Đỏ Như Lời Thề Máu - Đinh Đang

Thảo luận trong 'Cần Sửa Bài' bắt đầu bởi Đinh Đinh Đang Đang, 24 Tháng bảy 2025 lúc 7:31 PM.

  1. Đinh Đinh Đang Đang đinh đinh đang đang, như tiếng chuông ngân vang ~

    Bài viết:
    0
    Đỏ Như Lời Thề Máu

    Tác giả: Đinh Đang

    Thể loại: Cổ đại, Dã sử, Kỳ ảo, Tình cảm, Chiến trường

    [​IMG]

    VĂN ÁN

    Nàng là ánh lửa trên chiến trường..

    Người đời chỉ biết, trong mỗi cuộc giao tranh, nơi nào có tiếng gươm loảng xoảng và cờ đỏ tung bay, là nơi nàng xuất hiện - nữ Tư lệnh mang y phục đỏ rực như lửa, cưỡi chiến mã Bạch Âm, và tóc dài buộc cao như một ngọn giáo ngầm.

    Nàng chỉ chiến đấu vì những điều đã bị người ta bỏ quên giữa quyền lực và lòng tham: Đất đai, tự do và người dân nhỏ bé.

    Sáu tuổi học binh pháp, mười hai tuổi cầm kiếm cưỡi ngựa thao luyện, mười ba tuổi làm trái quân kỷ, trở lại chiến trường mai táng đồng đội bằng tay trần, mười sáu tuổi trọng thương suýt chết..

    "Sống làm người trong thiên hạ, chết làm ma trong thiên hạ."

    Đó là lời thề máu nàng từng dõng dạc hô giữa triều thần, khi đưa tay nhận lấy quân phù trong lễ sắc phong.

    Người ta ca tụng nàng là Tư Lệnh Văn Ấn, là Vệ Nữ của Vĩnh An.

    Đứng trước mọi lựa chọn khó khăn, nàng đều chọn thiên hạ - vốn nghĩ sẽ chưa từng khuất phục trước bất kỳ thử thách nào.

    Cho đến khi hắn bước vào doanh trại.

    Chiêu Vân - một tên lính tân binh ngốc nghếch, vô dụng. Dưới thân phận là Thất Hoàng tử bị thất sủng, hắn đã sống như một cái bóng ma mờ nhạt trong cung. Điện hạ thao binh thì dốt đặc, cầm kiếm suýt chém trúng chân mình, bắn cung lại xém.. xuyên thủng hồng tâm của đồng đội. Một tên lính như vậy, đáng lý đã bị tống cổ khỏi doanh trại từ ngày đầu.

    Thế nhưng nàng lại không đành lòng buông bỏ, vẫn ra sức tìm ở hắn những thế mạnh hiếm hoi để phát huy.

    Không làm được việc này thì thử việc khác.

    Không giỏi tay chân thì xem có đầu óc không.

    Không biết chiến trận thì để thử nhặt củi, nuôi ngựa, nấu cơm, vá lều..

    Kết quả, nàng phát huy quá tốt, tốt đến mức phát hiện ra hắn.. giả khờ.

    Một lớp mặt nạ bị bóc xuống.

    Thay vào đó là ánh mắt sắc lạnh, giọng điềm nhiên và một bộ dáng nguy hiểm đến khó lường. Thất Hoàng tử bị nữ Tư lệnh "bức" đến đường cùng, không những không giận, ngược lại còn thuận thế quấn lấy nàng không buông.

    "Ta trở thành kẻ thông minh, là do chính nàng ép thành. Giờ ta thông minh rồi, nàng định sẽ thế nào?"

    * * *

    "Tư Lệnh Văn, nàng đã cố khuấy động mặt hồ.. thì đừng trách nước sâu kéo nàng xuống."

    Từ đó, hắn không để nàng thoát, cũng chẳng để nàng có cơ hội thoái lui. Một trận đồ được lặng lẽ dệt nên bằng trí tuệ và rung động ngấm ngầm.

    Lúc nàng thích một kẻ khờ, hắn liền trở thành kẻ khờ.

    Lúc nàng cần một quân sư, hắn hóa trí giả mưu sâu.

    Tuy một mà hai, tuy hai mà một.

    * * *

    "Tư lệnh, nàng còn không ưng ý bổn cung sao?"

    Hắn cười, như thể chưa từng là kẻ thấp hèn dưới trướng nàng.

    Nữ cường nghịch ngầm x Nam túc trí vô sỉ

    ###

    "Đinh đinh đang đang" - như tiếng chuông ngân vang

    Kính gửi quý đồng hữu gần xa,

    Thư quan trưởng của Thư trướng Chuông Bạc, hiệu Đinh Đang - người chấm mực, chép thư và giữ lửa nơi hậu doanh Long Y - xin nghiêng mình kính chào.

    Nếu hành trình Đỏ Như Lời Thề Máu có khiến trong lòng đồng hữu rung nhẹ - dù chỉ là một thoáng - xin hãy cho ta hay dưới phần bình luận. Thật lòng mà nói, ta rất mến việc được đối thoại cùng những người hữu duyên như vậy đó.

    Bổn quan đã dò mìn trước cho quý đồng hữu: Truyện tuy đặt trong bối cảnh chiến sử, nhưng đừng quá e ngại - binh khí tuy có, máu lửa tuy lướt qua, nhưng phần cốt lõi vẫn là những mưu lược, nhân quả, và các mối tình - tình người, tình nước, tình không gọi thành tên.

    (.. và xin thưa, cuối truyện không ai "chớt"! Tác giả cũng đã đứng trước gia tiên hứa không bỏ truyện, nên xin đồng hữu vững dạ bước tiếp. )


    Gió vẫn thổi qua tiền tuyến. Nhưng hậu phương này - ta vẫn ngồi đây, bên chuông bạc và hương mực nhè nhẹ, chờ đợi các đồng hữu ghé thăm.

    Thương kính,

    - Đinh Đang, Thư quan trưởng Thư trướng Chuông Bạc -
     
    Chì Đen thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 24 Tháng bảy 2025 lúc 11:06 PM
  2. Đinh Đinh Đang Đang đinh đinh đang đang, như tiếng chuông ngân vang ~

    Bài viết:
    0
    TIỀN CHƯƠNG

    Ánh Trăng Sống Dậy Nhánh Thường Xuân

    "Không nổi một tiếng kêu, không một lời chống cự, cứ như thể sự sống của một dải thường xuân mới chỉ vừa chớm nở với cuộc đời đã bị ném thẳng vào cái chết."

    #​

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Tháng Ba năm ấy, khí trời lạnh tanh nồng mùi máu, mang theo cái bức bối của kinh thành cuộn về tận biên ải.

    Gió xuân nơi biên thùy không hú dài, không réo rắt - chỉ lặng lẽ và tê dại, cuốn theo tuyết bay lên, hòa với cái lạnh siết như lưỡi dao cùn miết chậm lên da thịt.

    Thời tiết đặc trưng của vùng biên cương phía Tây Bắc vốn đã mang nhiều sự khắc nghiệt, nhưng lần này, trong cơn gió, không chỉ mang hơi thở của đất trời, mà còn mang theo cả tiếng vó ngựa, tiếng đao kiếm giao nhau, và tiếng người khóc than vọng lại từ nơi xa.

    Trên con đường dẫn vào kinh thành, đâu đâu cũng là tàn tích. Xác người tham trận lẫn kẻ vô tội chất chồng. Máu và lửa nhuộm đỏ tường thành, nhấn chìm tất thảy trong một sắc trời u tối. Dưới chân thành đổ nát là những mái nhà tan hoang chưa kịp nguội tro. Từng tấm liếp cháy sém, cột xà gãy đổ, trơ khấc giữa đất trời loạn lạc. Khói ám lên vách tường những vệt đen xám, như dấu tay đầy tuyệt vọng của kẻ chết còn lưu lại.

    Âm thanh của chết chóc không chỉ còn là tiếng chém giết ồn ào của một trận giao tranh, mà là thứ âm thanh nhỏ, dai dẳng và lạnh buốt: Tiếng gươm rơi xuống đất, tiếng rên rỉ yếu ớt, tiếng bước chân đạp lên máu và tro tàn. Mọi thứ chồng chất lên nhau, trộn thành một bản hợp âm nặng nề của tang thương.

    Năm Kiến Dân thứ mười tám, kinh thành Càn An nổi lửa đỏ trời.

    Chiếu thư ban ra trong bóng tối, ra vào khắp các doanh trại. Đến bình minh - thiên hạ đã đổi chủ.

    Chiêu Tông đăng cơ. Vĩnh An đổi chủ.

    Tại kinh thành Càn An, nhiều cánh cổng phủ thự mở toang giữa đêm. Các quan lại từng chống đối hoặc giữ mình trung lập đều bị đưa đi. Người bị hành thích giữa đường. Kẻ bị cắt áo mão, trói tay giải đi bằng xe tù. Không có máu loang đầy phố, chỉ có sấm chớp giữa trời hanh khô. Các cựu thần, thân tộc, và những người không chịu quy phục tân triều - tất cả bị chụp mũ "phản loạn", "tàn dư", rồi áp giải về vùng biên cương hoang lạnh.

    Biên cương phía Tây Bắc.

    Sương núi phủ trắng cả lối mòn xuyên rừng Tịch Lâm, dẫn đến trạm giam Lĩnh Bắc. Đoàn người lưu đày nối đuôi nhau bước đi trong im lặng. Có những lão quan tóc bạc, có những thiếu phụ mới gả về phủ, và có cả những đứa trẻ chưa đầy mười tuổi dáng đi nhỏ thó lọt thỏm giữa tấm áo choàng người lớn.

    Bước đi trong im lặng, những đứa trẻ chưa thể hiểu thế nào là "tội thần", là "phản loạn", chưa kịp hiểu vì sao quê nhà lại bị bỏ lại, càng không hiểu vì sao trong một đêm, cả thế giới xung quanh mình lại đổi màu. Trong số bọn chúng có đứa khóc la đến khản giọng, có đứa vẫn mang ánh mắt còn ngác ngơ giữa tuyết sương và khói tro, không biết rằng mình đang đi vào một phần lịch sử - một hậu chương đẫm máu và âm thầm bị vùi sâu trong bóng tối của triều đại mới.

    Trong nhóm người lưu đày còn có cả một gia đình quý tộc năm thế hệ vốn hiển hách nhiều đời. Đứa trẻ nhỏ nhất trong dòng họ chỉ mới bảy tuổi, được mẹ quấn kỹ trong lớp áo lông hồ ly, ánh mắt vô cảm, nép vào người cha mình. Quả là chiến loạn có thể kéo cả một gia tộc ngàn đời sụp đổ.

    "Quan gia, chừng nào thì đến nơi?" Người đàn ông hỏi lính áp giải, giọng khàn đặc vì lạnh.

    Không ai trả lời.

    Dọc đường chỉ có tiếng quất roi, tiếng rên xiết, tiếng quát lệnh khiến họ không thể nào không nhanh chân hơn. Âm thanh xiềng xích va vào nhau lẻng xẻng tương phản với tiếng vó ngựa giẫm lên đá vụn, làm nên một loại âm thanh hết sức ghê người.

    Đoàn người men theo sườn núi cằn khô, nơi cây cỏ cũng chỉ mọc rạp, cúi đầu như né tránh ánh nhìn của trời đất. Phía xa xăm, kinh thành Càn An dần khuất sau làn sương núi. Không một ai dám quay đầu lại.

    * * *

    Buổi đêm ở Tịch Lâm lạnh lẽo đến lạ.

    Trăng bị mây mù che khuất, ánh sáng lặng câm như bị ai bóp nghẹt giữa trời. Gió từ sườn đèo thốc xuống từng cơn, luồn qua vách đá dựng đứng, xuyên qua lều bạt tạm bợ mà những kẻ lưu đày dựng nên bằng rơm rạ khô và áo rách. Lửa trại cháy leo lét, đỏ rực mắt người nhưng không đủ ấm một tấc da.

    Đứa trẻ nọ nằm co mình trong lớp áo choàng hồ ly, đầu gối vào đùi người mẹ đã ngủ thiếp vì mệt. Mắt cậu vẫn mở, lặng im nhìn vầng trăng lẩn trốn sau đám mây. Miệng cậu lẩm nhẩm, giọng thì thầm khẽ như sợ đánh động màn sương.

    "Nhìn thế này, có vẻ đêm nay sẽ có nguyệt thực."

    Tiếng gió bên tai cậu như đứt thành từng đoạn, len lỏi vào bóng tối là một khoảng lặng chết chóc bao trùm không gian, như thể mọi thứ đang nín thở, chờ đợi một điều gì đó không thể tránh khỏi.

    Rồi đột nhiên, một tiếng thét chát chúa xé rách màn đêm.

    Tiếng vó ngựa dồn dập bao vây, theo sau đó là tiếng gươm đao tuốt khỏi vỏ, mũi tên bay vút vút lao vào xé gió. Đuốc cháy sáng rực lên trong tích tắc, thắp bùng cả một góc đèo rồi lại bị gió thốc tắt ngấm.

    Cả trại chấn kinh, tiếng thét thất thanh, tiếng chạy, tiếng vấp ngã, tiếng khóc hòa vào nhau, cuốn vào cơn hỗn loạn không còn lối thoát. Mùi máu tanh nồng xộc lên trong không trung, uế khí cuốn theo gió tràn khắp rừng sâu. Không rõ ai là địch, ai là thân, chỉ có tiếng ai oán rền rĩ, không phân nổi ý người.

    "Người của tiền triều phản loạn! Diệt sạch!"

    "Chúng ta bị lừa rồi.. chúng nói chỉ là đi lưu đày.."

    "Lũ khốn nạn.. không lẽ bổn tướng phải vào cảnh chết không mồ chôn.."

    "Quan gia, hãy buông tha cho con gái tôi!"

    Tiếng la hét đứt quãng vang lên trong đêm, rồi ngay lập tức bị nuốt chửng bởi tiếng gươm đao lạnh lẽo chém xuống. Mỗi nhát chém, mỗi cú đâm là một tiếng sấm vô hình. Đoàn người bị áp giải giờ chỉ còn là những hình hài đẫm máu, quằn quại trên mặt đất, thân thể vắt chéo, đan xen trong một biển máu không phân biệt nổi đâu là người, đâu là mặt đất.

    Có đứa bé khóc nấc, mải chạy theo cơ thể người cha đang bị toán lính kéo lê thân.

    Một người đàn ông rút kiếm, ánh mắt tối sầm, chưa kịp thốt lên một lời thì đã chết dưới lưỡi kiếm lóe lên trong bóng tối.

    Xung quanh là tiếng những người mẹ vang lên tuyệt vọng như tiếng chuông vỡ, bi ai xé nát màn đêm. Họ siết chặt đứa con vào lòng, cơ thể run bần bật. Có người mẹ một lời khẩn cầu còn chưa kịp dứt, nhát kiếm lạnh lùng đã xuyên thẳng qua bụng cả hai mẹ con.

    Những đứa trẻ trong cuộc thảm sát thì ôi thay, chúng nhỏ bé và nhẹ bẫng như những nhành cây bị giông gió tàn nhẫn vặn gãy. Không nổi một tiếng kêu, không một lời chống cự, cứ như thể sự sống của một dải thường xuân mới chỉ vừa chớm nở với cuộc đời đã bị ném thẳng vào cái chết.

    Hai canh giờ qua đi, máu đã loang thành vũng dưới đất, tạo thành những vệt đen loang lổ. Những mảnh áo choàng tả tơi, những đôi mắt mở to còn hoang hoải nỗi sợ hãi, những tiếng kêu khóc dần tắt lịm. Rừng sâu lại chìm vào thứ tĩnh mịch rùng mình sau bão giông.

    Vừa lúc ấy - bầu trời lặng lẽ tối sầm.

    Trăng.

    Mặt trăng rực sáng đang nhô cao khỏi rặng núi, bất chợt bị một bóng đen âm trầm nuốt lấy.

    Ánh sáng bạc bị cắn khuyết, từng mảnh, từng mảnh, rồi dần biến mất khỏi thế gian như thể cả đất trời cũng đang nín thở mặc niệm. Gió lặng. Cây ngừng xào xạc. Tất cả như bị đóng băng trong khoảnh khắc đó.

    "Là nguyệt thực."

    Đứa trẻ ấy - dải thường xuân bé nhỏ giữa hoang mạc chết chóc - nằm ngửa mặt lên trời, thoi thóp. Máu ấm loang ra từ ngực cậu, hòa vào máu người mẹ đang đè trên ngực, ướt đẫm tấm áo choàng hồ ly. Mùi sắt tanh xộc lên, hòa vào không khí đen đặc vây lấy màn đêm tối, chỉ còn đôi mắt trẻ thơ díu lại, sáng hơn muôn vì sao.

    Một lần cuối, cậu mong được chạm tay vào vầng nguyệt. Bàn tay nhỏ gắng chút sức rút ra khỏi thi thể nặng nề của mẹ. Đứa trẻ tội nghiệp như ngọn đèn dầu leo lét trước cơn gió tử thần, ráng sức trút một hơi thở cuối, khi tay còn đang vươn đến bầu trời.

    Chính khoảnh khắc ấy - giữa thiên địa tĩnh mịch, khi trăng vừa bị nuốt trọn và ánh bạc không còn chiếu rọi thế gian - một khe nứt mảnh như sợi tóc rạch nhẹ một khoảng ở rìa trời. Ánh trăng bạc mang theo một làn khí vô hình, mỏng tựa khói sương, dìu dịu len qua kẽ khuyết, trôi xuống như một giọt lệ của vũ trụ vào giữa rừng Tịch Lâm - nơi có một đứa trẻ sắp tắt thở.

    Ánh trăng đó không mang hình hài, chỉ lạnh lẽo đến rợn người. Tia sáng vô thức đón lấy bàn tay nhỏ bé, xoáy xuyên vào đáy mắt không còn thần sắc của đứa trẻ.

    Như có một trường năng lượng truyền vào, hơi thở đứt quãng của cậu bỗng trở lại đều đặn, từng nhịp từng nhịp nhẹ bẫng, như dần tan vào thinh không.

    Mặt trăng rồi cũng trả lại ánh sáng cho nhân gian, soi rõ một bãi bình địa thảm khốc - chứng nhân tội ác của thời loạn lạc.

    Ở rìa vực, một bàn tay nhỏ lấm lem bùn máu bám lấy mỏm đá, gượng dậy. Từng ngón tay run rẩy, hơi thở nghẹn đặc mùi đất và sắt gỉ. Cơ thể bé nhỏ ấy rướm máu, nhưng xương cốt chưa gãy, trái tim chưa ngừng.

    Cậu bé cúi xuống, khẽ rút chiếc trâm bạc trên tóc mẹ. Lau đi máu khô. Gấp lại áo choàng hồ ly, ôm vào ngực.

    Cậu bò ra khỏi huyệt mộ vừa chôn sống chính mình, như thể tự vực mình lên từ địa ngục. Ánh mắt đầy phức tạp quét một lượt quanh bãi bầy - nơi những người thân thương nhất chỉ còn là những hình hài lạnh lẽo.

    Không còn tiếng khóc. Không còn ai để gọi.

    Chỉ là những cái xác, còn chưa kịp khép mắt.

    Đôi chân bé nhỏ dẫm lên bùn máu, rẽ cỏ gai, bươn người đi một mạch về hướng vô định. Không quay đầu. Không nói một lời.

    Đứa trẻ ấy vẫn sống.

    Nhưng linh hồn của nó, đã rạn làm hai nửa.

    Vầng trăng bạc cao vời như dõi theo bước chân đơn độc đó - một hành trình sẽ không còn là con đường trở về.

    ###​
     
    Chì Đen thích bài này.
    Chỉnh sửa cuối: 24 Tháng bảy 2025 lúc 8:36 PM
  3. Đinh Đinh Đang Đang đinh đinh đang đang, như tiếng chuông ngân vang ~

    Bài viết:
    0
    CHƯƠNG I - THƯỢNG

    Một Quỳ, Ba Lạy, Ngàn Dặm Tâm Can

    "Thần chẳng cầu danh vọng, chẳng ngại thí thân. Ý chí lãnh binh không phải để giữ vững tang môn, mà để gìn giữ cương vực xã tắc."

    #​

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Gió đầu mùa thổi qua, phấp phới cờ tang trên cổng chính Càn An cung - như một mũi tên bạc ghim vào nóc thành, buốt lạnh, nhức nhối đến tận tâm can. Tiếng trống truyền tin ngân lên dọc các trạm dịch từ kinh kỳ đến tận miền cương ải. Một tấm bố cáo sắc đỏ, chữ huyền như nhung được dán khắp các cổng thành lớn nhỏ trong thiên hạ, chỉ vỏn vẹn một dòng:

    "Tư lệnh Văn Hà Đông, vong thân nơi chiến trận Tịch Lâm."

    Tin dữ lan đi như một cơn gió lạnh rít qua từng ngõ ngách, chẳng ai đón đợi, chẳng ai kịp phòng bị. Từ thành trì đến thôn xóm, từ các trạm dịch ven đường đến cả những chợ phiên lưa thưa dân cư, tiếng truyền nhau chồng lên như lớp lớp sóng gió:

    "Văn Hà Đông, vị Tư lệnh hùng mạnh của Long Y Vệ Ải Quân, đã vĩnh viễn ngã xuống tại chiến địa Tịch Lâm."

    "Quân Long Y mất đi người dẫn dắt, binh sĩ tán loạn, máu đỏ nhuộm cờ, đại tướng chẳng thể trở về nữa rồi.."

    Dưới chân thành, dân chúng chen nhau lắng nghe, người quỳ người khóc, trẻ nhỏ chẳng hiểu chuyện cũng lặng lẽ nắm tay mẹ.

