, Gái bê mâm xuống. Nó cũng nâng lên ngang mặt như cha lúc nãy. Các em nó đứng cả lên, chực đu lấy cái mâm. Nó càng nâng cao hơn, mồm thét: - Khoan! Khoan! Kẻo vỡ.. Cu Nhớn thét: - Thì bỏ xuống! Gái vênh mặt lên, trêu nó: - Không bỏ. Không cho chúng mày ăn. - Có sợ thành tật không? - Không cho ăn thật đấy. Cu Nhỡ sốt ruột, khoặm mặt lại, vằng nhau với chị: - Làm trò mãi! Có bỏ xuống đây không nào? Gái hạ nhanh mâm xuống đất, bảo: - Này, ăn đi. Nó ngẩng mặt nhìn các em, cười the thé. Người mẹ xịu ngay xuống. Trong mâm, chỉ còn bát không. Thằng cu Con khóc òa lên. Nó lăn ra, chân đập như một người giãy chết, tay cào xé mẹ. Người mẹ đỏ mũi lên và mếu xệch đi, rưng rức khóc. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ cũng khóc theo. Thực hiện các yêu cầu sau: Câu 1: Hãy xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên? A. Nghị luận B. Biểu cảm C. Thuyết minh D. Tự Sự Câu 2: Người kể chuyện trong văn bản trên là người kể ngôi thứ nhất mấy A. Đúng B. Sai Câu 3: Văn bản "Trẻ con không được ăn thịt chó" viết về đề tài gì? A. Người trí thức B. Người nông dân C. Người phụ nữ D. Trẻ em Câu 4: Xác định thành ngữ trong đoạn văn sau: "Chà, cái con mụ la sát này thật là chua ngoa. Nó bảo người kia: Ăn mà không muốn trả thì ăn này, ăn nọ cho con nó. Miếng ăn là miếng nhục. Thế này thì khó lòng mà nuốt cho trôi được. Hắn thở dài một tiếng, quay trở về.. A. Chà, cái con mụ la sát này thật là chua ngoa B. Thế này thì khó lòng mà nuốt cho trôi được C. Miếng ăn là miếng nhục. D. Hắn thở dài một tiếng, quay trở về.. Câu 5: Những câu văn" Nhưng biết làm sao được? Đã đành quà của nó, chỉ một đồng trinh là đủ. Nhưng không thể đong một hào chín xu rưỡi gạo là lời của ai? A. Là lời của người kể chuyện nhưng mang giọng điệu của người mẹ B. Lời của tác giả C. Lời của nhân vật hắn D. Lời của những đứa con Câu 6: Hành động của nhân vật "hắn" trong văn bản trên có ý nghĩa gì? A. Phản ánh mâu thuẫn giai cấp địa chủ và người nông dân B. Phản ánh sự trăn trở tìm cách thoát khỏi cảnh nghèo đói của người nông dân C. Ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người nông dân D. Phê phán thói hư tật xấu của một bộ phận người nông dân Câu 7. Qua hình ảnh nhân vật người mẹ trong văn bản trên, nhà văn muốn khẳng định điều gì? A. Số phận bất hạnh của người phụ nữ B. Tình cảnh đáng thương của những đứa con C. Phẩm chất tốt đẹp của người nông dân trong cảnh ngộ khốn cùng. D. Cả A và B Câu 8. Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn sau: "Người mẹ rất còm cõi và bốn đứa con gầy ốm, quây quần với nhau trong xó bếp. Trong gia đình này, năm mẹ con thường giống như một bọn dân hèn yếu cùng chung phận con sâu, cái kiến dưới cái ách một ông bạo chúa." A. Biện pháp tu từ so sánh B. Nhân hóa C. Ẩn dụ D. Miêu tả. Gợi ý đáp án Bấm để xem 1. D, 2. B 3. B 4. C 5. A 6. D 7. D 8. C