    "Tướng Văn Hà Đông là trụ cột nơi biên ải, sao lại?"

    Bà lão bán bánh trôi buột miệng thở dài:

    "Tư lệnh Văn.. từng cứu dân cả chục làng khỏi giặc phương Bắc, nay ông trời lại nỡ để ngài bỏ mạng nơi rừng sâu.."

    "Thiên ơi! Đây là trời thử lòng người trung liệt chăng.."

    Một ông lão bán giấy cúng ngay sát bàn bố cáo cũng khẽ lắc đầu:

    "Tịch Lâm, năm xưa gọi là tử địa. Không biết lần này triều đình dự tính sẽ thế nào.."

    Cả đám người xung quanh cũng theo đà làm dậy lên một cuộc bàn tán xôn xao:

    "Đúng rồi đó, Tịch Lâm như vậy ai mà dám đi vào"

    "Ôi thật tình, đây đã là lần thứ mấy có tướng triều đình bỏ mạng ở rừng Tịch Lâm rồi"

    "Rừng Tịch Lâm bị nguyền rồi, nghe nói ở đó đã xảy ra nhiều trận thảm khốc lắm. Mấy đoàn đã gửi đi nhưng đều tử trận, chỉ có mỗi tướng lĩnh trở về nhưng cũng không còn sống."

    Tư lệnh Văn Hà Đông - biểu tượng của sự kiên cường, của lòng trung liệt, của uy danh Vĩnh An - từ nay chỉ còn được nhắc đến như một đoạn huyền thoại dang dở. Và đối với người dân, rừng Tịch Lâm giờ đây đích thị là một nơi mang theo lời nguyền chết chóc.

    * * *

    Trong khi ngoài thành còn đang nghẹn ngào tiếng khóc than thì bên trong điện Càn An đã rền vang tiếng trống triệu triều. Tin Văn tướng vong trận khiến bàn cờ chính trị đảo lộn - tựa như long trụ gãy giữa hồi loạn, không dễ gì thay bằng một cái tên.

    Quần thần người thì cúi đầu, kẻ thì đưa mắt liếc nhìn nhau, những ánh mắt mang đầy toan tính đã bắt đầu len lỏi.

    Một vị đại thần cất giọng, ngôn từ cẩn trọng như lưỡi dao lướt qua mặt nước:

    "Khải tấu Bệ hạ.. Long Y Vệ Ải Quân không thể để trống quá lâu. Thần e quân tâm bất ổn, khó bề chế ngự nơi biên thùy."

    Đó cũng là điều khiến tất thảy các đại thần lo ngại. Chiến sự ngoài biên ải chưa yên, rừng Tịch Lâm lại vừa nuốt mất một trong những trụ cột vững vàng nhất triều đình.

    Ai có thể thay thế Văn Hà Đông?

    Tiếng nghị luận mỗi lúc một dồn dập. Có người xin rút quân, bảo toàn lực lượng. Có kẻ đề xuất chia quân cho các tướng khác, phân quyền ra các trấn. Cũng có kẻ nhân cơ hội đề xuất một cái tên trong thân quyến. Trên triều bỗng chốc rối loạn thành một đoàn, đầy ngột ngạt và bế tắc.

    Trong không khí bao trùm bởi lời bàn tán râm ran, ánh mắt tất cả đều hướng về ngự tọa, nơi Hoàng đế Chiêu Tông đang ngồi bất động như tượng đá. Ngài không nói, chỉ siết nhẹ cán ngọc trên long ỷ, đôi mắt từng trải lóe lên tia âm u.

    Đây không chỉ là mất một đại tướng. Đây là việc quốc thể bị lung lay, là trái tim của thiên triều bị khoét đi một khối thịt lớn.

    Ngay lúc ấy - tiếng truyền lễ vang lên ngoài điện:

    "Người nhà Tư lệnh Văn Hà Đông.. đích nữ Văn Ấn - khẩn cầu diện thánh."

    Những cái nhìn phức tạp như ánh mắt diều hâu hướng ra cửa điện - bất ngờ, nghi hoặc, giễu cợt, thương hại, mỗi tia sáng đều chất đầy ý vị khó lường, đan cài lên nhau như một đám mây đen nặng nề.

    "Nữ nhi?"

    "Tới đây làm gì? Định khóc cha hay muốn xin ban tang?"

    "Thật đáng thương.. một đứa trẻ mồ côi, cha vừa mất, phận nữ nhi đơn độc chắc cũng không còn ai để nương tựa."

    "Cũng phải.. Tư lệnh Văn là trọng thần, thân nhân đến cầu chút ân huệ cho gia tộc cũng không phải là không thể."

    Tiếng bước chân từ xa vọng lại, cả điện ngọc bỗng chốc lặng như tờ. Màn lụa hoàng triều khẽ lay, ẩn hiện một bóng người thanh nhã. Tà áo nhấc lên, chiếc giày ngọc thêu chỉ bạc bước qua bậc thềm, vạt áo tang trắng nhẹ bay trong gió sớm, tưởng như một dải chiến kỳ bạc đang rẽ sóng vào đại điện.

    Văn Ấn - đích nữ của cố Tư Lệnh Văn Hà Đông.

    Một thiếu nữ ở tuổi đầu hai mươi, mái tóc buộc cao, trâm bạc điểm nhẹ, lưng thẳng, bước chân vững vàng. Dáng hình mảnh dẻ, nhưng từng dáng đi dáng đứng đều sừng sững không chút lép vế, cứ như trong thân thể ấy chứa cả một đội quân. Tiếng đế giày gõ trên nền đá cẩm thạch, nhịp đều như trống trận. Nơi ngực áo nàng cài lên một đóa hoa bạc, ánh lên trong nắng sớm.

    Đứng trước điện là một nữ nhân từ trên xuống dưới đều toát ra khí tiết Văn gia. Chẳng cần kiếm, chẳng cần lính, nàng vẫn khiến người hai bên phải tự nhường lối.

    Nàng đến, quỳ xuống.

    Ba lạy cung kính, một lạy tiễn cha. Lễ nghi đủ đầy, không thiếu một khắc.

    Ngay khi tiếng quan truyền lễ vừa dứt, nàng ngẩng đầu, cả điện đều lặng lẽ dõi theo đôi mắt đen thẳm đang nhìn thẳng vào long nhan - đúng là sao y nguyên đôi mắt cương trực của lão tướng uy danh lừng lẫy một thời. Nàng đứng dưới bệ rồng mà không hề nhỏ bé. Vẻ yểu điệu khuê các như được cẩn thận giấu nhẹm đi sau lớp tà áo, chỉ thấy đứng trước triều là một nữ nhi có thần sắc bình tĩnh, cương nghị như một binh gia.

    Văn Ấn vẫn điềm nhiên, gương mặt còn trắng nhợt vì đã thức mấy đêm ròng chịu tang, nhưng đôi mắt nàng vẫn sáng, tinh anh hệt như thanh kiếm chưa từng vấy bụi. Và rồi, nàng cất giọng - trong trẻo, rõ ràng như chuông bạc giữa điện ngọc:

    "Thần nữ Văn Ấn, con gái của thân phụ Văn Hà Đông, tham kiến Bệ hạ."

    "Miễn lễ." Hoàng đế đáp, ánh mắt dò xét không rời nàng nửa bước.

    "Tạ ơn Bệ hạ." Văn Ấn khẽ cúi đầu, ngập ngừng một khắc, rồi lại tiếp tục. "Thần nữ hôm nay đến yết kiến, mạo muội.. khẩn cầu Bệ hạ ban lệnh cho thần kế thừa chiến vị của phụ thân. Tiếp quản Long Y Vệ Ải Quân. Trấn giữ ải Thung Long."

    Dứt lời, nàng lấy từ trong tay áo một ống tấu bằng gỗ trầm khảm vàng, dâng cao ngang trán.

    Một làn sóng sững sờ lan ra khắp điện, mặt ai nấy đều biến sắc. Hoàng đế Chiêu Tông hơi nhướn mày nhìn nàng đang quỳ trước điện, tay đưa ra cầm lấy bản tấu chương được dâng lên. Gương mặt ấy không dấu phấn son, sạch sẽ mà cứng cỏi. Tuy chẳng được xem là nét đẹp của mỹ nhân khuynh quốc, nhưng khiến người ta đã nhìn rồi thì khó rời mắt. Ngài cất giọng trầm khàn, tuy không lớn nhưng lại vang như tiếng trống vọng, khiến ai nghe vào cũng cảm thấy một trận căng thẳng chạy dọc sống lưng:

    "Ải Thung Long trấn giữ giữa Vĩnh An với Tấn, Bắc, Thiên Nguyệt đấy à? Do ngươi tiếp quản sao? Dựa vào đâu?"

    Ánh nhìn của ngài đăm chiêu quan sát một lượt thiếu nữ trước điện - huyết mạch duy nhất của Văn Hà Đông - như đang trông thấy một thanh gươm giấu trong lụa trắng. Vầng trán rộng thanh cao, chân mày kiếm dài bay nhẹ, mắt tròn sâu, đuôi dài hất thẳng, mũi cao, đôi môi cánh đào khẽ mím, khuôn cằm gọn. Ở nàng còn lưu lại một ánh nhìn trong trẻo như đá lạnh, lại ẩn giấu bên dưới một tầng ý chí bất khuất khó dò. Khiến trong đầu Thánh thượng bất giác bật lên bốn từ "Phong cốt tuyết tâm".

    Khi nàng cúi đầu thi lễ, dung nhan mang dáng vẻ hiền lành vô hại, nhưng chỉ một nhịp nâng mắt ngẩng lên, cả thần thái lập tức đổi khác, sắc lạnh, khó lường. Chưa có mỹ nhân nào trên đời mà ngài chưa từng nhìn thấy qua, nhưng đứa trẻ này, lại mang một thứ sắc đẹp bướng bỉnh lạ kỳ. Trong mắt của vị quân vương, nàng ta e rằng chỉ mới đáng tuổi đứa con út của ngài. Nhưng cũng chính vì thế, trong lòng Hoàng đế khẽ dấy lên một ý niệm khó nói thành lời. Một người mang khí khái như vậy, vì sao.. đến tận hôm nay mới chịu hiện thân trước triều?

    Ngài lặng lẽ mở tấu chương, nhưng trong thâm tâm lại dấy lên một nỗi hoài nghi:

    "Dẫu có khí khái bất phàm, nhưng chẳng lẽ Long Y hết người rồi sao? Hà cớ gì chuyện binh quyền lại giao cho một nữ nhi trong nhà làm chủ?"

    Thỉnh cầu của Văn Ấn khiến Chiêu Tông Đế bất an ngay lập tức - và điều đó không khó hiểu. Bởi ải Thung Long là lá chắn chủ lực nơi rìa Tây Bắc, vùng đất hiểm yếu trấn giữ giao lộ giữa bốn thế lực: Vĩnh An, Tấn, Thiên Nguyệt và dải đất băng giá phương Bắc.

    Từ lâu, nơi này được mệnh danh là "cánh cửa trấn Tây Bắc" - một khi để mất, toàn bộ phòng tuyến Vĩnh An sẽ mở toang. Đồng thời, ngọn đồi Đài Long tại đây cũng được ví như mũi kiếm chĩa thẳng vào tam quốc, sẵn sàng xuyên sâu nếu biết cách điều binh hợp thế. Vì thế, giới quân sự thường gọi nơi này là "Thung Long Tứ Quốc Trấn Ải" - trấn ải cuối cùng. Mà đã là cuối cùng, thì không thể để vỡ.

    Các đại thần bên dưới điện vừa nghe đến đã dội, bất chấp nội dung tấu chương là gì, một vài vị trong số đó đã lập tức trao đổi ánh mắt.

    "Phận nữ nhi sao có thể cầm binh? Nào có phải chuyện cha truyền con nối đâu? Thung Long, là Thung Long Tứ Quốc Trấn Ải đấy."

    "Long Y Vệ chẳng phải có hẳn cuộc thi tuyển thủ lĩnh sao, cái gì Tam Trận cái gì Cân Tâm, cuối cùng lại để con gái cố Tư lệnh lên thay à?"

    "Long Y Vệ Ải Quân cũng là trọng binh nơi biên ải, nào phải chốn cho nữ tử hiếu thắng bày trò?"

    Không ít ánh mắt nghi hoặc dừng lại trên người Văn Ấn, có kẻ đã quay đi, như không thèm xem đó là điều đáng để cân nhắc. Vài vị đại thần vốn thân thiết với Văn Hà Đông trên điện trầm ngâm nhìn nàng, ánh mắt lộ vẻ trăn trở. Một thiếu nữ chưa qua ngưỡng hai mươi lăm, lại đang trong tang chế, có thể nào đảm đương trọng trách của một Tư lệnh quân đội?

    Một vị lão tướng bước ra khỏi hàng, chắp tay khấu đầu, lời lẽ ôn tồn:

    "Bệ hạ, thần hiểu lòng trung hiếu của tiểu thư Văn gia. Nhưng chiến trường ở biên ải Thung Long vốn hiểm trở, nay binh tâm chưa định, lòng người chao đảo, e rằng.. giao binh quyền cho một nữ tử chưa từng lập công, chỉ sợ khiến sĩ khí bất ổn, lòng quân bất phục."

    Lại có kẻ khác phụ họa:

    "Bệ hạ, lão tướng Văn Hà Đông uy trấn thiên hạ, nhưng nữ nhi của ông ấy.. sao lại có thể chỉ dựa vào một thân huyết thống mà ngồi ngang hàng cùng danh tướng?"

    Không khí trong điện dần chuyển lạnh, như thể nếu có ai thở mạnh, toàn bộ cục diện căng như cung đàn sẽ bị phá vỡ.

    Tuy đứng giữa làn sóng hoài nghi vây đến dồn dập, Văn Ấn vẫn không để lộ sắc mặt. Nàng không phản bác, cũng không vội vàng mở lời cầu xin, chỉ lặng lẽ chờ cơn sóng nghị luận lặng lại như mặt hồ, rồi khiêm nhường tiến một bước. Khí khái không hề nao núng, Văn Ấn giữ đầu cúi thấp, tiếp tục cất lời như thể đã đợi chờ khoảnh khắc này từ rất lâu:

    "Thần nữ Văn Ấn, khấu đầu bái kiến Bệ hạ cùng chư vị đại nhân,

    Muôn tâu Bệ hạ, thần chẳng dám cậy thân thế, càng không dám mượn danh phụ thân để cầu vinh hoa. Nếu chỉ là chuyện kế thừa trong gia đạo, thần đã chẳng dám đặt chân vào nơi này.

    Nhưng tại Tam Trận Cân Tâm - vốn để chọn người kế thừa ý chí Long Y - thần chính là người đã chiến thắng. Ba cửa trận, thần đã bước qua. Lòng quân, thần đã thu phục. Văn thư xác nhận kết quả vẫn còn nguyên vẹn dưới ấn tín Long Y, sẵn sàng dâng trình trước triều."

    Một lời xác nhận thốt ra, hàng vạn tiếng siết khẽ vang lên, như thể đám đông nghe nàng đang vô cùng sửng sốt. Rất nhiều người chưa từng trông thấy nàng, lại càng không ngờ người thắng trận ấy lại là một nữ nhân tuổi đời mới đầu hai mươi.

    Hoàng đế Chiêu Tông hạ mắt nhìn tấu chương và hồ sơ vừa được dâng lên, nội dung trình bày đầy đủ tên người tiến cử, danh sách quan tướng làm chứng, bản ghi chép từng lượt tỉ thí, từng khắc phân thắng bại. Kết quả tam trận vô cùng sít sao, nhưng rõ ràng - Văn Ấn là người đứng đầu.

    Đây không còn là "nữ nhi của Văn Hà Đông".

    Mà là kẻ đã thắng Tam Trận Cân Tâm - người giỏi nhất trong toàn bộ đội quân Long Y lúc ấy.

    ###​
     
    Chỉnh sửa cuối: 24 Tháng bảy 2025 lúc 8:36 PM
  4. Đinh Đinh Đang Đang đinh đinh đang đang, như tiếng chuông ngân vang ~

    Bài viết:
    0
    CHƯƠNG I - HẠ

    Một Quỳ, Ba Lạy, Ngàn Dặm Tâm Can

    "Thần chẳng cầu danh vọng, chẳng ngại thí thân. Ý chí lãnh binh không phải để giữ vững tang môn, mà để gìn giữ cương vực xã tắc."

    #​

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Văn Ấn môi khẽ mím lại, hai tay bên trong áo đã bấu chặt vào nhau đến tê buốt, nhưng nàng tự nhủ phải tiếp tục, phải nói tiếp cho trọn vẹn.

    "Từ khi còn nhỏ, thần đã được phụ thân dạy dỗ binh lược. Lớn lên trong doanh trại, sớm quen mùi khói lửa, lưng ngựa và chiến hào trở thành bạn đồng hành. Trước tuổi đôi mươi, thần đã từng cùng Long Y chinh chiến khắp nơi, máu đổ nơi sa trường, từng chôn xác đồng đội bằng tay trần.. Những điều ấy, không phải để kể công, mà là để chứng minh: Thần không phải kẻ xa lạ với chiến trận."

    Văn Ấn nói đến đâu, ánh mắt của hoàng đế trượt trên tấu chương đến đấy, như đang kiểm chứng những năm tháng nàng vừa nhắc đến - từng mốc, từng dấu, đều được ghi chép đầy đủ trong hồ sơ quân ngũ.

    "Sau Tam Trận Cân Tâm, doanh trại Long Y đã từng dâng tấu chương xin được thụ lý tư cách kế thừa khi phụ thân còn tại vị. Nhưng đã hơn một năm trôi qua, tấu ấy vẫn chưa từng được phê. Nay phụ thân đã tử trận, biên cương không thể đợi, Long Y Vệ Ải Quân cũng không thể để trống. Thần vâng lệnh toàn quân, đích thân mang tấu chương tiến cử vào cung.

    Thần vốn chẳng cầu danh vọng, chẳng ngại thí thân. Ý chí lãnh binh không phải để giữ vững tang môn, mà để gìn giữ cương vực xã tắc.

    Cúi xin Bệ hạ chuẩn tấu, cho phép thần lãnh binh." Một vái thật sâu, dõng dạc thốt lời, như vừa căng một mũi tên bạc phóng vào không trung.

    Hoàng đế Chiêu Tông khép nhẹ tấu chương xuống, ánh mắt đăm chiêu nhìn về phía Văn Ấn. Trong đó có cả sự thương cảm sâu sắc cho phận nữ nhi mỏng manh, mất cha khi còn trẻ, buộc phải gánh trên vai trách nhiệm nặng nề mà có khi chính mình lại chẳng hề chọn lựa. Nhưng trong thâm tâm, vị quân vương cũng không thể phủ nhận một chút bài xích, nghi hoặc về khả năng của nàng. Nàng ta đang đứng ở nơi vốn dĩ không nên dành cho nữ nhi, là chuyện chưa từng có tiền lệ, và điều đó khiến ngài đắn đo rất nhiều.

    Giờ đây, khi nghe Văn Ấn trình bày, trong đầu ngài liền hiện lên mảnh ký ức về tấu chương từng nhận - bản thông báo người thắng Tam Trận Cân Tâm, kế thừa doanh trại Long Y. Khi đó ngài chỉ liếc mắt qua, và biết đó là một nữ nhân. Thế nào cũng không ngờ rằng đó chính là đích nhi tử của y, ông ta dường như chưa từng nói qua về đứa con gái này. Vốn lòng chưa thỏa, ngài đã không duyệt tấu ngay, chủ định tìm một vị tướng nam tài ba khác để đề xuất cho Văn Hà Đông.

    Vậy mà, vận mệnh lại sắp đặt khác. Không ngờ Văn Hà Đông lại ra đi đột ngột như thế. Người phù hợp thì chưa tìm ra. Mà con gái ông ta, thì đã tìm đến trước cửa đại điện.

    Hoàng đế nhắm mắt, đưa tay xoa nhẹ mi tâm, ngả lưng về ngai vàng phía sau.

    "Lẽ nào.. lại là số phận?"

    "Văn Hà Đông nằm xuống, chính là để nữ nhi của hắn phải đứng đây, vào lúc này. Ngay lúc trẫm từ chối thì cũng không thể có biện pháp nào khác?"

    Ngài ngẩng đầu, đối mặt đôi mắt đen thẳm kia - sao mà giống đôi mắt của lão Văn tướng đến thế?

    "Trẫm không nói là.. không thể trao binh cho ngươi." Giọng ngài cuối cùng cũng cất lên giữa đại điện, trầm ổn như tiếng thở dài, từng lời rành rọt. "Nhưng Văn Ấn, Long Y Vệ Ải là quân tinh nhuệ trấn quốc, Thung Long còn là địa thế mũi nhọn xuyên địch, là trụ cột quân sự bao đời của Vĩnh An. Ngươi muốn cầm quân, muốn kế thừa chiến vị của phụ thân, vậy thì nói cho trẫm biết.. trẫm phải dựa vào đâu để định bản lĩnh? Tin rằng người thắng vị trí kế thừa cũng chính là con gái của cố Tư lệnh chỉ là một sự trùng hợp, không phải trò sắp đặt của bọn lão tướng hậu cử?"

    Trước điện khẽ lặng một khắc, những tiếng nghị luận trái chiều vẫn cứ thế mà lọt vào tai nàng.

    "Thắng thì thắng, nhưng tuổi này còn trẻ quá.."

    "Tam trận tổ chức gấp rút, chưa đầy ba ngày, liệu có đủ để loại người thiên vị?"

    "Quân Long Y trước giờ vốn trung thành mà, bố trí các trận đấu đều nổi tiếng khắt khe, có danh sách giám sát rõ ràng. Liệu có thể chỉ vì chuyện huyết thống mà dám đánh đổi hết uy danh này?"

    "Nhưng chung quy sao lại tiến cử con gái chứ.."

    Văn Ấn ngẩng đầu, ánh mắt bình thản mà không lạnh lẽo. Nàng nhìn thẳng vào vua Chiêu Tông. Trong ánh mắt không hề có sự thách thức, như thể đã rất sẵn sàng cho câu hỏi này. Rồi giọng nàng vang lên, rắn rỏi như thép lạnh giữa điện vàng:

    "Bệ hạ nói đúng. Long Y là ngọn giáo nơi biên cương, không thể dễ dàng giao vào tay một kẻ chưa tỏ rõ thực tài. Được sống và phò tá dưới nỗi ưu tư của bệ hạ cùng chư vị đại thần, với thần nữ mà nói.. đã là đại phúc."

    Lời nói nhẹ mà từ tốn, như đang xoa dịu nỗi đau của một con thú bị thương.

    "Nhưng cũng xin Bệ hạ và chư vị đại thần minh xét: Long Y chọn thần nữ, không phải vì cạn người tài. Mà chính vì có nhiều nhân tài nên việc truyền thừa theo huyết thống không khác nào một nỗi sỉ nhục. Một kẻ đã thắng mà không được công nhận - ấy mới là vết nhơ không thể rửa sạch trong quân kỷ." Câu tiếp theo lại như một cái lồng sắt, vây lấy con thú ấy.

    Nàng chậm rãi đưa mắt nhìn quanh điện, từng bước, từng vị quan. Không né tránh.

    "Thần nữ rõ, chuyện nữ nhi lãnh binh với triều đình là điều khó dung. Trước khi thần đứng ở nơi này, chính hàng ngũ tướng sĩ Long Y cũng từng mang trong lòng những mối hoài nghi giống hệt chư vị hôm nay. Tam Trận Cân Tâm - không phải một trò thi diễn. Đó là nơi thật kiếm, thật người, thật lệnh, vô tình và khốc liệt. Một kẻ yếu sẽ không thể trụ nổi, một kẻ dốt càng không thể thắng binh. Thần bước ra khỏi trận ấy, không phải bằng huyết thống, mà là vì thần đã minh chứng trước toàn quân, buộc họ thừa nhận: Thần có thực lực, có đầu óc, có bản lĩnh thu phục lòng binh và có ý chí giữ vững di sản quân sự của phụ thân."

    Đến đây, nàng khẽ nghiêng người, giọng chợt hạ thấp:

    "Thần nữ có thể chưa đủ tin cậy. Nhưng.. chẳng lẽ chư vị nơi đây lại nghi ngờ lòng trung và ánh mắt của toàn trại Long Y? Cả một doanh trại từng gắn bó máu thịt với cố Tư lệnh Văn Hà Đông - há có phải chỉ vì thần là nữ nhi mà cả phán đoán của họ cũng bị xem thường? Thử hỏi, các vị coi lòng họ là mù lòa, vô tri sao?"

    Từng lời giáng xuống như đánh thẳng vào tâm can. Có vị đã toát mồ hôi, cố ghì chân không run. Con bé này.. là đang xin lệnh, hay đang đánh trận?

    "Nếu Bệ hạ vẫn còn do dự, thần không ngại trước đại điện chịu khảo nghiệm một lần nữa. Nhưng nếu hôm nay triều đình vẫn không công nhận kết quả cuộc thi, không công nhận chí nguyện bảo vệ ải Thung Long, thì xin hãy nói rõ trước thiên hạ: Rằng nơi này, một nữ nhân dù thắng trận cũng không thể lãnh binh. Rằng nơi này, công lý phải dừng lại trước huyết thống và giới tính."

    Sắc cạnh, bén ngọn, từng câu nói đều như mũi giáo xiên thẳng vào trọng tâm. Lời nói khiến ai đứng trên điện mà hoài nghi, đều bất giác cảm thấy vừa bị đâm cho một kiếm. Sự truyền thừa này, không chỉ là kế vị hay dòng máu, mà còn là khí khái, ánh mắt, và khẩu khí như vũ bão ấy.

    Giữa sự im lặng đè nén trong điện, một tiếng đập quạt nảy bật vang lên.

    Thượng thư Bộ Binh - Phùng Thế Hành - tóc đã điểm bạc, mặt đỏ phừng vì giận, đứng bật dậy.

    "Hoang đường! Một nữ tử - dù có thắng trận, dù có được quân lính tín phục nhất thời, cũng không thể gánh vác vận mệnh một quân đoàn! Bổn quan nói thẳng: Chẳng phải vì thành tích mà triều đình chọn người lãnh binh, mà là vì đại cục và đạo lý lâu dài!"

    Ông trỏ thẳng tay về phía Văn Ấn, mặt đỏ dần vì phẫn nộ:

    "Ngươi một hai đến đòi công lý? Thắng trận là công lý? Thế nếu ngày mai có một tên giặc phản tặc trá hàng mà cũng thắng trận, triều đình cũng sẽ để nó lên nắm binh sao?"

    Văn Ấn trước cái trỏ tay ấy, ánh mắt tuy không hề xao động, nhưng trong lòng vốn đã chạy một trận rét run khắp mình, buộc phải siết lại nắm đấm để đứng vững.

    Ông quay sang vua Chiêu Tông, nghiêng người chắp tay, nhưng giọng vẫn cứng như thép:

    "Bệ hạ, xin lượng xét! Thần không hề xem nhẹ tài năng của Văn tiểu thư, nhưng để một nữ tử nắm Long Y - là sai từ gốc. Sai về đạo quân, sai về nghi lễ, sai cả về lòng dân! Một khi tiền lệ này mở ra, quân cương sẽ đảo lộn, lễ giáo chẳng còn! Kẻ dưới nhìn lên sẽ nghĩ rằng chỉ cần thắng một trận là có thể leo lên đầu triều đình! Quân đội sẽ biến thành nơi thi đua đoạt vị, chứ không còn là thành lũy giữ nước!"

    Ông vỗ mạnh tay vào đai ngọc, từng chữ bắn ra như roi:

    "Nay chưa muộn, xin bệ hạ không dao động lòng tâm. Long Y là khí cốt của quốc gia, không thể để vận mệnh dập dềnh theo cảm tính và vài lời dũng khí suông của một nữ tử tuổi còn xanh!"

    Tiếng vang còn đọng giữa điện, một số đại thần khác khẽ gật đầu. Phía dưới, vài kẻ thì thầm, ánh mắt không giấu nổi sự nghi ngờ, thậm chí là khinh mạt.

    Không khí căng ra đến mức chẳng ai dám thở mạnh. Và giờ - tất cả đều dồn về phía Văn Ấn.

    Văn Ấn không cúi đầu. Nàng cũng không cảm thấy đáng giận. Các lão tướng ở doanh trại, hoàn toàn đã lường đúng cục diện. Ánh mắt nàng hướng về Thượng thư Bộ Binh - không gườm ghè, nhưng cũng chẳng hạ mình.

    "Thượng thư nói đúng. Chiến thắng một trận, không đủ để lãnh binh cả đời. Và lòng người - không thể dùng lưỡi mà đoạt lấy. Vậy nên.."

    Nàng xoay người, quỳ một gối trước điện, ôm lấy quyền, giọng kiên định như vách đá giữa cuồng phong:

    "Nếu không thể được tin bằng lời. Chi bằng xin Bệ hạ hãy ban chỉ dụ - cho phép thần nữ được tiếp nhận nhiệm vụ phá giải rừng Tịch Lâm.."

    Chỉ một câu ngắn, mà như sấm nổ giữa trời quang.

    Cả chính điện như bị rút sạch không khí.

    Lá vàng rơi qua bậc thềm, cuốn xoáy như báo hiệu điều gì đang chực chờ thức dậy giữa rừng sâu.

    ###​
     
    Chỉnh sửa cuối: 24 Tháng bảy 2025 lúc 8:37 PM
  5. Đinh Đinh Đang Đang đinh đinh đang đang, như tiếng chuông ngân vang ~

    Bài viết:
    0
    CHƯƠNG II - THƯỢNG

    Gió Nổi Từ Đất Trên Thành

    "Sự trưởng thành của Văn Ấn chính là kết tinh của nhiều ngày tháng phơi nắng trắng sương của Thổ Đầu cộng lại, gom góp từng chút một, mỗi năm lại lớn thêm đôi phần."

    #​

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Đại điện Càn An, trong một buổi sớm, đã gánh lấy quá nhiều tin dữ dội.

    Chẳng ai ngờ, chỉ trong vỏn vẹn vài ngày, một cột trụ quân cơ đã ngã xuống giữa tử địa Tịch Lâm. Và giờ đây, ngay trước mắt họ, vận mệnh triều đình như sắp rẽ sang một khúc ngoặt chưa từng có trong lịch sử.

    Văn Ấn đứng giữa trăm quan văn võ, với bao ánh nhìn nặng nề và hồ nghi. Họ không thể ngờ một nữ tử vóc dáng mảnh mai, tuổi đời chưa vượt quá hai mươi lăm, lại dám quỳ thẳng lưng, ngẩng cao đầu, nói ra một lời thỉnh cầu thấm đẫm ý quyết tử.

    "Xin đi vào Tịch Lâm lúc này, khác gì xin đi chết?" Một vị đại thần không nhịn được mà nói khẽ.

    Ngay cả Thượng thư Phùng Thế Hành - kẻ vốn quen dè dặt, thận trọng, lắm năm cân não chính sự - cũng không giấu nổi vẻ sửng sốt. Ông chưa từng nghĩ, một người trẻ tuổi như nàng, lại có thể đẩy thỉnh cầu của mình đến tận cùng ranh giới sống chết. Vốn dĩ, ông chỉ định lấy lời can gián mà khuyên lui trong danh dự, chứ không phải bức nàng đến mức này..

    Văn Ấn vẫn bình thản, như thể tất cả đều đã ở trong dự liệu. Giọng nàng trong trẻo nhưng cứng rắn, vọng lên giữa điện đường lặng phắc:

    "Xin Bệ hạ ban chỉ dụ – cho phép thần nữ tiếp nhận nhiệm vụ phá giải Tịch Lâm, hoàn thiện Vĩnh An Đại Đồ làm minh chứng, lấy thân này làm ranh giới cuối cùng. Nếu thần có thể vượt ải thiên hiểm, hoàn tất đồ hình, chứng minh tài đức nơi thực địa hiểm trở, thì mới dám bàn đến việc đảm nhận hậu quân. Thắng - giữ lấy quân kỳ Long Y. Bại - xin trả lại đầu dưới chân tướng sĩ. Không mong ân sủng, chỉ cầu một cơ hội đánh trận như một người lính thực thụ."

    Một lời dứt, trăm quan chấn động. Không khí trong đại điện như khựng lại, mũ miện nghiêng ngả, chỉ còn tiếng tim đập gấp gáp trong lồng ngực mỗi người.

    "Vĩnh An Đại Đồ" - bản đồ lãnh thổ Vĩnh An, chính là công trình đo đạc toàn quốc thổ, nối liền từ biên ải Thung Long tới bảy trấn ngoại biên, từ Tây Sơn đến bến Hạ Hải. Đây cũng được xem như một bản đồ mang tầm quân sự chiến lược, trong đó các vùng đất phòng thủ, trận địa, các tuyến giao thông quan trọng đều được phân tích chi tiết. Tuy nhiên, rừng Tịch Lâm thuộc vùng lãnh thổ Tây Bắc Vĩnh An, với địa hình phức tạp và sự nguy hiểm vốn có, đã bị bỏ qua trong các kế hoạch phòng thủ trước đó.

    Vua Chiêu Tông nhận thấy rằng việc không có một trận địa vững mạnh tại Tịch Lâm có thể là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia, khi quân từ các nước cận biên có thể lợi dụng sự thiếu vắng phòng thủ ở khu vực này để xâm lấn Vĩnh An. Chính vì thế ngài mới không ngừng cử quân đi thám thính trận địa, nhưng đều thất bại. Cuối cùng, trọng trách lại được đặt lên vai của Văn Hà Đông - trụ cột quân sự triều đình. Nào có ngờ đâu, lại mất đi một vị tướng giỏi.

    Ai ai cũng nhận định, đó là công trình tốn máu và mồ hôi, chứ nào phải trò đùa son phấn.

    Một vị đại thần bước ra khỏi hàng, tay áo khẽ rung khi cúi mình thi lễ:

    "Khải bẩm Bệ hạ, thần là Lục Dận, Tả Thị Lang Hộ Bộ, tuy không thuộc quân ngũ, nhưng hiểu rõ đạo trị nước: Kẻ có tài, không nên để phí; người có chí, không nên bị vùi. Giang sơn là của thiên hạ, mà binh quyền nếu chỉ giới hạn trong khuôn khổ huyết thống hay thân phận, ắt sẽ lỡ mất nhân tài, tổn hại đại cục. Văn Ấn thắng Long Y Vệ Ải Tam Trận Cân Tâm, đó là thực tích được ghi chép. Nếu không thể công nhận ngay, thì cũng không nên phủ quyết ý chí nơi nàng."

    "Thần cho rằng, thay vì tranh luận nữ hay nam, nên nhìn vào khí cốt và thực lực. Nếu Long Y quả thật chọn sai người, chi bằng cứ trao một cơ hội, và để Tịch Lâm trả lời thay." Người vừa dứt lời, xung quanh lại một thoáng im bặt.

    "Ha ha ha ha!" Vua bật cười lớn, vang khắp đại điện. Nụ cười hài lòng, không giấu nổi niềm vui sau khi nghe qua ba lời đối đáp vững vàng, lời nào cũng có lý. "Có khẩu khí! Các khanh gia đều là người có tâm, có trí cả! Trẫm được nghe lời thẳng, thấy người giỏi, lòng vui hơn gặp hổ báo đã quy hàng. Nếu trong triều còn nhiều người như thế, giang sơn này chẳng lo thiếu tay dựng xây."

    Sự hài lòng của bậc quân vương phá vỡ cục diện tam giác đang căng thẳng. Ai nấy đều khấu đầu, Văn Ấn cũng bất giác cúi sâu hơn.

    Nhưng rồi, nụ cười ấy chậm rãi tan đi. Vua Chiêu Tông đứng dậy, bước ra khỏi long ỷ, đứng thẳng người nhìn xuống thân nữ nhi giữa đại điện. Thở một tiếng dài, như một người cha từng trải nhìn đứa con gái khờ dại đang gắng làm người lớn.

    "Nơi phụ thân ngươi đã bỏ mạng - rừng Tịch Lâm - vẫn còn chưa yên. Bản đồ còn dang dở, hung họa trong rừng vẫn chưa trừ xong. Ấy thế mà ngươi vẫn dám đi tiếp?"

    Một câu rơi xuống như lưỡi đao chém thẳng vào lòng người. Không chỉ là thử thách, mà là bi thương khắc khoải - nỗi đau nhắc lại nơi cha nàng đã ngã xuống, máu chưa kịp khô, xương cốt đồng đội còn chưa kịp gom. Trong phút chốc như đã hóa đi cả nửa phần khí phách.

    Nghe đến cha, trong đáy mắt nàng thấp thoáng một tia xao động. Phải, nàng rõ hơn ai hết, Tịch Lâm - nơi cha đã hết mực tâm huyết, thậm chí đã để lại số phận mình là một vùng hoang vu tử địa, đã vào chưa chắc có ngày bước ra. Nàng thực có sợ, nhưng nếu bây giờ chùn bước, có chăng đã phụ nửa đời chí khí cha từng dốc?

    "Hồi bẩm Bệ hạ! Một ngày giặc còn chưa lui, một tấc đất Vĩnh An còn chưa vẽ trọn, thần nguyện không lùi nửa bước."

    Đế vương thở dài rất khẽ, ánh nhìn rốt cuộc dừng lại trên người thiếu nữ đang quỳ giữa đại điện. Việc giao binh quyền vào tay một nữ nhi, cho dù là con gái của Văn Hà Đông, vốn chưa từng có tiền lệ. Quân pháp nghiêm ngặt, đại cục trọng yếu, làm sao có thể mạo hiểm chỉ vì một ngọn lửa bướng bỉnh nơi đôi mắt ấy?

    "Có phải.. mọi hào kiệt trên đời đều chỉ sinh ra trong thân xác nam nhân?" Một ý nghĩ thoáng qua, khiến bậc quân vương bất giác trầm ngâm. Kỳ thực nữ nhân nắm binh quyền, cũng không phải chuyện chưa từng xảy ra trên đời. Chẳng phải ở ngay nước lân bang Thiên Nguyệt, chính một nữ vương cũng đang nắm quyền thiên hạ, làm khuynh đảo triều cục cả vùng Đông cương đó sao?

    Khẽ hít vào một hơi sâu, Đế vương cân đi nhắc lại, cuối cùng chỉ có thể siết răng, bật ra lời nói âm trầm:

    "Tốt. Dám nói ra lời ấy, ắt phải có gan gánh lấy hậu quả." Ngừng một chút, trong tay ngài lại xoay chén trà, không biết qua bao lâu mới lại nói tiếp.

    "Văn Ấn. Trẫm cho ngươi thời hạn hai tháng và sáu mươi quân. Đều là kỵ binh tinh nhuệ ở Bắc doanh, từng có công trong trận Phong Thủ năm trước. Trong vòng hai tháng, nếu ngươi có thể thu phục được rừng Tịch Lâm, dâng lên bản đồ Vĩnh An hoàn chỉnh - trẫm sẽ trao quân phù."

    Giọng ngài vững vàng như núi, mang theo khí thế đế vương không thể lay chuyển. Không ai biết được, để có một khắc buông ra lời này, đã phải chứa đựng bao nhiêu điều đắn đo.

    "Nên nhớ. Nếu trong hai tháng ngươi chưa có bản đồ hoàn chỉnh, hoặc để tổn thất binh sĩ vượt quá hạn mức.. thì từ đó về sau, chớ nhắc đến hai chữ" Long Y "trước mặt trẫm." Lời nói nghiêm khắc, xem như là sự nhượng bộ cuối cùng dành cho nàng.

    Hoàng đế còn chưa dứt lời, Văn Ấn đã dập đầu, trán chạm đất, trong tim như bị siết một cái thật mạnh. Cuối cùng.. một cánh cửa cơ hội cũng đã mở ra.

    "Tạ ơn Bệ hạ đã hạ ân. Nhưng.. thần nữ có một thỉnh cầu."

    "Ngươi còn điều gì muốn nói?" Vua Chiêu Tông nheo mắt, bàn tay trên long ỷ khựng lại một nhịp.

    "Ba mươi quân tinh nhuệ ở Bắc doanh, thần không dám coi nhẹ. Nhưng để thử thách bản lĩnh, lại còn là giải quyết xong một nhiệm vụ, không gì tốt hơn là các binh sĩ đã cùng thần vào sinh ra tử của Long Y Vệ Ải Quân. Xin Bệ hạ cho phép thần lãnh binh cùng họ, để chứng minh Long Y Vệ Ải Quân xứng đáng với danh tiếng của mình trước triều thần."

    Những lời này của Văn Ấn không phải là một yêu cầu đơn giản, mà là một lời cam kết hoàn thành nhiệm vụ. Một sự khẳng định về danh dự và lòng trung thành với đội quân mà nàng đã sát cánh cùng cha suốt bao năm qua. Không ai dám nói gì, chỉ có những ánh mắt đầy sự trầm tư, rồi những lời xì xào cũng bắt đầu len lỏi khắp hàng văn võ bá quan.

    "Lại còn xin chọn quân?" một vị đại thần cau mày, giọng gần như bật ra khỏi cổ họng.

    "Muốn lập công.. mà còn đòi chọn lính thân quen? Có phải là đưa người nhà đi dạo trong rừng không?"

    "Nhưng.. nàng ta nói không sai," một vị khác vuốt râu, gật đầu chậm rãi, "Long Y Vệ là đội quân giáp rừng Tịch Lâm, hiểu từng lối mòn, từng thế hiểm. Có họ, mới thật sự là thử lửa thực lực. Là nhiệm vụ thực sự chứ không chỉ là một bài kiểm tra giả định."

    "Đem cả danh dự Long Y ra đánh cược, lại còn công khai giữa triều thần.. Gan không nhỏ đâu."

    "Cũng có thể là liều mạng, ai mà biết được?"

    "Hoặc là.. đang đánh một ván tất tay, vì biết rõ nếu thất bại lần này, sẽ không còn cơ hội thứ hai."

    Thánh thượng khẽ nhếch môi, một tia ý cười thoáng qua trong mắt ngài, nhưng lại nhanh chóng bị che lấp bởi sự lãnh đạm quen thuộc. Ngài khẽ gật đầu, ra hiệu cho nàng đứng lên: "Nếu ngươi đã một mực như thế.. trẫm chuẩn tấu. Sáu mươi quân, không hơn một, không thiếu một. Tất cả hậu quả, từ nay về sau.. một mình ngươi gánh lấy."

    Một viên nội thị lĩnh chỉ nhanh chóng ghi lệnh, giọng cao vút như chuông đồng:

    "Thừa chỉ! Đích nữ Văn Ấn lĩnh sứ mệnh hoàn thiện Vĩnh An Đại Đồ. Kỳ hạn hai tháng - nếu thành công, ban thưởng tước phẩm; nếu thất bại, triều đình không khoan thứ."

    Lệnh ban ra, không thể vãn hồi.

    "Tạ chủ long ân. Thần nữ nhất định sẽ không phụ lòng Bệ hạ."

    Văn Ấn kính cẩn nghiêng mình, đứng dậy hành lễ, cả người toát ra một vẻ bất khuất hiếm có. Và không một lời thêm bớt, nàng quay người, sải bước ra khỏi đại điện. Bóng vạt áo lất phất, lộ ra vạt giáp bạc dưới lớp trường y, từng là vết sắt đã cùng nàng vượt muôn dặm chiến trường. Ánh nắng soi xuống điện ngọc rõ đến từng hạt bụi, khi nàng bước qua liền soi giáp bạc sáng chói.

    "Trẻ người như thế mà đã mang phong thái bình đạm, cứng rắn như sắt được trui rèn trong lửa. Đứa trẻ này không biết thời thơ ấu đã phải trải qua những gì nữa." Một vị đại thần khẽ tặc lưỡi, nhìn theo nàng khuất sau cánh cửa đại điện.

    * * *

    Thung Long,

    Trích từ Nhật ký Tư Lệnh Văn Hà Đông.

    Ngày Quý Tỵ, tháng Tư, năm Kiến Dân thứ mười sáu.

    "Lúc nó mới bốn tuổi, tóc rối, mặt tròn, lưng đeo túi vải, được người đưa đến doanh trại.. Ta thật chẳng biết nên làm gì với nó. Phu nhân đã khuất. Trong thành cũng không còn ai. Với chức vị hiện tại, ta vẫn chưa thể hoàn toàn tự quyết. Khi ấy, ta chỉ nghĩ: Giữ cho nó sống đã là giỏi."

    ..

    "Ta ghi danh nó dưới thân phận con của một binh sĩ tử trận. Đứa nhỏ này chưa từng một lần nhìn thấy đao kiếm, gần ngựa thì khóc toáng. Đêm đầu tiên ngủ trong lều, nó sợ tiếng tù và hú mà khóc. Khóc không ra tiếng, chỉ nằm co lại như mèo ướt. Ta thương, nhưng chẳng thể lại dỗ, cứ luôn phải cẩn trọng, để tránh sinh nghi.."

    ..

    "Ta để nó sống giữa đám lính, miễn là không chạy ra trước trướng doanh. Đứa bé ấy chạy bếp, kéo gỗ, đổ nước, phơi giáp.. cái gì nó cũng làm. Vốn chưa từng nghĩ sẽ dạy nó binh pháp. Là con gái, ta chỉ mong nó yên phận mà lớn. Sau này, nếu gió yên, sẽ gửi đi nơi khác, sống đời thường dân.."

    "Nhưng nó không chịu yên.."

    "Bị lính trêu, nó xông tới đánh. Chơi đùa cùng đám lính tráng, bốc đất ném nhau, ngã gãy răng rồi lại bò dậy cười. Làm sai mà bị phạt vẫn tiếp tục làm cho đúng.

    Có lần, trời mưa lạnh đến đóng tuyết, nó vẫn đốt củi canh tháp suốt đêm. Ta thấy nó từ trên vọng lầu, đã nghĩ:" Nếu là con trai.. có khi còn hơn cả ta. "Nhưng tiếc thay.. nó lại là con gái."

    ..

    "Rồi từ khi nào, đứa trẻ đó không còn khóc nữa. Không sợ nữa. Lính gọi" Thổ Đầu ", nó gật đầu cười. Đặt gươm lên bàn, nó học cách lau lưỡi kiếm. Từ đó, ta bắt đầu dạy nó như ta từng học: Nghiêm, gắt, không nhường."

    "Ấy thế mà đã tròn ba năm."

    ..

    Gấp lại quyển nhật ký, Văn Ấn nở một nụ cười nhàn nhạt - nụ cười nhẹ như gió thoảng. Nàng chống tay ra sau, ngồi tựa trên mỏm đá cao, ngắm nhìn bầu trời Thung Long vô tận.

    Trăng đêm nay sáng trong, ánh bạc rải khắp đỉnh đồi, lấp loáng bóng trăng trên mặt dãy suối uốn lượn cạnh bên mỏm đá, hệt như một vết cắt rạch ngang lòng thung, trườn xuống tận mái trướng phía dưới. Địa thế đắc thủ nhất Thung Long chính là vùng Đài Long - nơi đại doanh Long Y đóng quân. Ngọn đồi bán thảo nguyên nhô cao ấy được ví như sống lưng của một con rồng đang ngủ, mang cả đại bản doanh Long Y gánh trên lưng. Tổng trại được đóng theo thế cánh cung, các dãy trướng vải vàng đất viền đỏ trải dài, quanh năm rực sắc hoàng lệnh.

    Về đêm, trướng trại rực sáng như một chuỗi đèn lồng, với ánh tim lửa bập bùng bên trong không bao giờ tắt. Khói hiệu từ bảy tháp canh luân phiên cuộn lên trời như nét mực trong bức thủy mặc đang động. Giữa trung tâm, bản doanh lớn bằng gỗ lim đen hiện lên như hình sư tử canh gác. Xa hơn, võ đài Phong Linh ẩn hiện sau lớp sương mỏng, mỗi khi gió thổi qua lại ngân vang tiếng chuông đồng - âm thanh vừa đánh thức, vừa ru hồn, như tiếng rồng gọi trận vọng lên từ đáy vực. Vào những ngày trời trong, từ đỉnh Đài Long có thể nhìn thấy cả hồ Châu Ngân phía xa, ánh nước loang loáng như vảy rồng lấp lánh dưới ánh dương.

    Thở hắt ra một hơi, Văn Ấn nhớ rõ, ngày chiến mã Huyết Phù mang thi thể cha đã lạnh từ rừng Tịch Lâm trở về mà không một bóng binh sĩ theo sau, nàng như chết đi một nửa. Ròng rã mấy tháng không thấy mặt cha, đến khi nghe tin, chỉ còn là tàn tích. Không ai có thể tin được, qua bao chiến trường khốc liệt đổ máu, cha vẫn đứng vững, vậy mà một cánh rừng nằm im lìm bao năm, lại có thể khuất phục được người.

    Những gì nàng nhận lại chỉ là chiến bào đã sờn, mảnh giáp trầy xước và những vật tùy thân thấm đẫm mùi khói lửa, những dấu vết thời gian và chiến trận. Trong đó, có một quyển nhật ký đã bạc màu, góc sách thấm vệt máu đỏ chưa khô, như thể vẫn còn đọng lại nỗi đau của những giờ phút cuối cùng.

    Nàng không chôn nó theo cha dù mọi người đã xót lòng khuyên can. Mấy đêm liền, Văn Ấn ôm nó trong vòng tay, như để giữ lấy chút hơi ấm đã tan giữa cõi đời. Nhưng nhờ thế, nàng mới biết thì ra, cha cũng xem nàng như một đứa con gái nhỏ, ngơ ngác và liều lĩnh. Văn Ấn cười nhẹ, dưới ánh trăng sáng, đôi mắt nàng ươn ướt như ngọc ngà, kể với vầng nguyệt, như tự nói cùng chính mình:

    "Cha đối với ta.. thành thực là trụ cột trong lòng. Ta vừa yêu người, vừa kính, cũng lại vừa sợ.." một chút ngập ngừng. "Khi xưa nếu muốn được nói chuyện với người, thì ta phải thắng trận, phải cầm được quân..

    Phải chứng tỏ mình không là gánh nặng.." Một tiếng thở dài trong vô thức.

    Lời nàng thì thầm như nghẹn lại:

    "Sao khi ấy.. ta lại nghĩ như thế chứ?"

    Nhìn chân trời trải dài, tầng sương trong đáy mắt nàng bỗng hóa thành giọt lệ, rồi dòng suối, rồi cả biển hồ. Những tháng ngày lau mài gươm đao bằng bàn tay nhỏ, mài cả móng tay đến bật máu, bỗng chốc hiện về như cuốn phim cũ tua chậm.

    ###​
     
    Chỉnh sửa cuối: 24 Tháng bảy 2025 lúc 8:38 PM
  6. Đinh Đinh Đang Đang đinh đinh đang đang, như tiếng chuông ngân vang ~

    Bài viết:
    0
    CHƯƠNG II - HẠ

    Gió Nổi Từ Đất Trên Thành

    "Sự trưởng thành của Văn Ấn chính là kết tinh của nhiều ngày tháng phơi nắng trắng sương của Thổ Đầu cộng lại, gom góp từng chút một, mỗi năm lại lớn thêm đôi phần."

    #​



    Bấm để xem
    Đóng lại
    Năm Kiến Dân thứ mười lăm.

    Giữa trưa Thung Long oi bức, nắng như chảy xuống từ mái trời.

    Trong lòng doanh trại, tiếng binh sĩ hô luyện rền rĩ, vang dội như sóng va vách núi. Từ sau hậu trại, một bóng dáng nhỏ xíu lững thững bước ra - gò má rám nắng, tóc túm cao, thân hình nhỏ thó trông chỉ mới chừng sáu tuổi đang khệ nệ kéo theo một thùng gỗ lớn hơn cả thân mình. Giáp trụ bên trong còn sực mùi mồ hôi và bụi đất, nặng đến nỗi thùng kéo rít lên từng nhịp cọt kẹt. Dẫu cho xung quanh ai nấy đều đang làm những chuyện lớn lao, đứa trẻ ấy vẫn chăm chú cặm cụi, chuyên tâm như một tiểu binh nhỏ.

    Chim nhạn lướt qua, sải cánh đen vạch ngang nền trời xanh nhạt như nét mực điểm tô trên một tấm lụa lam. Cô bé ngẩng đầu nhìn, đôi mắt đen lay láy ánh lên sự tò mò của một đứa trẻ, rồi chậm rãi lau trán - mồ hôi ướt sũng cả vạt áo con con, dính bết vào cổ. Mùi nắng hanh, mùi cát, mùi sắt và mồ hôi trộn lẫn trong không khí, nồng đến nghẹt, nhưng với cô bé, lại quen thuộc như hơi thở, như máu thịt.

    "Đầu năm hoa nở, giữa năm nắng khô, cuối năm rét buốt, ấy là Thung Long.." Tiểu binh nhỏ lẩm nhẩm câu vè quen thuộc, rồi lặng lẽ ngẫm nghĩ.

    Mới đó mà mùa xuân đã hết. Mùa ấy, mặt đất Thung Long còn mềm, cỏ xanh như vừa được ai phẩy cọ lên mặt đất. Suối róc rách qua khe đá, mát lành như một sợi chỉ mỏng thêu quanh thung lũng. Nó nhớ, nước lúc đó ngọt và mát đến nao lòng - mỗi lần gánh nước về còn tranh thủ nghịch thêm vài lần cho thỏa. Trên đường còn có thể bắt gặp vài đóa hoa dại mọc nghiêng trong kẽ đá - nhỏ, đơn độc nhưng kiêu hãnh. Vì vậy vào đầu năm, nó đặc biệt thích đi gánh nước, còn xung phong thay cả phần của người khác.

    Giờ đã sang giữa năm, trời lại nóng quá đi mất. Nắng quật xuống như tấm lưới lửa, thiêu rụi cả cỏ dại, bụi đất đỏ quạch bốc lên theo từng bước chân. Gió thốc mạnh, cuốn bụi mù mịt như khói trận chưa tan, thi thoảng lại kéo đến vài trận mưa lớn suốt mấy ngày. Vậy mà giữa cái nắng rát rạt và tiết mưa thất thường ấy, vẫn có vài nhành hoa sém nắng nghiêng đầu, sống lì như thách thức cả mùa hạ, giống như cái hoa dại mọc ở góc trướng kia. Nghĩ đoạn, nó liền ngó sang cái hoa lấp ló, đất dưới gốc hoa còn đọng lại mảng nước chưa khô, vừa nhìn đã biết có đứa nhỏ nào đấy vừa đem nước hắt vào.

    Trở lại cùng mấy bộ giáp nặng trịch, đứa trẻ vừa nheo mắt khi mồ hôi nhỏ vào cay xè mà nghĩ ngợi: Sớm muộn rồi mùa cuối năm cũng sẽ ập tới - trời sẽ lạnh run, rét đến tận xương. Nó nhớ mùa đông năm ngoái lạnh đến mức sáng ra không thấy nổi cái bậc thềm trước cửa. Gió lùa qua khe trại kêu ù ù như ma hú. Cái mũi thì lạnh tê, vừa chui khỏi chăn rơm là đã muốn chui ngược lại. Nhưng mà.. cuối năm lại có nhiều món ngon. Nghĩ đến mùi thịt kho tàu sôi lục bục trong bếp, hay mấy đòn bánh dẻo các dì các cô trong thôn mang lên biếu lính là bụng nó tự động kêu réo. Có hôm còn được ăn cả mứt, ngọt tới tận óc. "Lạnh cũng được, miễn có đồ ăn.." nó vừa nghĩ vừa cười thầm, mặt nhăn nhó mà lòng thì phơi phới.

    Cuối năm, doanh trại thường rất yên. Lính đi gác bớt nói, tiếng chân trên sân cũng khẽ khàng hơn. Sương mù cứ phủ đầy lối đi như có người lấy mực bạc tô vào không khí. Có năm tuyết đổ sớm, trắng xóa hết cả núi đồi. Mọi thứ im phăng phắc, đến nỗi tiếng tù và vang lên giữa đêm nghe như vọng về từ một giấc mơ xưa nào đó - giấc mơ mà không ai nhớ rõ, nhưng vẫn thấy quen quen.

    "Thổ Đầu." Một quân binh đi ngang qua, gọi lại cô bé đang mải miết phơi giáp, tay vẫn còn cầm xâu dây thép.

    Thổ Đầu là danh xưng binh lính trao cho cô bé - đứa nhỏ ngày ngày ăn cùng họ, ngủ cùng họ, phơi giáp, giặt áo, vá trướng, trèo đồi, nấu cơm, và canh gác khi đêm xuống. Cái tên mang nghĩa Thành Đầu Thổ - tựa đất trên thành, vừa mộc mạc, vừa thô ráp, nhưng cũng đầy vẻ yêu quý của binh lính, vốn từ lâu đã xem cô bé như tiểu muội.

    Đứa trẻ quay sang nhìn, nhướn một bên mày vì nắng gắt rọi thẳng vào mắt.

    "Nhanh nhanh tay, rồi vào ăn thôi!" Gã cười hiền rồi chỉ tay vào trướng ăn, sau đó rời đi.

    Thổ Đầu gật nhẹ, sự chú ý lại trở về với thùng giáp. Đôi tay nhỏ cẩn thận treo từng mảnh giáp lên dây thừng, gập từng nếp, vuốt phẳng mặt da đã cứng. Đó là công việc mà nó tự xin mẫu phụ - các mẫu thân phụ tá, chuyên chăm sóc binh lính - để được làm. Chẳng ai giao, chẳng ai ép, nhưng cô bé muốn mình cũng có ích, dù chỉ là việc nhỏ.

    Giáp phơi xong, Thổ Đầu nhanh chóng rảo chân về phía trướng ăn. Mùi cháo nấu thoảng nhẹ trong gió khiến chiếc bụng nhỏ réo lên, chân cũng bước gấp hơn. Trong trướng, bàn đã dọn lên, binh lính chen nhau ngồi thành từng cụm, tay cầm chén, tiếng nói tiếng cười xen lẫn tiếng thìa va vào đáy bát. Trong bát ai nấy đều chỉ là rau héo, cháo loãng, một ít củ muối và bánh nướng khô. Nhưng phần dành cho "binh sĩ nhỏ" vẫn được gói ghém tươm tất.

    "Phần Thổ Đầu."

    "Đừng ai nhỡ tay động vào."

    "Ngươi đừng lắm lời, để lại cho nó tử tế một chút."

    Lính già lính trẻ, người truyền tay người, đặt xuống bên cạnh bàn, nơi cái thân bé xíu vừa đủ một góc. Người trao chén là một lính già, tay sạm nắng, râu lởm chởm. Ông khẽ gật đầu, như thể việc ấy chỉ là thói quen.

    "Của ngươi đấy."

    "Đa tạ Lão Tứ, đa tạ các huynh!"

    Thổ Đầu ngoan ngoãn đón lấy bát cháo, cảm ơn ngắn gọn. Ngồi lọt thỏm giữa hàng quân, binh sĩ nhỏ húp từng ngụm cháo, không than vị nhạt, không chê cháo nguội, chỉ chăm chú ăn cho nhanh. Hai gò má phơi nắng đỏ ửng, mái tóc buộc cao được vụng về tém gọn, tuy mệt đến rã rời, nhưng lòng ấm như có lửa.

    Nhưng quy củ là quy củ. Khi tiếng kèn lệnh vang lên, dù vẫn còn một ít trong bát, Thổ Đầu vẫn đặt xuống, nghiêm túc đứng dậy, bước nhanh ra ngoài như mọi binh lính khác. Bữa ăn kết thúc là kết thúc. Không có chuyện nấn ná hay ưu ái. Tuy không ai chấp nhất, nhưng nhìn những người lính xung quanh, đứa trẻ tự khắc phải hiểu điều đó.

    Buổi chiều, nắng đổ dài bóng sân.

    Tiếng hô dồn dập, tiếng chân giậm đất và tiếng gươm gỗ va nhau vang vọng trên thao trường. Thổ Đầu lén đứng vào cuối hàng, dáng người lọt thỏm sau lưng dàn lính, mái tóc buộc cao đung đưa theo từng động tác. Người đứng trước đội quân chính là ngài Phó Tư lệnh - với đôi mắt sắc lạnh như sương biên ải.

    Dưới tiếng hô rền vang của người, Thổ Đầu không dám nghiêng mình quá một đốt ngón tay, sợ rằng nhúc nhích một chút, cái đầu con con ló ra, thì sẽ bị phát hiện.

    "Tư thế đầu lính quyết định khí trại. Kẻ không đứng thẳng, trận chưa đánh đã thua."

    Giọng của người vang như chuông đồng giữa thao trường. Không cần quát. Không cần gầm. Từng câu từng chữ tự mang uy quyền. Hàng trăm binh sĩ phía sau đều nín thở nghe theo.

    Buổi tập bắt đầu từ những thế cơ bản - bộ tấn, thế tiến, thế thủ. Mỗi động tác đều phải dứt khoát, dứt điểm. Nếu lơ là, một tiếng quát sẽ rơi xuống, không phân biệt là ai. Thổ Đầu nghiến răng đứng thẳng, tay siết chặt thanh kiếm gỗ dài gần bằng người, giữ bộ tấn đến lúc chân tê cứng. Trong lời dạy của Phó Tư lệnh, người bảo thân thể nhỏ thì càng phải nắm động tác cho chuẩn, lực yếu thì càng phải dùng thế hiểm.

    Đang mải chăm chú tư thế, nó giật mình ngước lên, thấy ngài ấy từ lúc nào đã rảo xuống tận hàng cuối. Tưởng rằng phen này sẽ bị mắng một trận rồi đuổi về hậu doanh, ai ngờ người chỉ đến, chỉnh cứng lại thế tay cho nó, rồi quay đi.

    Hai mắt như hột nhãn tròn xoe nhìn theo, nó thoáng nghe được trước khi quay đi, ngài còn nói bên tai một câu rất khẽ:

    "Đã vào thao trường, nhớ tuyệt đối không có" con gái "hay" trẻ con ", chỉ có quân binh."

    Một thoáng trộm cười, hai mắt híp lại cong cong, nó nhủ thầm trong bụng: "Ta là một quân binh." tâm trạng khi tập cũng thả lỏng hơn, không còn sợ bị phát hiện nữa.

    Thế là ngày nào, tiểu binh nhỏ cũng hồ hởi vác gậy đi tập. Trước khi ra sân, đều đặn mỗi ngày các mẫu phụ luôn dặn:

    "Con tập võ với lính thì không được chậm, không được làm ảnh hưởng mọi người. Và nhớ chỉ được đi lại ở hậu trướng, trướng doanh của binh lính và sân tập, tuyệt đối không bén mảng đến trước trướng chỉ huy và sân doanh. Có nhớ chưa?" Đứa nhỏ gật đầu răm rắp, thậm chí phải lặp lại mấy lần, thì mới được thả đi.

    Sau các buổi luyện tập, có hôm Thổ Đầu lại được theo chân các binh sĩ đi đốn củi. Bên hông luôn giắt theo cái rìu nhỏ, binh lính trêu nó cái rìu đó chỉ để cầm cho vừa tay, chứ không bổ được bao nhiêu củi. Thế mà đứa trẻ này vẫn bướng, cái miệng xinh dẩu lên.

    "Các huynh chớ lo. Củi to không được thì ta bổ củi nhỏ, củi nhỏ không được thì ta chặt cành cây."

    Rừng sâu chẳng phụ lòng người cố chấp. Đến lúc phải phát quang lối mòn, mấy lưỡi rìu lớn không chen nổi qua cành rậm, chính chiếc rìu con con ấy lại thành ra có ích.

    Đốn xong mấy vựa củi, binh sĩ nhỏ toan xắn tay áo, phụ lính khiêng bó củi nặng trở về. Thân hình bé nhỏ gồng đỏ cả tay, xước gai chảy máu, chân xiêu chân vẹo. Nhìn đứa trẻ lụm cụm đi sau, đám binh sĩ bật cười ha hả. Một người trong đó bèn cúi xuống, nhấc bổng nó lên vai, vác cả người lẫn củi mà đi, miệng dõng dạc tuyên bố:

    "Thổ Đầu là binh của trại ta, nhưng cũng là tiểu muội của trại này. Ai dám để muội phải gồng gánh một mình, chẳng phải mất mặt cả trại sao?"

    "Phải đấy Thổ Đầu, gánh nặng, để bọn ta lo. Việc nhỏ, để muội làm. Đừng có đảo ngược, nghe chưa!"

    "Nhớ rồi, khi về trại ta sẽ giúp các huynh giặt áo." Thổ Đầu hơi run víu lấy vạt áo binh sĩ, miệng vẫn cố nói vọng to về phía trước.

    Lần đầu được ngồi trên vai lính cao như thế, tán lá cây phớt qua đầu, binh sĩ nhỏ cũng không tránh khỏi cảm xúc phấn khích hồn nhiên mà cười tít cả mắt. Cả một đoạn đường về chỉ cùng binh lính nói cười vang vọng, để lại trong lòng nó những khoảnh khắc bình dị đẹp đẽ mà một đứa trẻ mãi không bao giờ quên.

    Đêm xuống, Thổ Đầu thường theo người gác canh leo lên tháp. Trời nổi gió, đứa nhỏ co ro trong chiếc áo choàng cũ, mắt lim dim nhưng vẫn cố thức, dõi nhìn doanh trại như một chú cọp con chưa biết sợ là gì.

    Lính gác nhìn nó, bảo:

    "Sao ngươi không về ngủ đi? Trẻ con mà thức thế này, mai dậy sao nổi."

    Thổ Đầu chỉ lắc lư búi tóc, đáp nhỏ nhưng chắc như đóng đinh:

    "Mẫu phụ đã dặn ta hoàn thành nhiệm vụ. Ngươi gác được thì ta cũng gác được."

    Tên lính gác nghe xong bất chợt cười khổ, không biết từ đâu lại rơi xuống một đứa nhóc đầu cứng hơn đá thế này. Hắn tháo áo choàng của mình khoác thêm cho nó, khẽ bảo:

    "Ngươi ngủ chút đi, trời về khuya lạnh lắm."

    Nhưng cô bé lắc đầu. Đã hứa sẽ gác cùng, thì phải giữ lời. Ánh mắt non nớt tuy chưa hiểu hết chiến sự, nhưng qua những lần rèn luyện, Thổ Đầu đã hiểu việc giữ gìn quân khí là một phần của cuộc sống.

    Lớn hơn một chút, tiểu binh nhỏ cũng đã dần quen với cái gọi là quân kỷ khắc nghiệt. Đồng thời.. ngày qua ngày, nó cũng càng cảm nhận rõ có một ánh mắt trong doanh trại luôn âm thầm dõi theo mình từ xa.

    Ngài ấy - người mà hầu như cả doanh trại ai cũng sợ - lại chễm chệ trong lòng Thổ Đầu một vị trí tượng đài vững chắc. Sự lãnh khốc và uy nghi khiến kẻ khác bất giác rét run, nhưng cũng chưa một lời chê bôi hay xua đuổi một đứa yếu ớt như nó trên thao trường. Các mẫu phụ dạy nó phải gọi là "ngài Phó Tư lệnh". Nhưng với cảm xúc nhạy cảm và non nớt của một đứa trẻ, Thổ Đầu dường như cảm nhận được.. ngài ấy không hề thích nó đến gần.

    Có những lúc bất chợt, khi đang mài kiếm ngoài sân trại, nó thoáng thấy như có ai đó đang đứng ở hành lang gỗ. Trong lòng thực muốn nhìn kỹ lại để xác nhận, lại nhát không thể ngẩng lên. Nhiều lần trông thấy ngài ấy đi ngang doanh trại, đứa trẻ thực sự muốn chạy theo, gọi một tiếng, dù chỉ là "Ngài ơi..".

    Nhưng nó không dám.

    Một hôm theo lệnh cõng binh khí đi qua sân tập, một cục đá kênh khiến tiểu binh nhỏ trượt chân ngã sõng soài. Đầu đau điếng, binh cụ văng khắp nơi, chưa kịp phản ứng, nó đã nghe một tiếng hét to giữa trại:

    "Ấn!"

    Tiếng gọi rền vang khiến cả sân im bặt. Lính tráng xung quanh đều ngơ ngác. Còn Thổ Đầu thì chết lặng, nhìn quanh chẳng thấy ai. Cái tên như chôn vùi đã lâu giờ được nghe lại.

    Trừ thân mẫu ra, chẳng ai ở đây gọi nó như thế cả.

    Nhớ đến mẹ, trẻ con nào thì cũng đều muốn khóc. Nó nhất thời cay cay sống mũi, môi dẩu ra, vội vã đứng dậy gom binh khí, ôm túi to chạy đi, miệng lẩm nhẩm: "Không được khóc, không được khóc!"

    Một đứa trẻ sống trong môi trường đó, nói không biết mệt kỳ thực là nói dối. Nhưng chính vì biết mệt, mới thấy những người lớn xung quanh cũng không ai là nhàn rỗi. Đối với Văn Ấn, sự trưởng thành của nàng chính là kết tinh của nhiều ngày tháng phơi nắng trắng sương của Thổ Đầu cộng lại, gom góp từng chút một, mỗi năm lại lớn thêm đôi phần.
    Bấm để xem
    Đóng lại

    ###​
     
    Chỉnh sửa cuối: 24 Tháng bảy 2025 lúc 9:08 PM
  7. Đinh Đinh Đang Đang đinh đinh đang đang, như tiếng chuông ngân vang ~

    Bài viết:
    0
    CHƯƠNG III - THƯỢNG

    Kỷ Luật Sắt - Cội Nguồn Của Tư Thế Tư Lệnh

    "Thổ Đầu tóc rối như mây,

    Chạy quanh lán trướng đá bay nồi chè.."


    #​

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Nắm đất trên thành khi được rèn qua kỷ luật sắt, sẽ đắp nên hình hài một tiểu tướng..

    Kể từ ngày lên năm, Thổ Đầu đã buộc phải quen với cuộc sống trong lòng quân lính. Ngài ấy đã nói: "Ngươi muốn làm lính, thì phải sống như lính."

    Tiểu binh nhỏ được xếp ngủ giữa hàng trướng lính, giữa mùi mồ hôi, khói lửa và tiếng ngáy đều đều của những người đàn ông từng chạm mặt tử thần. Lính trong trại, ban đầu còn dè chừng, sau cũng dần thân thiết, thường xuyên giấu cho nó đồ ăn ngon sau khi hành quân. Trong lều nơi cao nhất, khô thoáng nhất, nhiều chăn bông nhất đều sẽ dành cho Thổ Đầu của bọn hắn.

    Tại doanh trại không có gương. Áo nó mặc là vải xám, giày là giày cũ được mẫu phụ cắt lại từ đôi khác. Dáng vẻ lấm lem bụi đất, chẳng có điểm nào giống một đứa trẻ nhà lành. Nhưng đêm về, Thổ Đầu vẫn thích ngắm trăng, vẫn lén thêu khăn bằng sợi len rối xin được từ kho quân dụng. Sự mềm mại nữ tính trong nó chưa từng mất đi - chỉ là được cất giấu cẩn thận, như một bí mật vụn vặt của riêng mình.

    Thổ Đầu tám tuổi, tóc dài ngang lưng, giọng nói mềm như nước.

    Lính trong doanh trại từng trêu: "Ngươi mà ra trận, giặc chưa đánh đã tưởng tiên nữ hiện thân." Chỉ có Phó Tư lệnh một lần thấy nó đầu bù tóc rối, lại nghiêm giọng căn dặn: "Quân địch không phân biệt nữ hay nam. Đừng để mình bị thương chỉ vì tiếc mấy sợi tóc." Thổ Đầu không cãi một lời. Tối đó, nó lặng lẽ cầm dao, cắt phăng mái tóc của mình. Lọn tóc chạm vai rơi xuống, gió khuya thổi qua gáy, lạnh buốt.

    Hôm sau, Phó Tư lệnh khi thấy nó cắt đi mái tóc cũng chẳng nói chẳng rằng, chỉ thấy ngài đã dừng lại nhìn rất lâu.

    Sau giờ tập, nó lén cùng mấy đứa tiểu binh đi nghe lỏm chuyện binh sĩ, vô tình nghe được tên thật của ngài ấy - Văn Hà Đông. Chữ Văn trong tên ngài giống hệt chữ Văn trong tên mình. Chẳng rõ là vì sao, nhưng niềm vui nho nhỏ ấy cứ thế lan khắp người nó, như thể vừa phát hiện một điều gì đó vô cùng thần diệu.

    Những ngày tháng năm đó khiến Thổ Đầu cũng dần quen với việc cười như nam, đi như nam, uống nước không ngửa cổ, phơi gió không kêu than. Trong lăng kính bé nhỏ của một đứa trẻ, khi nhìn thấy xung quanh đâu đâu cũng toàn là nam tử, nó bất giác cảm thấy bản thân mình cũng nên giống như họ.

    Năm nó lên chín, doanh trại Long Y đổi chủ.

    Hôm đó trời rét bất thường. Lúc trống điểm canh tư, các mẫu phụ trong doanh hối hả gọi tất cả tiểu binh vào trong nhà chứa lương. Cái gọi là "nhà chứa lương", hóa ra lại có cả một tầng hầm sắt kiên cố, bên trong chỉ toàn là trẻ con và phụ nữ binh sĩ.

    "Không được ra ngoài. Không được hỏi linh tinh. Không được náo loạn."

    Thổ Đầu không nói không rằng, chỉ ngồi bó gối trong góc, cột lại thanh gỗ dùng làm kiếm mà vừa bị một ai đó trong trận sơ tán dẫm gãy. Bên ngoài, mặt đất cứ không ngừng rung rinh như trống dồn vào lòng.

    Suốt mấy ngày liền, ánh sáng không hề lọt vào cửa nhỏ. Không ai cho những đứa trẻ ra sân tập luyện như mọi khi. Không có binh sĩ tới chơi cờ, cũng không có mùi ngũ vị hương từ bếp phụ. Chỉ còn mẫu phụ già mỗi ngày phát cho những đứa trẻ một chén cháo nhỏ và câu lặp lại đến mòn miệng:

    "Sẽ ổn. Các con đừng sợ."

    Đến khi cánh cửa mở toang, trời đã ấm lên hẳn. Thổ Đầu khi vừa bước ra ngoài, đã thấy màu áo choàng quen thuộc của lính canh nơi doanh môn đã đổi. Lá cờ trước cổng doanh cũng không còn là bóng hắc kỳ phấp phới thường ngày, mà đã trở thành sắc cờ đỏ rực, mang theo dấu Hoàng lệnh quyền uy.

    Còn người bước ra từ trướng doanh kia, đã không còn là ngài Phó Tư lệnh nữa.

    Mẫu phụ trưởng lão rù rì bên tai nó, rằng từ giờ phải tập gọi ngài ấy là "ngài Tư lệnh", hoặc gọi ngài là "cha".

    Từng lời từng lời.. đều vô cùng khó hiểu.

    Nhưng khi chạm phải ánh mắt người nhìn xuống, nó mới biết.. đây đều là sự thật. Nhưng khi đứng trước một bước ngoặt lớn như thế, nó đột nhiên lại không cảm thấy kháng cự, cũng chẳng hề hoang mang, như thể tận đáy lòng đã chấp nhận từ lâu. Tượng đài trong lòng nay trở thành cha, ngược lại đối với nó là một chuyện đáng mừng biết bao.

    Mười tuổi, chính thức đi trên con đường của một binh sĩ.

    Sau ngày lịch sử đó, cuộc sống của Thổ Đầu quả là có nhiều thay đổi. Nó không còn bị giữ lại nơi hậu trướng, không còn chỉ quanh quẩn giúp việc hay học nữ công như những binh phụ nhỏ tuổi khác. Cha cho phép nó trở thành binh sĩ tập sự, được vào lớp ngồi học binh pháp, luyện tập, và rèn thân thể như bao binh sĩ thực thụ trong doanh trại.

    Thân phận đổi thay, các binh sĩ không còn dám trêu nó là "thằng này thằng kia" như trước. Nhưng đổi lại, rắc rối lại đến theo một kiểu khác.

    Thổ Đầu không nhớ nổi đã bao lần phải đuổi đánh họ quanh sân doanh, vừa chạy vừa hét lớn: "Đừng có gọi ta là tiểu thư!"

    Không phải vì giận. Chỉ là.. nó không muốn bị tách biệt.

    Đứa trẻ từ nhỏ đã quen sống giữa binh sĩ, cùng họ luyện tập, ăn cơm, chép binh thư trong đêm. Nó muốn được đối đãi như bất kỳ ai có mặt nơi đây - một người lính như trước, không hơn, không kém. Giống như cha và mẫu phụ trưởng lão ấy, trước hay sau khi nhận ra, thì thái độ của họ đối với nó đều không thay đổi. Vẫn nghiêm khắc như cũ.

    Mười hai tuổi, lần đầu theo đoàn ra biên trấn.

    Hai năm bước vào quân kỷ rèn luyện chính quy, Văn Ấn cuối cùng cũng được theo đoàn hành quân. Dù chưa được giao đánh trận, nhưng nàng vẫn phải học dựng trướng, tiếp tế, truyền tin. Có đêm lạnh buốt ngoài chiến trường, nàng vẫn thức trọn phiên canh, đôi mắt tròn mở to như sói con, không biểu lộ chút sợ hãi nào.

    Một lần trượt ngựa khi đang tập bắn cung, xước nhẹ bên gò má, máu chảy thành vệt, nàng được đưa về hậu trại. Các mẫu phụ vừa xử lý vết thương vừa xuýt xoa:

    "Trời ơi, mặt ngọc thế này mà trầy xước thì tiếc lắm."

    "Còn nhỏ mà mũi đã cao vậy rồi. Thật là y đúc cha. Không biết mai sau Tư lệnh sẽ kén rể thế nào." Rồi các bà cười khúc khích với nhau.

    Thổ Đầu chưa từng bận tâm đến chuyện "mặt ngọc" hay "kén rể". Nhưng ánh nhìn trìu mến của các mẫu thân, cùng giọng điệu nửa cười nửa xót, khiến nàng lần đầu tiên bối rối, ngượng ngập.

    Trong một đêm mưa phùn, khi thay áo trong lán trại, nàng bỗng khựng lại khi thấy vết máu đỏ sẫm loang ra từ y phục cũ, dù cơ thể không hề bị thương. Văn Ấn giật nảy khỏi chiếu, hoảng hốt nhìn khắp người. Không đau. Không rát. Một thoáng hoảng loạn, nàng đưa tay sờ má, rồi cổ tay.. dò dẫm như sợ dính phải ám khí.

    Chẳng lẽ.. là cổ độc?

    "Trúng.. trúng cổ độc rồi! Trời ơi.." nàng thầm kêu, tay luống cuống bấm lấy bấm để vào người, cố phong bế huyệt đạo trước một thứ độc tính chưa biết tên. Tư thế phòng thủ bật ra theo bản năng, sợ chạm vào người khác sẽ "lây" cho họ.

    Một bàn tay chợt khẽ đặt lên vai, gọi tỉnh đứa tiểu binh đang hoảng hốt.

    Nàng quay đầu, là mẫu phụ trưởng lão. Bà chỉ nhìn nàng với mái tóc xõa rối, cười nhẹ một tiếng. "Không sao đâu. Chỉ là hiện tượng bình thường thôi."

    Văn Ấn không hiểu vì sao lúc ấy mẫu phụ lại có mặt kịp thời như thế. Cứ như thể.. đã chờ sẵn ở đó từ lâu. Nàng cũng không biết ngay hôm sau, vị mẫu phụ đó cũng đã đến gặp Tư lệnh.

    "Tư lệnh.. Tiểu thư đến tuổi rồi. Nên có người dạy cách chăm mình."

    Thế là Thổ Đầu tiểu muội đành ngậm ngùi rời trướng lính, chuyển sang ở cùng nhóm các mẫu thân phụ tá. Ban ngày huấn luyện ở thao trường, học cưỡi ngựa, đấu kiếm, bắn cung.. đêm về học vá giáp, đắp thuốc, ghi chép lương thảo, phụ nấu bếp. Có người trêu nàng, bảo: "Không ai trong trại khổ cực bằng ngươi, làm cả việc của nam lẫn nữ." nàng chỉ ngơ ngác vờ như không hiểu, rồi tiếp tục chuyên tâm.

    Nhìn quanh thấy chẳng ai giống mình, Văn Ấn kỳ thực cũng không biết làm sao cho phải. Nàng suy cho cùng chỉ muốn được cha nhìn nhận bản thân không phải gánh nặng quân ngũ. Còn lại chiến đấu, đánh giặc để làm gì, nàng chưa hẳn đã rõ.

    Từ ngày chuyển sang sinh hoạt cùng các mẫu phụ, trải qua những đổi thay bất thường trong cơ thể, nàng mới dần hiểu ra, nữ tính trong quân doanh không là thứ nhất thiết phải từ bỏ, mà ngược lại càng phải giữ vững - cất kín - như một lưỡi dao nhỏ, chỉ rút ra khi thật sự cần đến.

    Từ đó, mỗi lần ra thao trường, đầu tóc nàng luôn được chải gọn, tóc búi cao cắm một cây đũa mộc, quần áo thô sơ luôn thẳng thớm, không bao giờ để bẩn hay có mùi. Giữa đội hình toàn nam binh, một bóng hình nữ nhân vẫn lặng lẽ rèn luyện, như mũi dao bạc gói trong vải thô, chờ ngày xuất kích.

    Mười ba tuổi, lần đầu chứng kiến một người mình xem như ruột thịt - lão Tứ, người từng bế nàng chạy về trại trong trận chiến năm xưa - gục ngã giữa vòng vây, chết không kịp nhắm mắt.

    Nàng không khóc ngay lúc đó. Chỉ siết chặt thanh kiếm, đi tiếp trận, gương mặt trắng bệch như sáp, không còn phân biệt được đâu là bụi, đâu là máu.

    Nàng nhớ rõ, trước khi ra trận, lão còn cười hề hề:

    "Thổ Đầu, nếu lão có chết, nhớ thắp cho lão nén nhang. Nhưng không được khóc! Binh không khóc trên đất chiến!"

    Nàng không cười. Chỉ kéo tay áo lão, thì thầm: "Đừng chết."

    Nhưng chiến trường không có chỗ cho những lời nguyện cầu.

    Khi toàn binh đã lui về sườn núi, nàng lén trườn ngược lại, lần mò qua xác ngựa, mũi tên gãy, và mùi máu tanh nồng đến nghẹn cổ. Tìm suốt một canh giờ trong cơn mưa trút, tay bẩn, đầu choáng, nhưng nàng vẫn không dừng lại.

    Cuối cùng, Văn Ấn nhìn thấy lão nằm nghiêng bên bụi cỏ cháy, máu thấm từ ngực ra tận lưng. Tấm áo giáp đã nát vụn, máu đọng khắp những vết chém sâu hoắm. Ánh mắt Lão Tứ đã đục lại, nhưng gương mặt vẫn mang nụ cười nhàn nhạt như đang kể chuyện tiếu lâm. Chí ít thì, nét mặt đó của lão vẫn còn vẹn nguyên.

    Nàng quỳ thụp xuống, run như cành trúc giữa giông gió.

    "Lão Tứ.." Nàng gọi, giọng nhỏ hơn tiếng mưa.

    Không ai đáp lại.

    "Ngươi đã nói là ngươi sẽ không chết." Nàng dùng cổ tay áo lau nhẹ vết máu và bụi đất trên mặt lão, víu vào người lay nhẹ.

    Từ trong vạt áo giáp bỗng rơi ra một túi chè nếp đã nứt, hạt nếp bung ra, lấm lem tro đất.

    Một thoáng sững sờ..

    Mùi chè nếp quen thuộc mà Lão Tứ thích ăn xộc lên mũi - ngòn ngọt, khê khê - cái mùi ngày xưa lão hay giấu đem ra chọc bọn tiểu binh chạy tán loạn. Mùi hương đặc trưng lập tức kéo nàng về hồi ức, mang theo giọng cười vang một thời:

    "Thổ Đầu tóc rối như mây,

    Chạy quanh lán trướng đá bay nồi chè.

    Cầm gươm như múa chổi tre,

    Mà đòi bắt giặc nghe như trò đùa.

    * * *

    Lính già chẳng dám hơn thua,

    Hễ thấy đầu đất là trêu đùa chẳng tha.

    Mai này làm lớn như cha,

    Đừng quên lão Tứ ba hoa nấu chè.. nha!"

    * * *

    Hahaha!

    Nước mắt bỗng tuôn ra như suối vỡ. Đã rất lâu rồi, nàng mới khóc òa như một đứa trẻ thực sự. Không còn là Thổ Đầu gan lì, không còn là bóng dáng một binh sĩ nhỏ. Chỉ là một cô bé lạc giữa chiến trường, vừa mất đi người mà nàng yêu quý như ruột thịt. Tình thương đơn sơ của một lão binh sĩ giờ đã mục nát giữa chiến tranh.

    Nàng run rẩy trong cơn mưa lạnh buốt, vuốt mắt cho lão lần cuối, rồi dùng tay trần để đào huyệt, chôn lão giữa sườn đồi gió thổi. Đôi tay đã từng nâng chén cơm đưa cho lão, nay đào đất rướm cả máu mà không hay.

    "Lão nói.. binh không được khóc trên đất chiến," nàng thì thầm, vừa cười, vừa nức nở, vừa bốc đất phủ lên, "nhưng ta khóc.. chỗ này là ngoài chiến rồi.."

    Không một tấm vải liệm, chỉ có chiếc áo cũ nàng gỡ ra từ lưng mình, phủ qua đồi mộ. Lời thơ ấy vẫn cứ vang mãi trong đầu, vẽ nên bóng hình lão lính già hay lựa những lúc xẩm tối mệt chết mà đọc, giọng chọc ghẹo nghèn nghẹt bên mép nồi đang sôi. Từ hôm nay, thơ không còn người đọc. Chè không còn ai nấu.

    Chính khoảnh khắc chia ly khốc liệt ấy, gom góp cùng những tháng ngày ra quân, đã dạy cho nàng bài học đầu tiên không có trong binh thư: Chiến tranh không chỉ là những ván cờ quyền lực của kẻ trên cao, không chỉ là lý thuyết suông dưới trướng giảng, mà chính là con đường rải đầy thây lính, ngập lụt trong máu và nước mắt người dân vô tội..

    Là những thôn xóm hoang tàn, người sống không nơi trú ngụ, kẻ chết chẳng còn mồ chôn.

    Là người góa phụ ôm lấy thân xác phu quân đã lạnh cứng, miệng há ra như muốn khóc, mà nước mắt đã cạn, đôi mắt đã lòa từ lâu.

    Là cụ già chết gục bên bờ ruộng, trong lòng còn ôm một đứa trẻ đỏ hỏn, tay vẫn nắm chặt một nắm thóc khô - như thể víu lấy chút hy vọng sống sót cuối cùng.

    Và là tiếng hát ru khản giọng của người mẹ già, trên lưng cõng xác đứa con trai vừa tử trận, đôi chân lê qua từng vũng máu đã se mặt đất.

    Những trận giao tranh.. xét đến cùng, không chỉ giết chết con người, mà còn bóp nghẹt linh hồn họ.

    Văn Ấn đã nhìn thấy hết. Âm thầm khắc ghi tất thảy.

    Nàng chợt hiểu ra, chiến đấu không còn là để chứng minh bản thân với cha, càng không phải để nối tiếp hư vinh ảo ảnh. Tinh thần chiến đấu nàng đang mang, vốn được xây trên những điều đã bị quyền lực và lòng tham giẫm đạp xuống bùn: Đất đai, tự do, và sự sống còn của những người không còn tiếng nói. Để một ngày, không còn ai phải chết theo cách giống như Lão Tứ - cô độc, đớn đau giữa nơi chiến trường hoang tàn.

    Mai táng cho lão xong xuôi, nàng đứng dậy, lặng lẽ đi ngược về doanh, không ai hay biết. Cát bụi và nước mưa theo gió phủ lấp dấu chân, như chưa từng có ai quay lại nơi này.

    * * *

    Tại doanh trại, trận mưa cuối giờ Dậu đổ trắng rừng.

    Tướng Văn Hà Đông đứng dưới hiên lều chỉ huy, áo bào dính máu kẻ địch còn chưa kịp thay. Vết thương ngang bả vai được băng tạm, máu vẫn thấm ra. Mắt ông nhìn về phía đèo dốc, ánh nhìn trầm như đá núi.

    Một phó tướng chạy đến, cúi đầu bẩm:

    "Bẩm Tư lệnh.. Thổ Đầu.. tự ý quay lại chiến địa."

    Ông không đáp. Tay nắm chặt chuôi kiếm, cánh tay giật khẽ, nhưng không quay đầu lại.

    Khi Văn Ấn lén trở lại đường luồn phía sau doanh trại, đã có hai binh sĩ được phân đứng sẵn.

    Nàng được áp giải đến lều chỉ huy, tướng Văn Hà Đông bước ra khỏi mái hiên, đi thẳng đến trước mặt nàng.

    Văn Ấn quỳ trên nền đất ướt, ngẩng đầu nhìn cha, đôi bàn tay rướm máu bấu vào lớp vải thô, ánh mắt không tránh né, chỉ đỏ hoe vì mưa và nước mắt.

    "Tự ý rời trại, phá lệnh rút lui. Đó là tội nặng nhất trong quân kỷ," trong giọng nói không một gợn cảm xúc, từng từ lạnh lẽo như đập vào lòng nàng. "Tại sao phá lệnh?" Ông tiếp tục hỏi, như muốn ban cho cơ hội tìm lấy một lý do.

    "Con muốn.. nhìn thấy Lão Tứ lần cuối." Văn Ấn cúi mặt thưa, trong lời nói vẫn không giấu được cảm xúc bốc đồng của tuổi trẻ.

    Ông không đáp. Đôi mắt sâu hằn sương gió chỉ nhìn nàng thật lâu, như đang cân đo một điều gì lớn hơn cả một câu trả lời. Lát sau, ông nói, giọng thấp nhưng lạnh hơn cả mưa:

    "Chiến trường không dành cho người mang tình riêng. Ngươi muốn cứu một người, có thể mất cả trăm người đổi lại. Ngươi đi một bước, phá vỡ đội hình. Ngươi vì một thi thể, khiến kẻ sống phải chờ. Ngươi khóc.. binh nào còn gan mà cầm đao?"

    Gió quật tung tấm vải bạt nơi lều. Một tiếng sấm nổ ngang trời.

    Tướng Văn Hà Đông bước lùi một bước. Không nói thêm gì nữa. Chỉ đưa tay lên, phất nhẹ.

    "Phạt - bốn mươi trượng, thi hành dưới cây Đồng Lữ sáng mai. Trước toàn doanh."

    Thổ Đầu dập đầu, nhận lệnh. Trán va xuống nền đất lạnh buốt, gió luồn qua khe lều như tiếng rên siết của ngàn quân hồn cũ.

    * * *

    Sáng hôm sau, mưa đã tạnh. Trời hửng sáng, mặt đất vẫn còn ẩm mùi máu và khói lửa xen trong không khí.

    Binh sĩ tập hợp đông đủ tại cây Đồng Lữ giữa sân - cây cổ thụ được xem là nơi tuyên hình, xét kỷ - nơi đã được dựng sẵn trụ gỗ, dây buộc.

    Văn Ấn tự mình bước ra, không ai áp giải. Nàng mặc một chiếc áo vải thô đã thay mới, quỳ trước trụ, thẳng lưng. Trận mưa đêm qua như gột đi vẻ trẻ con nơi nàng. Gương mặt tuy nhỏ, nhưng ánh mắt đã mang một phần dằn vặt của người lớn.

    Người thi hành là chấp hình đội trưởng, người thường hái trái cây cho nàng mỗi lần băng rừng. Tay ông run nhẹ khi cầm roi, ái ngại nhìn cả hai cha con, nhưng lệnh đã ban - quân kỷ không dung tình thân.

    Cú trượng đầu tiên vang lên, một thoáng nhăn mặt lẩn trong đám người.

    Bởi người chịu phạt, là người con gái duy nhất của Tư lệnh, là tiểu binh nhỏ mười ba tuổi cùng họ ăn ngủ chơi đùa, như một món trân bảo nhỏ trong nhà. Họ không nỡ nhìn nàng chịu phạt.

    Cú trượng thứ năm rơi xuống, da rách. Cú thứ mười, máu bật ra. Đến cú thứ mười tám, đã có kẻ quay đầu không dám nhìn. Nhưng nàng vẫn cắn chặt răng.

    Nàng biết, nàng không làm sai, quân kỷ.. càng không sai, nên không thể ngã xuống. Văn Ấn tâm niệm rõ, quân kỷ là xương sống của doanh trại, là lằn ranh giữ cho chiến trường không rơi vào hỗn loạn. Nhưng điều đó không có nghĩa là lòng người phải hóa đá.

    Nếu phải trả giá để giữ lấy nhân tâm, nàng sẵn lòng.

    Đến khi trượng thứ bốn mươi hạ xuống, thân thể như chẳng còn cảm giác. Đôi chân vừa chống dậy bước lại khụy xuống.

    Có người nói hôm ấy, Thổ Đầu cắn răng chịu đủ bốn mươi roi mà không ngất. Có người bảo vết thương sau đó hành sốt mấy ngày liền, không rõ làm thế nào thân nữ nhi yếu ớt lại có thể vượt qua. Nhưng tất cả đều nhớ rõ - từ hôm ấy trở đi, không ai còn dám trêu nàng là "đứa con nít" nữa. Cái tên Thổ Đầu cũng ít được gọi lại, thay vào đó họ bắt đầu gọi tên đích của nàng nhiều hơn - Văn Ấn.

    Đứng lên sau những cú trượng dưới cây Đồng Lữ, mỗi bước chân của nàng trong quân doanh về sau đều khắc sâu ba phần khí cốt. Không một ai nhắc đến Lão Tứ, và cũng không còn lần nào nhìn thấy nàng vì tình thân mà phá lệ quân doanh. Người ta nói, đứa trẻ từng cõng thi thể một đồng đội qua rừng tên lửa, trở lại chiến trường tan tác tự tay mai táng quân binh, từng chịu bốn mươi trượng mà không khóc, sớm muộn sẽ là nhân tài của quân đội.

    ###​
     
    Chỉnh sửa cuối: 24 Tháng bảy 2025 lúc 8:39 PM
  8. Đinh Đinh Đang Đang đinh đinh đang đang, như tiếng chuông ngân vang ~

    Bài viết:
    0
    CHƯƠNG III - HẠ

    Kỷ Luật Sắt - Cội Nguồn Của Tư Thế Tư Lệnh

    "Thổ Đầu tóc rối như mây,

    Chạy quanh lán trướng đá bay nồi chè.."

    #​

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Mười lăm tuổi, cũng là lần đầu tiên, nàng được giao dẫn một đội nhỏ, đi trấn áp toán thổ phỉ lẩn khuất ven sông, nơi mà nước đục ngầu bùn, và người chết không kịp gọi tên.

    Một buổi chiều mùa thu, khi nàng đang kiểm kê số thuốc mới, có người đến báo:

    "Tư lệnh gọi ngươi về trướng chính."

    Nàng đến, đứng thẳng người trước mặt cha. Tướng Văn Hà Đông ngồi trên trướng tọa, đôi mắt sắc bén nhìn thẳng vào nàng, một lúc lâu không nói gì. Chỉ có tiếng gõ nhịp đều trên bàn, rồi ông đẩy ra một bản đồ, đóng dấu quân kỳ đỏ chót.

    "Muốn lãnh binh thật à?"

    Bất ngờ với câu hỏi đột ngột. Nhưng nàng vẫn dứt khoát gật đầu.

    Ông gõ ngón tay lên bản đồ, nơi có ba điểm đỏ được đánh dấu.

    "Vậy chọn một. Thắng thì được giữ đội. Thua, trở về luyện tiếp ba năm."

    Văn Ấn không hề do dự, chỉ liếc qua một lần, rồi chỉ ngay vào trung tâm vùng ven sông. Nơi mà nàng nhận định là hiểm yếu nhất.

    Văn Hà Đông không mỉm cười, nhưng ánh mắt ông hơi dịu lại, như thể có chút hài lòng. "Được."

    Khi nàng lui ra, Phó Tư lệnh bên cạnh mới khẽ hỏi:

    "Tư lệnh.. vì sao lại giao binh sớm thế? Tiểu thư vẫn còn nhỏ, vết thương từ nhiệm vụ truyền tin lần trước còn chưa lành hẳn."

    Ông im lặng bước ra đến cửa, rồi bỗng thở một tiếng, cất giọng trầm như gió qua núi:

    "Ta không sinh ra một đứa con gái để giữ làm châu ngọc. Ta nuôi một chiến binh."

    Phó tướng nhìn theo bóng ông khuất dần sau màn trướng, khẽ thở dài lắc đầu bất lực, rồi thấp giọng nói:

    "Nhưng mỗi khi đứa trẻ ra trận.. là ngài lại thêm một đêm không ngủ."

    * * *

    Chiến dịch trấn áp thành công.

    Toán thổ phỉ bị đánh đuổi, lùi về sườn núi. Khi Thổ Đầu trở về, bùn dính đầy áo, máu nhuộm cổ tay, nhưng đôi mắt đen nhánh không hề run. Những binh sĩ đi cùng, người bị thương, người cõng kẻ gãy tay gãy chân, nhưng tất cả đều còn sống.

    Cha đứng chờ trước cổng doanh. Ông không nhìn máu, không hỏi thương tích, chỉ hỏi một câu:

    "Làm đúng quy củ chứ?"

    Nàng gật đầu. "Có, thưa cha."

    Ông không nói thêm gì, chỉ khẽ gật lại rồi quay người rời đi.

    Nhưng nàng biết - đó là lần đầu tiên ông để yên nàng ở vị trí người lĩnh nhiệm. Không còn là đứa con gái nhỏ lẽo đẽo theo sau, không còn là tiểu binh phải nhờ vả ai che chở.

    Cũng trong lần đầu lập công ấy, nàng trước toàn quân đã được cha ban kiếm Tĩnh Dạ, cung tên Giao Thủy và chiến mã Bạch Âm, những binh khí thuộc về riêng nàng. Nàng mãi không thể quên được nỗi niềm hạnh phúc không tả xiết đó.

    Và hơn hết là vì, sau bao năm, cha cũng đã nhìn thấy nàng giữa muôn quân.

    Năm mười sáu tuổi, lần đầu thống lĩnh đại quân chinh chiến sa mạc, thua trận thảm bại.

    Cái giá phải trả không nhỏ - một mũi tên độc cắm sâu nơi sườn, nằm hôn mê ba ngày đêm.

    Khi tỉnh lại, thấy các mẫu phụ còn đang ngủ, nàng quyết không gọi, chỉ cử động chậm rãi, rồi ngồi dậy tự vạch áo kiểm tra vết thương. Mũi tên đã được rút, mép da khâu thô, còn rớm máu. Nàng thở ra một hơi, khàn giọng nói khẽ:

    "Còn sống là được."

    Đã định sẵn tinh thần chịu tội trước cây Đồng Lữ lần nữa vì làm thất thoát binh sĩ, nhưng khi cha bước vào, ông không nói nặng nửa lời. Chỉ đặt xuống cạnh giường nàng một bao thư lụa dày, bên trong là bản đồ, binh pháp, và mấy lá mật tín cũ có đánh dấu đỏ. Trong lúc Văn Ấn còn chưa hiểu, ông chậm rãi nói:

    "Không ai học binh mà chưa từng nếm trải thua trận. Càng thua, thì càng phải học cho kỹ."

    Sau khi nâng kiếm tự quỳ trước quân doanh chịu phạt một đêm, nàng bị điều về hậu doanh tu binh đạo hai tháng. Không được ra trận, không được huấn luyện vũ khí. Ngày nào cũng phải chép lại toàn bộ diễn biến trận thua vào quân ký - ba lần. Thức đến nửa đêm cũng phải giải lại cho xong trận địa trên mô hình cát.

    Hai tháng sau, khi Văn Hà Đông đến kiểm tra, thấy nàng có thể diễn giải trận bại không ngập ngừng, vẽ tay được sơ đồ điều binh chỉ trong nửa khắc, nàng mới được lãnh binh trở lại.

    Cũng từ sau dạo ấy, Văn Ấn đánh trận ngày càng tiến bộ, công thủ phối hợp, mưu trí kỳ tài, không để mình sơ sẩy trên chiến trường dù chỉ một khắc. Chiến công lập được cũng ngày một vang dội. Người ta bắt đầu thấy Tư lệnh giao cho nàng nhiều trọng trách hơn - từ hộ tống vận lương đến dẫn binh tiểu thổ, thậm chí trọng trách sứ giả truyền lệnh biên cương nàng cũng hoàn thành tốt.

    Năm mười tám tuổi, được sắc phong Thống lĩnh Cánh tả Long Y Vệ Ải, cai quản doanh Vũ Khê, trông coi ba đội quân.

    Mười chín, bắt đầu được trao quyền giám sát vận lương, học thao binh, chiến lược chuyên sâu.

    Càng lớn, càng có nhiều nhiệm vụ và áp lực, nàng càng được diện kiến cha nhiều hơn. Ban đầu, người để nàng đứng ngoài vòng binh - như một đứa con gái không đáng bận tâm. Vậy mà về sau, có những ngày đích thân người dạy nàng thế kiếm, thế trận.. có những đêm cùng nàng xem bản đồ hành quân dưới trướng, truyền nàng những mưu thế không sách nào chép lại.

    Không một lời khen. Không một cái xoa đầu. Nhưng nàng đã nhìn thấy, trong ánh mắt khét lửa chiến trường - từng chút, từng chút một, lộ ra sự công nhận.

    Và với Văn Ấn, như thế đã là phần thưởng quý nhất.

    Cha đã dạy: "Không có trời giúp con. Chỉ có ta - có con - có gươm."

    Nàng đã sớm ghi lòng tạc dạ. Không cầu thần linh, không tin vận may. Từ bé đến lớn, vận may của nàng chỉ đến từ rèn luyện, kỷ luật, và cốt khí của chính mình.

    Năm hai mươi hai tuổi, chiến thắng Tam Trận Cân Tâm, trở thành người kế thừa ngọn cờ Long Y.

    Một ngày hè oi ả, giữa tiếng pháo lệnh vang dội đất trời Thung Long, Tam Trận Cân Tâm - cuộc sát hạch khắc nghiệt nhất của Long Y Vệ Ải Quân nhằm tìm ra thế hệ thủ lĩnh tiếp theo - chính thức phát động.

    "Tam Trận bắt đầu.."

    Dưới cái nắng chói chang, Văn Ấn dẫn đầu một nghìn quân rồng rắn. Phía trước là cờ lệnh, xung quanh đều là những đối thủ từng chinh chiến bên nàng nhiều năm. Không ai vì nàng là con tướng mà nương tay. Ngay cả cha - thân là Tư lệnh, cũng vì trọng thương mà không tham gia vào ban khảo thí.

    Trước sự chứng kiến của toàn doanh, Văn Ấn tuy không xuất sắc nhất trong mặt nào, nhưng lại là người hiếm hoi giữ được thế cân bằng và phong độ ổn định xuyên suốt tam trận. Nàng mềm như nước lại uy như vũ bão, từng bước một vượt qua các đối thủ, và lao vào trận quyết đấu cuối cùng với người được xem là học trò xuất sắc nhất của cha.

    Tỉ số suýt soát - Văn Ấn chỉ nhỉnh hơn nửa điểm.

    Âu cũng gọi là ngang tài ngang sức, hội đồng e ngại vì thân phận nữ nhi của nàng, nên quyết định trao quyền cho đối phương. Trong lúc nàng gần như đã chấp nhận số phận mình, chính người đó đã từ chối, một mực quỳ xuống giữa trăm quân, trầm giọng tâu:

    "Nếu chỉ vì thân là nam nhi mà được cất nhắc cao hơn, danh này ta không thể mang trên mình. Bại trận dưới tay Văn Thống lĩnh, nửa điểm cũng là bại. Bổn tướng xin tâm phục."

    Lời ấy cứng rắn như nhát ấn, đóng dấu vĩnh viễn lên chiến thắng của nàng.

    Từ đó, danh xưng Tiểu Tư lệnh chính thức ra đời. Mọi lời đồn thiên vị, con tướng đều tan biến. Nàng đã tự mình đề tên vào hàng ngũ kế thừa của Long Y.

    Cứ như thế, từng ngày từng ngày, tiểu binh nhỏ giờ đã trở thành một vị tiểu tướng.

    Kể từ ngày tiếp nhận sứ mệnh mới, ngọn lửa trong nàng hầu như chưa bao giờ nguội. Những đêm đèn quân vụ còn sáng, luôn có bóng áo vải của nàng ngồi bên bàn bản đồ, âm thầm học vẽ địa hình. Có hôm người ta còn thấy cả Tư lệnh đứng sau, tay khoanh lại sau lưng, gật khẽ.

    Cha đối với Văn Ấn là trụ cột trong lòng. Nàng vừa yêu, vừa kính, vừa sợ. Vừa phải giữ đúng lễ nghĩa quân thần, lại vừa khao khát được gần như cha con. Nhưng nàng biết - muốn nói chuyện với ông, thì không phải ngồi vào bàn trà hay cơm bưng nước rót. Mà phải thắng trận. Phải cầm được quân. Phải chứng tỏ mình không là gánh nặng.

    Doanh trại về sau cũng đã thu nạp thêm nhiều lứa tiểu binh và binh nữ mới, nhỏ tuổi hơn cả nàng năm ấy. Nhưng những lính tráng lâu năm, đôi khi vẫn vô tình hữu ý gọi nàng là "tiểu binh nhỏ", không phải vì coi nhẹ, mà như một cách âm thầm gợi nhắc: Nàng là máu thịt của doanh trại này, là người con lớn lên từ khói lửa, bùn đất và những tiếng tù và đầu tiên.

    Để rồi một ngày như mọi ngày, khi tiếng kèn hiệu còn chưa vang, gió sớm lạnh như dao cắt vào da thịt rát rát, Văn Ấn đã mang kiếm đứng ở thao trường. Nàng không khoác áo choàng, không mang áo giáp, chỉ lặng lẽ rút kiếm, mặc trường y vải gấm đơn giản nhưng cao quý, đứng giữa bãi đất trống mà múa bài kiếm sáng như thường lệ.

    Chỉ khác một điều - từng chiêu, từng bước hôm nay đều chắc như đóng cọc xuống đất, khí lực tỏa ra từ cơ thể đơn độc kia như muốn chấn động cả lớp sương mù trên bãi. Những lính canh trực sớm nhìn nàng, không ai lên tiếng trêu chọc như thuở nào. Họ chỉ nhìn, lặng lẽ, như thể một điều gì đó đang thay đổi.

    Một binh sĩ cũ lẩm bẩm với người bên cạnh:

    "Con bé ấy lớn rồi."

    Khi bài kiếm kết thúc, nàng thu kiếm, quay về hướng doanh trại cúi chào như lễ, rồi lặng lẽ bước về phía bãi tập cung.

    Mọi thứ xung quanh như lắng lại, sương mù trên mặt đất dần tan biến, để lại một không gian trong trẻo. Một thứ gì đó trong không khí, trong lòng mỗi người, đã bắt đầu thay đổi. Không ai lên tiếng, nhưng họ đều cảm nhận được - một sức mạnh, một niềm tin mới đang dần hình thành.

    Cứ như Thổ Đầu vẫn sống cùng họ, vẫn là đứa tiểu binh ngày ngày lăn lộn trong bụi đất chiến trường, nhưng họ chỉ vừa quay đi một lát, nàng đã lớn thế này tự lúc nào mà không ai hay. Một sự trưởng thành không ầm ĩ, không cần tiếng vỗ tay hay lời chúc tụng, mà nhẹ nhàng, như một khởi đầu mới, mang theo niềm hy vọng và tiềm năng vô hạn cho cả doanh trại Long Y.

    ###​
     
  9. Đinh Đinh Đang Đang đinh đinh đang đang, như tiếng chuông ngân vang ~

    Bài viết:
    0
    CHƯƠNG IV - THƯỢNG

    Rừng Không Hát Gọi Tên Người Say Ngủ

    Bấm để xem
    Đóng lại
    "Đường vào dễ, nhưng thoát ra thì như đang tháo từng sợi tóc khỏi bàn tay vô hình của một thực thể ma quái."

    #
    Bấm để xem
    Đóng lại

    Bên ánh sáng mờ đục của đèn dầu, Văn Ấn ngồi lặng trước bản đồ Vĩnh An, hôm nay đã là ngày thứ năm nàng nghiên cứu tấm bản đồ này. Giữa tấm da thú trải rộng, vùng rừng Tịch Lâm được khoanh đỏ đậm - như một vết thương chưa từng liền miệng.

    Nàng ăn, ngủ, nằm cùng bản đồ, trừ bỏ việc tận tay chọn binh và tập luyện thế trận, hầu như suốt mấy ngày liền nàng không ra khỏi trướng. Khi các binh sĩ ngoài kia đốt lửa luyện kiếm, nàng ngồi vạch các lối mòn. Hôm nay là đêm cuối, bọn họ sẽ xuất phát đến rừng Tịch Lâm vào ngày mai.

    Ánh mắt Văn Ấn lặng lẽ di chuyển theo từng đường nét, từng ký hiệu mà cha để lại trên bản đồ - đều là ghi chú ngắn gọn. Chúng như lời căn dặn cuối cùng mà cha kịp để lại, không một lần nói rõ nguyên do, chỉ để nàng tự mình hiểu. Càng nhìn, nàng càng cảm nhận rõ nỗi cô độc.

    Bàn tay cuộn chặt lại thành nắm đấm, nàng cắm ghim lên bản đồ bằng chính mũi dao mang tên cha. Cái chết của cha không thể là dấu chấm hết. Nếu ông đã chấp nhận một mình đối mặt với Tịch Lâm, thì nàng - kẻ thừa kế cả thanh danh lẫn nỗi đau ấy - không thể quay lưng.

    Lần cuối cùng trước khi dập đèn, nàng thêm một dòng vào bên mép bản đồ, đánh dấu tuyến đường nàng sẽ chọn để tiến vào Tịch Lâm. Nàng đã hạ quyết tâm: Phải "phá đảo" cánh rừng này.

    * * *

    Tờ mờ sáng, khi gà rừng chưa kịp gáy vang, doanh trại Long Y đã bắt đầu rục rịch như một tổ ong thức giấc. Ánh lửa đỏ từ những bếp lò phản chiếu lên gương mặt quyết tâm của những người lính trẻ. Tiếng giáp sắt va chạm lách cách, tiếng ngựa hí khe khẽ, tiếng bước chân đều đặn trên nền đất ẩm ướt, tất cả hòa thanh như khúc dạo đầu cho một hành trình sinh tử.

    Văn Ấn đã đứng đó từ lâu, lặng lẽ quan sát. Tấm bản đồ da dê được trải trên một phiến đá phẳng. Gió lạnh buổi sớm cuốn theo mùi tro bếp và hương cỏ non, thổi nhẹ mái tóc nàng buộc cao sau đầu.

    Bên cạnh nàng là đội hình sáu mươi người - lực lượng tinh nhuệ được nàng tự tay tuyển chọn từ nhiều cánh quân khác nhau.

    Mỗi người đều mang trong mình kỹ năng riêng biệt: Thám thính, độc dược, lại có kẻ từng là thợ săn rừng núi, am hiểu lối đi hiểm hóc. Họ mang đủ thứ: Gươm giáo, dây thừng, thảo dược, đèn dầu, cả bùa chú dân gian - như lời cầu an hơn là tin tưởng thật sự.

    Tiếng tù và vang lên trầm đục, báo hiệu giờ xuất phát đã điểm.

    Văn Ấn quay lại, đối mặt với đội ngũ của mình. Không ai nói gì, nhưng ai nấy đều cảm nhận được không khí vừa trĩu nặng, vừa khẩn trương.

    Và rồi nàng cất giọng, dặn dò như lời thề nguyện:

    "Khi bước vào Tịch Lâm, từng hơi thở đều phải giữ vững. Chúng ta đi như một, nhìn như một, và sống như một." Nàng ngừng lại, nhìn quanh một lượt, rồi lại tiếp tục.

    "Đi chậm, đi chắc. Mắt thấy chưa chắc đã thật, tai nghe chưa chắc đã đúng. Tin vào đồng đội. Tin vào chính mình. Đừng để rừng nuốt mất các ngươi."

    Nàng cẩn thận kiểm tra lại một lần nữa tất cả, mắt lướt qua từng người, từng vật dụng. Tất cả đã sẵn sàng.

    "Xuất phát!" Văn Ấn hạ lệnh.

    Đội hình bắt đầu di chuyển.

    Bóng dáng họ - sáu mươi mốt nhân ảnh, hòa trong ánh sáng nhạt của buổi sớm, đi về hướng rừng Tịch Lâm. Phía sau lưng, doanh trại im lặng, như đang nín thở chờ đợi hồi đáp.. từ vùng tử địa chưa từng nhân nhượng cho bất kỳ ai.

    Vừa rời khỏi Đài Long, tầm mắt đội quân đã được mở ra bởi một vùng thảo nguyên rộng lớn trải dài về phía chân trời. Nơi đây là triền đồi thoải, đất bằng và vững, được chọn làm nơi luyện ngựa, duyệt binh, và cũng là điểm quan sát lý tưởng để đón gió sớm và soi dấu chân lạ từ xa. Ánh nắng đầu ngày như tấm lụa dát vàng lên cỏ non, từng cụm hoa dại đung đưa dưới vó ngựa khẽ lướt.

    Văn Ấn cưỡi ngựa đi đầu, mắt lặng lẽ nhìn vùng đất đang dần thức giấc dưới ánh sớm mỏng như tơ. Sáng sớm ở Thung Long không rực rỡ, mà âm ấm như một chiếc chăn mỏng trải đều lên núi đồi. Mây trôi lững thững sát mặt đất, nhuộm lấy đất trời một màu sương mờ bạc nhẹ, tinh khiết, mang từng hơi thở của đoàn quân như được gột rửa khỏi bụi trần. Không khí trong veo lướt nhẹ trên da thịt, lẫn vào đâu đó hương thơm mát lành của đất và sương. Khi đoàn người lặng lẽ hành quân, tiếng bước chân đồng đều tạo thành những âm thanh khe khẽ như tiếng mạch đập, như lời thì thầm cổ xưa của lòng đất nơi biên thùy. Gió sớm từ triền núi thổi qua vạt áo, mang theo cả mùi khói lửa phai tàn và hương cỏ non còn đẫm sương.

    Càng tiến dần về phía chân đồi, cây cối bắt đầu xuất hiện nhiều hơn, xen lẫn trong đám cỏ là rừng tạp và những cụm tùng cổ thụ già hàng trăm tuổi. Tán cây dày tạo bóng râm lác đác, khiến ánh sáng như được lọc qua một tấm rèm xanh, thả xuống liền mấy dải lụa là sát mặt đất. Đây chính là vành đai sống động - một lớp cửa ngõ tự nhiên ngăn cách giữa vùng quân sự và dân cư, nơi chim chóc tụ về làm tổ, lũ sóc chuyền cành, và đôi khi là những người dân đi hái thuốc lặng lẽ bước qua.

    Dưới chân triền, thị trấn Chân Lân lấp ló mái ngói lẫn trong những hàng bạch đàn và thửa ruộng bậc thang - nơi dân cư quần tụ quanh hồ Châu Ngân xanh biếc. Người dân trấn này sống rải rác thành cụm nhỏ, mái nhà thấp thoáng giữa ruộng nương đang vào mùa, nơi nắng sớm chiếu lên vạt lúa non xanh biếc như sóng, đem mùi lúa non trập trùng lan tỏa trong không khí. Có đứa trẻ tay còn cầm bắp ngô, ngẩn ra nhìn đoàn quân băng qua, có cụ già lặng lẽ chắp tay, mặt hướng về phía đội quân, như gửi gắm một điều không nói thành lời.

    Tiếng vó ngựa vang đều trên con đường đất làng ẩm sương. Đoàn quân Long Y lặng lẽ tiến bước, ánh giáp sáng nhòe trong sắc sớm còn mờ. Dẫn đầu là một thân ảnh nữ nhân khí phách điềm tĩnh như mặt nước, cưỡi trên lưng bạch mã bờm trắng xám như bạch kim, áo choàng dài chạm yên, sống lưng thẳng như một lưỡi kiếm. Những ai trên đường cúi đầu chào, nàng đều ôn tồn gật đầu chào lại.

    Họ đi ngang một nhà trồng ruộng nước, có cô bé đội nón vải đứng thẫn thờ bên quang gánh, mắt dõi theo đoàn quân bằng vẻ ngưỡng mộ khôn giấu.

    "Là ngài Tiểu tướng.." cô bé thì thầm, đôi mắt tròn xoe, miệng khẽ mở. Chân không nhúc nhích, chỉ đứng đó mà ngẩn ngơ.

    Bởi ngay giây phút nàng liếc mắt nhìn qua nó - dưới ánh sáng rừng sớm nhòa sương, gương mặt ấy làm nó quên cả chớp mắt. Nàng đẹp, nhưng không giống những mỹ nhân trong tranh gấm mà người lớn hay kể. Không có môi son má phấn, không cài trâm vàng ngọc sáng. Tiểu tướng mà nó nhìn thấy đẹp theo kiểu.. khác lắm, cái kiểu khiến người ta vừa nhìn một cái là không muốn quên, nhưng mà cũng.. hơi sợ.

    "Tiểu tướng đẹp nhờ ông nhờ!" Cô bé bất giác cảm khái lên.

    Ông lão bên cạnh đang khom lưng cài lại gánh nước, ngẩng lên nhìn theo ánh mắt đứa cháu gái. Gương mặt nhăn nheo giãn ra thành nụ cười nhè nhẹ. Nói khẽ bên tai nó:

    "Như thế này thì chưa phải gọi là đẹp tuyệt sắc. Ông đã xem qua nhiều tướng mặt rồi, nhưng Tiểu tướng của con có ngũ quan ngay thẳng, mắt sáng thế kia, lại nằm dưới tướng mày kiếm, mũi cao, nước da khoẻ khoắn như vỏ hạt dẻ. Tướng mặt này nhìn vào là biết người cứng đầu lắm nhé, nhưng đổi lại rất có cốt khí. Người ta hay gọi đó là khuôn mặt được đúc ra từ ý chí.. con xem, ngài ấy nét nào nét nấy rõ ràng, không xiêu lệch, bề ngoài lại trông sạch sẽ, rắn rỏi, vừa nhìn vào là thấy có cảm giác tin tưởng."

    Đứa trẻ dẩu môi, như thể chỉ nghe được lời ông nói ngài Tiểu tướng của nó không đẹp, mà bỏ qua hết ý nghĩa phía sau. Cái đầu con con cứ ngoái ngoái theo, môi dẩu lên:

    "Nhưng con thấy ngài ấy đẹp.."

    "Được rồi, ngài ấy rất đẹp, ông nào có dám chê nàng đâu!" Ông lão cười khổ có chút bất đắc dĩ, rồi lại sực nhớ ra mấy chậu nước trống rỗng. "Nhưng thôi đừng ngó nữa, ta cũng mau đi thôi, con! Nắng lên cao nước không mát nữa," ông ngoại hối thúc, tay kéo nhẹ chiếc đòn gánh, cứ hễ mỗi lần nhìn thấy đoàn quân đi qua, đứa cháu gái ông lúc nào cũng đứng nhìn phải rất lâu.

    "A! Để con vẫy tay nốt đã.. nhé ông! Nhé ông?" Cô bé khẩn khoản, đôi mắt vẫn chưa rời khỏi bóng áo choàng tung bay trong gió, tay vẫn giơ lên vẫy lấy vẫy để, giọng tiếc nuối. "Để họ đi xa đã.."

    "Lần nào cũng vẫy rồi mà, ngài Tiểu tướng nhìn thấy con đến phát ngán rồi đấy." Ông phì cười, vừa xếp gọn quang gánh vừa trêu.

    "Một xíu nữa thôi mà ông ơi!" Đứa nhỏ xúm xuýt năn nỉ, hai má chun chun lại ngay mũi, rồi bất giác nhìn về hướng ngọn đồi sau lưng đoàn quân. "Nhưng mà ông ơi, sao nhà của ngài Tiểu tướng lại đóng tít trên cao vậy, xa quá chừng luôn. Mỗi lần xuống đến nhà ta chắc phải cả ngàn dặm ấy ông nhỉ?"

    Ông đặt gánh xuống, phủi tay, rồi búng nhẹ lên đầu cháu gái. Mắt ông nhìn xa xa về phía Đài Long mờ trong nắng, giọng chậm rãi:

    "Ngàn dặm thì chưa tới đâu, nhưng chỗ trên cao đó linh thiêng lắm, quang cảnh lại đẹp, hoa nở quanh năm, suối lúc nào cũng trong vắt. Tiểu tướng phải ở đó để canh giữ đất đai, rồi còn giữ.. hồn nước nữa."

    Cô bé ngước nhìn theo, chỉ một câu ngắn mà lại chứa quá nhiều từ mới, liền khó hiểu chớp mắt hỏi:

    "Linh thiêng gì ạ, ở trên đó có gì?"

    Ông gật gù, nheo mắt như đang lục lại chuyện xưa trong đầu:

    "Con không nhớ à, chuyện đấy ông kể con nghe rồi cơ mà, có một con rồng thần bị thương nặng sau trận đánh dữ dội với thiên binh. Nó bay khắp nơi tìm chỗ nương thân, cuối cùng chọn vùng đất này để nằm lại ngậm ngọc dưỡng thương đó."

    Nói đến đây đứa trẻ chợt há hốc mồm:

    "A! Ở đó đấy hở ông? Nhà Tiểu Tướng là nơi con rồng thần nằm đó nghỉ thương ấy ạ?" Nhìn ông gật gật, đứa trẻ càng phấn khích hơn. "Trời ơi, tuyệt đỉnh, thảo nào ngài Tiểu tướng trông lại oai phong như thế, lại còn đẹp như tiên nữ, hóa ra là ở chung nhà với rồng."

    Ông cười khổ vì sự ngây thơ của nó, nhưng cũng giả vờ nghiêm mặt:

    "Rồi, hết chuyện rồi, đi gánh nước được chưa?"

    Đứa trẻ bĩu môi ra vẻ kháng cự, bám riết lấy cánh tay ông, quãng giọng phấn khích cũng vô thức nâng cao hơn:

    "Chưa hết mà! Rồi.. rồi sau đó thế nào nữa ông? Từ con rồng đó.. ra hồ Châu Ngân đúng không ông? Ông kể tiếp đi ông. Đi mà ông!" Nhìn thấy ông cau mày ra vẻ mất kiên nhẫn, đứa trẻ mới dịu giọng thương lượng. "Hoặc gánh xong ông kể con nghe chuyện ở hồ Châu Ngân cũng được. Con muốn nghe đoạn rồng ngậm ngọc rồi hóa thành hồ!"

    Ông ngao ngán thở dài:

    "Lại chuyện rồng ngậm ngọc hóa hồ à? Trời ơi, ông kể cả trăm lần rồi còn gì.."

    Đứa nhỏ bướng bỉnh dậm chân:

    "Nhưng con thích nghe nữa mà!" Cô bé nài nỉ, mắt sáng rỡ. "Với cả hôm qua ông kể thiếu đoạn rồng ẩn mình dưới đáy hồ!"

    Ông lão cười khẽ, nhấc gánh nước lên vai:

    "Thôi rồi ngoan, lần này về ông kể nốt đoạn ấy. Nhưng con phải gánh đầy hai thùng nước về cho bà thì ông mới kể!"

    Cô cháu gái cười ré lên, chạy lon ton phía trước, tay dang ra như đôi cánh, miệng còn reo to oang oang cả cõi:

    "A ha ha! Được ạ! Rồng ngậm ngọc.. ngọc hóa hồ.. hồ màu ngọc lưu ly.."

    Văn Ấn nghe thanh âm réo rắt lọt vào tai từ đằng sau, nàng khẽ nghiêng đầu, một tiếng bật mũi nhẹ như nụ cười thoảng:

    "Cái này.. chẳng phải.. nghe quen quá hay sao?"

    Lời ông lão, cái giọng bướng bỉnh non nớt của cô bé, cả chuyện đòi nghe sự tích hồ Châu Ngân - từng chữ từng chữ như phản chiếu lại một mảnh gương cũ.

    Ngọc ấy - tên gọi ngọc Châu Ngân - là viên ngọc do Long Vương đã ngậm suốt mấy trăm năm để giữ mạng. Đến khi biết mình không qua khỏi, trước lúc tan biến, ngài ấy mới nhả nó ra rồi vùi xuống đất. Từ đó, khí lành sinh sôi, hoa nở đầy đồi, cỏ xanh mướt trải từ Đài Long đến tận chân trời. Ở nơi chôn ngọc dần trũng sâu, hóa thành hồ nước, tĩnh lặng mà mát lành nhất vùng. Ngày nắng rọi xuống, người ta còn thấy mặt hồ ánh lên màu xanh lưu ly như từng tầng từng lớp vảy rồng bạc. Và cái hồ ấy, chính là hồ Châu Ngân bây giờ, nơi người dân ngày ngày đến gánh nước, giặt giũ, thả tôm nuôi cá..

    Hồi nhỏ, nàng nghe Lão Tứ kể mà tin sái cổ. Còn bám riết lấy đòi lão kể mãi. Ngày nào cũng mặc cả, từ giặt áo, chẻ củi, đến gánh nước thay lão để được nghe đi nghe lại câu chuyện con rồng mình đầy thương tích, nằm ẩn dưới đáy hồ. Có hôm chưa nghe hết mà ngủ gục trên chiếu, sáng hôm sau dậy lại đòi kể lại từ đầu. Chỉ cần lỡ bỏ một chi tiết thôi là nàng dỗi không nói gì với lão cả buổi.

    Có lần, lão Tứ được nghỉ phép, xuống chân đồi đi chợ. Nàng năn nỉ mãi, cuối cùng cũng được lão ta mang đi theo đến tận hồ Châu Ngân.

    Nàng vẫn nhớ như in buổi chiều hôm ấy. Mặt hồ trải ánh bạc, lặng như tấm gương khổng lồ, phản chiếu bầu trời cao xanh với vài vệt mây trắng. Nàng căng mắt nhìn mãi, chỉ thấy vài đám rong lơ lửng và đôi ba con cá bạc lướt qua.

    "Rồng đâu?" cô bé nhỏ đứng chống nạnh hậm hực, hai má phồng lên như bánh bao hấp, dáng người nhỏ xíu mà bướng bỉnh không chịu được, mắt cứ dán chặt xuống lòng hồ tìm "rồng".

    Lão Tứ khoanh tay cười khì:

    "Thổ Đầu ngốc, nó nằm ở dưới đáy kìa. Là rồng bị thương mà, không muốn bị ai nhìn thấy trong lúc yếu đuối đâu."

    "Dưới đó thật à?" nàng rõ là tin, nhưng vẫn hỏi lại đầy nghi hoặc.

    "Thật. Ngươi đứng đó canh thì sẽ chẳng bao giờ thấy. Chỉ những ai không cố tìm thì mới thấy rồng." Rõ là chuyện chẳng có gì buồn cười, lại còn có chút bực bội, thế mà sao lão ấy cứ đứng nhịn cười cái gì không biết.

    Ngày ấy, nàng không hiểu. Chờ mãi không thấy chỉ biết xụ mặt đi về. Sau này lớn lên, mới ngẫm ra - rõ là trò dụ con nít.

    Nhưng ngay cả lúc này, Văn Ấn cảm thấy giai thoại đó vẫn khá là.. ly kỳ làm sao, nên không khó hiểu khi mấy đứa trẻ cứ nghe vào là sẽ bất giác bị cuốn theo. Nàng khẽ nhếch môi, người già ở đây cứ như cùng học chung một lớp dụ trẻ, ai nấy đều kể ra cùng một câu chuyện.

    "Nhưng chuyện đó.. hay thật mà. Người lớn nào mà nghĩ ra được, đúng là nắm thóp lũ trẻ quá giỏi." nàng tự lẩm bẩm, như thể đang nói cho riêng mình, ánh mắt đảo quanh không giấu được vẻ công nhận.

    Nụ cười trên môi càng nở ra rõ hơn, bất đắc dĩ mà ấm áp. Bạch Âm khẽ lắc đầu, như cũng cảm nhận được niềm vui mơ hồ ấy của chủ nhân.

    Hành trình từ Chân Lân đến Tịch Lâm là đoạn đường khoảng ngàn sải chim bay - không xa, nhưng mang theo một cảm giác như vừa rời bỏ thế giới ấm áp. Không gian dần trở nên im ắng, cây cối mọc rậm hơn, mặt đất ẩm, mùi rêu mục và đất hoang đậm dần trong không khí. Xa xa, bóng rừng Tịch Lâm hiện ra như một tấm màn u tịch phủ lên chân trời.

    Đoàn quân họ đi chừng nửa ngày đường nữa, Tịch Lâm đã hiện ra ngay trước mắt.

    Không hổ danh là vùng đất linh không ai dám bén mảng nhiều năm, cư dân quanh Tịch Lâm nay chỉ còn một ngôi làng lẻ loi với vài mái nhà rải rác, như những đốm khói lạc giữa biển cây. Dân làng nơi đó không nói nhiều, chỉ gật đầu lặng lẽ, như những người đã sống quá lâu cạnh cái chết.

    Văn Ấn cho quân dừng lại ở trước bìa rừng, cả tiểu đội Long Y đều bất giác ngước lên. Giờ đây, họ đang đối diện với vành đai cổ thụ cao chọc trời của nơi được gọi là tử địa Tịch Lâm - mảnh ghép cuối cùng đầy bí ẩn của Vĩnh An quốc thổ. Nàng ra hiệu xuống ngựa, tìm một nơi an toàn để dựng lán tạm, dùng lá cây che kín lại để ngụy trang.

    Theo sự bố trí của nàng, ba mươi người sẽ theo nàng vào rừng thám thính. Ba mươi người còn lại dựng trại ngoài bìa rừng, buộc phải luôn trong tư thế chuẩn bị, sẽ vào tiếp ứng ngay khi có tín hiệu cầu cứu.

    Đoàn người chỉ toàn những quân binh đã trưởng thành, nhưng đứng trước lối vào rừng lại trông nhỏ bé đến lạ. Những cây đại thụ cao lớn, xù xì như thần giữ cửa đang cúi đầu nhìn họ. Một nữ tướng mặc trường sam đỏ, bên ngoài khoác một bộ giáp nhẹ, thanh trường kiếm Tĩnh Dạ giắt vào bên hông, dẫn đầu một đoàn quân binh áo giáp.

    Đầu nàng ngẩng cao nhìn đến tít ngọn cây, tay siết chặt chuôi kiếm, hệt như bộ dáng tuyên chiến với rừng.

    Bước chân đầu tiên vừa đặt vào cửa ngõ, một làn gió lạnh hệt như đến từ tận nơi thâm sâu cùng cốc, mang theo một luồng khí tức u tịch, ma mị thốc ra, phả vào mặt nàng. Trong cơn gió còn vương mùi đất cũ, mùi kim loại, mùi diệp lục, lạnh lẽo, sắc bén như hơi thở của một con quái vật khổng lồ mà bọn họ sắp sửa đối diện.

    Văn Ấn chỉ khẽ nhắm mắt, chếch gương mặt sang một bên, rồi lại nhìn thẳng, dứt khoát bước vào trong, chính thức mang quân xâm nhập trận địa Tịch Lâm.

    Bên trong khu rừng, tán cây cao đã che lấp bầu trời, chỉ còn chừa một khoảng nhỏ để nhìn thấy mây trời âm u. Ánh sáng len lỏi qua tán cây như sợi chỉ bạc, nhưng không thể soi thấu hơn ba bước chân. Thiếu đi ánh nắng, cảnh vật trong rừng cũng mờ ảo hệt như soi qua một tấm vải lụa tang.

    Dưới gốc cây cổ thụ mọc rêu xanh rì, một con thỏ hoang cụp tai nhảy vụt qua khi đoàn quân tiến đến gần. Nó biến mất trong đám cỏ cao, để lại vệt rung rinh khe khẽ trên thảm lá mục.

    "Rừng này.. quá vắng vẻ.." Văn Ấn nghĩ, mắt lướt qua những bóng dáng thỏ, sóc và chim chóc lẩn khuất. Không có dấu hiệu của thú lớn.

    Phó chỉ huy tiểu đội Lê Trọng đi bên cạnh, khẽ cất tiếng: "Người ta kể rằng, rất lâu trước đây, nơi này từng xảy ra một hiện tượng kỳ lạ. Các loài thú lớn, như hổ, gấu, đều chết vì ăn phải quả của một loại cây chứa độc tố sinh trưởng trong rừng. Họ nói, loài cây ấy chỉ hợp khẩu vị bọn thú lớn, và khiến chúng gục ngã một cách thảm hại. Sau đó, người dân quanh đây phải thực hiện một chiến dịch di tản hết tất cả các loài thú lớn, để bảo vệ rừng và cả chúng."

    Văn Ấn im lặng nghe, một nụ cười thoáng qua môi. Một chú nhím nữa lại lom khom lẩn qua rìa bụi rậm, chẳng sợ người. Rừng già dữ tợn bây giờ lại như một ngôi nhà chỉ còn trẻ nhỏ ở lại - một sự tương phản.. kì lạ.

    Càng đi vào sâu, khí rừng càng u ám. Binh lính theo sau nàng đầu đội mũ trùm, giáp giắt chắc chắn, không ai nói chuyện nhiều. Từ giây phút nghe được lệnh điều động - tiến vào Tịch Lâm, nơi từng nuốt trọn năm đội quân không để lại dấu vết - họ đã chuẩn bị cho mình một tinh thần vững chãi.

    Ai nấy đều chuẩn bị tâm lý để không bị cuốn vào những chuyện ma quỷ, mỗi người đều định sẵn trong lòng: Đây rất có thể sẽ là trận chiến cuối cùng của mình.

    Một vài người lính đã bắt đầu rút túi bùa bằng vải dầu ra, buộc kín vào chuôi gươm.

    "Chỉ đi qua thôi.." một người lí nhí, ".. đừng gọi tên nhau trong rừng."

    Văn Ấn siết tay quanh chuôi kiếm, mắt không rời từng chuyển động nhỏ nhất. Đêm qua, nàng đã đánh dấu vài điểm nguy hiểm từ tấm bản đồ da dê mà cha đang làm dở - nhưng giờ đây, mọi địa hình đều như bị ai đó xoay xáo lại, chẳng giống bản đồ nào từng thấy.

    Đi được một quãng xa, ở phía sau, Thọ, một lính trẻ, gò người ôm lấy ngực, mặt trắng bệch.

    "Thọ, ngươi làm sao đấy?" một đồng đội khều vai. Nhưng Thọ không trả lời. Mắt cậu trân trối nhìn vào một tán lá rủ sát đất phía bên trái lối đi.

    "D-d-dường như, có người gọi ta.. giọng giống.. giống tỷ.." cậu run lên. "Tỷ ta mất.. lúc nhỏ.. nhưng ta vẫn nhớ giọng ấy.."

    Người lính bên cạnh lập tức bịt miệng Thọ, thì thầm: "Khi nghe thấy tên, không được đáp lại. Thằng Cẩn đã kể cho ngươi nghe ở trong trại, sao ngươi lại quên?"

    Nhưng muộn rồi, Thọ như mê dại nhìn về phía có tiếng gọi. Tán lá kia khẽ lay dù không có gió. Và từ trong bóng tối sau thân cây, một bàn tay nhỏ nhắn như tay phụ nữ, trắng toát, từ từ vươn ra.

    "Thọ.. Thọ ơi.." giọng gọi như vọng từ đáy giếng, khô và sâu, mỗi âm thanh như trượt trên xương trần.

    ###
     
  10. Đinh Đinh Đang Đang đinh đinh đang đang, như tiếng chuông ngân vang ~

    Bài viết:
    0
    CHƯƠNG IV - HẠ

    Rừng Không Hát Gọi Tên Người Say Ngủ

    "Đường vào dễ, nhưng thoát ra thì như đang tháo từng sợi tóc khỏi bàn tay vô hình của một thực thể ma quái."

    #​

    Bấm để xem
    Đóng lại
    Thọ bật khóc. Hắn bước tới, từng bước chìm trong lớp sương mờ đang loang ra từ lòng rừng.

    "Thọ! Lui lại!" giọng Văn Ấn rắn như thép, quát một tiếng.

    Ngay khoảnh khắc ấy, nàng kịp thời rút chủy thủ trong ngực, phóng đến vùng khí trước mặt. Con dao nhỏ ghim chặt vào thân cây. Một làn bụi phấn bay lên, tỏa ra một mùi thơm the the và ngòn ngọt. Làn hương dịu nhẹ như khói, lơ lửng giữa không khí rồi tan dần, luồn vào hơi thở của kẻ sống.

    Tán cây rung lên. Không có ai. Chỉ còn những sợi vải lụa trắng rách nát, treo hờ hững trên nhánh khô. Nàng cau mày, mắt đảo một vòng quanh những thân cây phủ rêu dày. Thọ cũng đã lấy lại thần trí, nhìn về nơi vừa có "bàn tay" vươn ra, giờ chỉ là những dải vải trắng cũ kỹ được buộc khéo léo trên tán cây cao, đung đưa trong gió như bóng ma dẫn lối.

    "Khéo thật.." nàng lẩm bẩm, một tay kéo Thọ giật lùi ra sau, tay kia khéo léo gạt đi đám lá chắn. "Từng nghe đồn có người đi lạc trong rừng này, suốt bảy ngày đêm chỉ để đi một vòng tròn nhỏ, tưởng mình đã đi cả tháng. Dường như đây có thể là lý do." Nàng rút trong túi bên hông giáp một chiếc khăn mảnh có tẩm hương thảo mộc dìu dịu, đeo lên mặt.

    "Khu vực này có mê hương, dễ khiến mê hồn loạn trí, đeo mặt nạ thảo mộc vào rồi hẵng đi tiếp."

    Đi sâu hơn một chút, mắt ai nấy đều giương tứ phương tám hướng để quan sát, Văn Ấn dường như vận dụng tất cả các giác quan đã được rèn luyện kỹ càng trong quân doanh để đề phòng những hiểm họa diễn ra trước mắt. Sự việc vừa rồi của Thọ như một lời thức tỉnh cho nàng, họ đã đi vào đủ sâu để đón nhận những tác động dần dần của rừng.

    Càng vào sâu, rừng càng nhuốm một màu sinh linh sống kì dị. Rễ cây càng lúc càng quấn vào nhau, chằng chịt như xương bàn tay quỷ, khiến từng bước đi của họ như rơi vào lòng bàn tay của một vị thần cổ xưa.

    Cây trong lòng Tịch Lâm cao và thẳng như những cột đá nghìn năm. Vậy mới thấy những cây lớn bao ở vùng ngoài dường như chẳng xá gì. Vỏ cây sần sùi như da thú, từng lớp nhăn lại trập trùng lên nhau, giữa các thân cây đều có một điểm lõm tối sẫm, hệt như những con mắt có hồng tâm. Một quân binh tên Hòa khẽ ớn lạnh, ghé sang người kế bên.

    "Cẩn, ta vừa nhìn thấy mấy" con mắt "khẽ động đậy, chớp một cái rồi bất động ở bên kia. Trông như đang nhìn.. Tiểu Tư lệnh của chúng ta..

    * * *Ta thề đấy!"

    "Suỵt.. đừng nhìn nó nữa, cũng đừng nói linh tinh, đi tiếp đi!" Cẩn nghiến răng gắt nhẹ, vẫn cặm cụi đi tiếp theo đoàn.

    Dưới tán rừng rậm rạp, ánh sáng nhạt nhòa rơi qua kẽ lá như bụi thời gian. Văn Ấn bước chậm lại, mắt dán xuống mặt đất mềm ẩm. Có điều gì đó, như một nhu động âm thầm, đang rầm rì ngay bên dưới mặt đất nàng đang đặt chân. Nàng khẽ cúi người, đặt tay lên nền đất lạnh, nhắm mắt lại trong thoáng chốc, rồi mở mắt ra và liếc sang phó chỉ huy đội bên cạnh.

    "Lê Trọng, ngươi có thấy.. rừng này lạ lắm không?"

    Lê Trọng do dự một chút, rồi gật đầu:

    "Cây mỗi lúc một rậm che đi ánh sáng. Rễ như tay người, quấn lấy từng bước chân. Đất.. trơn như thể muốn kéo người xuống. Nói chung là như một tử địa kì quái."

    Văn Ấn khẽ lắc đầu, ánh mắt vẫn nặng suy tư:

    "Không phải chỉ có vậy. Từ lúc vào rừng, ta đã cảm thấy.. dưới chân có một hệ suối ngầm, đan bện từ bìa rừng đến tận đây, dẫn lối. Cảm giác nước chảy râm ran như mạch máu của một sinh thể khổng lồ đang ngủ."

    Lê Trọng thoáng rùng mình.

    "Ý Tiểu Tư Lệnh là.. rừng này có linh?"

    "Mỗi bước chân ta chạm xuống, ta đều cảm thấy như đang dẫm lên mạch đập của thứ gì đó rất xưa.. rất yên lặng, nhưng vẫn sống. Cảm giác.. như đang được dẫn lối dần vào tâm trận." nàng ngừng lại một chút ngẫm nghĩ, rồi lại tiếp lời: "Rừng có thể có linh tính, nhưng ta không nghĩ là linh tính đó muốn giết hại con người."

    Đoàn lại bắt đầu đào sâu, theo hướng bản đồ chỉ. Những điểm có đánh dấu nguy hiểm trên bản đồ họ đều tránh đi. Đường tương đối yên và phẳng lặng, khiến họ dấy lên một niềm hy vọng mình đang đi đúng hướng.

    Bỗng từ phía sau "xoạt" một tiếng kinh động, kèm theo tiếng la thất thanh.

    "Áaaaa.. Tiểu Tư lệnh!"

    Cả đoàn đồng loạt quay lại. Tên lính Cẩn đã bị kéo lên không trung, hai chân vùng vẫy giữa không, mặt mũi tái mét. Một dây leo mảnh nhưng cứng như cáp sắt đã quấn chặt lấy ngực hắn từ trên cao, như thể một cái bẫy đã giăng sẵn. Trong lúc giãy giụa, một dây leo từ cành khác cũng như bị hút qua, quấn lấy tay hắn. Và rồi đồng loạt những cây xung quanh liền bâu vào, quấn chặt tứ chi hắn kéo lên trời.

    Trong lúc hỗn loạn, đoàn quân bắt đầu bước lệch, một sợi dây khác trong lùm cỏ dưới đất chợt vươn ra, cuốn lấy chân của một vài người lính khác, giật bọn hắn ngã, rồi kéo lê trên mặt đất tạo thành nhiều vết dài trên nền rừng ẩm ướt, thoạt nhìn cứ như vết móng cào khổng lồ.

    "Tiểu Tư Lệnh!"

    "Trụ, Tâm, Bảo! Bọn hắn cũng bị bắt rồi." Một tên lính hốt hoảng.

    Văn Ấn một thoáng thất kinh, quân binh quanh nàng cũng tán loạn, chia thành những cụm nhỏ, toan rút kiếm chặt đứt những dây leo trên dưới đang dần tiếp cận họ. Nàng nhìn theo hướng dây leo kéo lê ba tên lính vào thẳng những gốc cây đại thụ, rồi lại nhìn tên đang quằn quại trên cao. Hắn cố gồng và lách mình thoát ra, nhưng dây leo ngược lại siết hắn càng chặt, cứng hết cả người.

    "Cứu tôi!.. Tôi bị siết chặt.. aaaaa"

    "Đáng sợ quá, rừng đã bắt đầu cảm ứng rồi."

    Những nhánh cây khác xung quanh cũng bâu lại gần, uốn xoắn như những con rắn lục trên không. Lê Trọng xông lên trước, tuốt kiếm, cắt phăng một dây đang huơ trước mặt. Đoạn dây leo vừa bị chặt lập tức chết ngay, còn xộc lên một mùi thối rữa kinh dị.

    "Đừng ai chém!" nàng ra lệnh cho toàn đội, Lê Trọng khựng lại lập tức. "Đây là cơ chế sinh học tự nhiên của rừng, chắc chắn có cách phá giải, không cần phải tổn hại đến cây."

    Văn Ấn quan sát đã cảm thấy đủ lâu, nhận ra khi Cẩn bị quấn cứng, tay hắn không thể cử động được nữa. Ấy vậy mà từ đó, dây leo đang quấn siết ở tay lại đột nhiên thu về.. buông tha hắn.

    "Tiểu Tư lệnh, loài cây này phản ứng với chuyển động của chúng ta." Một người trong đoàn hô lên.

    "Tất cả đứng yên!" Văn Ấn nghe xong liền nhanh chóng hạ lệnh, cả đoàn mấy tốp liền bất động, đứng nép sát vào nhau, không tạo thêm chút cử động nào.

    Tức thì, những dây leo cũng ngừng phe phẩy.

    "Cẩn!" Nàng đột nhiên gọi.

    "Dạ? Tiểu Tư lệnh?"

    "Đừng cử động nữa."

    "Sao ạ? Tôi sắp bị siết cổ." Cẩn ngoái đầu xuống nghe, vô tình khiến dây leo ở cổ quấn chặt hơn một vòng, trợn trắng mắt.

    "Dừng ngay mọi cử động, đây là mệnh lệnh!" nàng gằn từng tiếng, khiến hắn lạnh người, đông cứng toàn bộ cơ thể.

    "Thọ, Quý, Bửu, các ngươi tách một nhóm đi sang tìm những người kia, cẩn thận không va chạm linh tinh." Nàng dịu giọng, hất mặt phân công, mắt không rời khỏi trận leo quấn người kỳ quái.

    Cỗ dây leo trập trùng cứ liên tục quấn siết, Cẩn gồng mình bất động, tưởng như không thể chịu đựng thêm nữa.

    Và rồi.. cảm giác bóp chặt bỗng dừng lại, sau đó dần dần.. nới lỏng ra.

    Tên lính ngạc nhiên, hơi vặn người một chút, dây liền phản ứng, siết chặt lại.

    "Để yên cho nó rút, Cẩn!" Lê Trọng dường như cũng hiểu, gọi vọng lên.

    Từng lớp từng lớp dây thu lại, chỉ còn đúng một sợi dây leo ban đầu quấn quanh bụng hắn, khi không cử động, dây cũng thả lỏng từ từ, dần trả Cẩn sát xuống mặt đất. Tên Cẩn mặt cắt không còn giọt máu, vừa chạm chân xuống đất mẹ liền phấn khích hôn lấy, cảm tạ trời đất vì hắn vẫn còn sống.

    Văn Ấn nhanh chân tiến lên, chạm tay vào sợi dây leo chưa kịp rút. Những sợi leo xung quanh như thấy có hơi ấm đến gần, cũng bắt đầu rũ xuống trở lại, dần tiếp cận nguồn thân nhiệt gần nhất.

    "Tiểu Tư lệnh! Cẩn thận.." Lê Trọng lo lắng nhìn theo nàng.

    Nàng dường như không còn thấy sợ, ngược lại muốn biết loại cây này có đúng như nàng đang nghĩ. Tay khẽ chạm, dây leo nhận thấy liền quấn nhẹ vào cổ tay, nàng thử không cử động, thấy đúng là có trượt ra, đến khi dùng lực ghì lại, dây mới siết vào tay chặt hơn, thậm chí còn kéo giật lên một chút. Văn Ấn cười nhẹ, liền thả tay.

    Những dây leo khác xung quanh nàng lại như những cánh tay tìm kiếm. Không như suy nghĩ của Lê Trọng và các binh lính, chúng như có phần dè dặt hơn với Văn Ấn - người chủ động tiếp cận chúng. Những sợi dây cong cớn, co lên rồi duỗi ra, vây quanh nàng, nhưng không xâm phạm. Chúng chỉ khẽ khàng lướt qua vạt áo, như một cái chạm nhẹ rất quen. Rồi lặng lẽ rút vào bóng tối, để lại trong không khí một mùi hương cỏ non nhàn nhạt.

    "Quả nhiên!" Một tên lính bỗng cảm thán, rồi nhìn thẳng hướng Văn Ấn: "Bẩm Tiểu Tư lệnh, đây là dây leo Đằng Lệ - một loài thực vật cực kỳ mẫn cảm với thân nhiệt và lực chấn động. Phản ứng của chúng nãy giờ là tự vệ tự nhiên trước ngoại lực. Người không cần quá lo, nhưng cũng tuyệt đối không nên cắt dây."

    Đó là Minh, một người lính trong đoàn từng là thợ săn. Vốn đã kinh qua nhiều địa hình rừng khác nhau, nên sau khi quan sát hiện tượng, hắn liền lập tức nhớ lại kiến thức về loài cây này đã từng xem qua trong sách.

    "Một khi bị chém đứt, dịch trong thân nó - thứ nhựa sẫm đậm như huyết này - sẽ lập tức chạm không khí. Lúc ấy, phản ứng sinh ra độc tố ngược, chạy về cả thân dây, khiến nó thối rữa trong chớp mắt."

    Nói đoạn, hắn nhặt từ dưới đất lên một đoạn cây đã mủn ra do vừa nãy bị Lê Trọng cắt đứt, tiếp tục diễn giải.

    "Loài này biết tự hủy để không bị khai thác, thưa Tiểu Tư lệnh. Chỉ cần một nhát chém.. là chết cả dây. Tổ tiên của chúng tiến hóa để không bị hái tỉa, không cho ai lợi dụng và đem ra khỏi rừng Tịch Lâm. Ban nãy có thể do chúng ta đi qua đồng đều, tạo sự chuyển động và nguồn nhiệt lớn, nên đã sinh ra sự thu hút, và dây hạ xuống ngay lúc Cẩn đang chuyển động mạnh."

    "Ph- Phải.. lúc nãy như có cái gì rơi vào áo, nên ta.. buộc phải lấy nó ra." Cẩn ngay lập tức xác nhận điều Minh đang nói.

    Văn Ấn gật nhẹ tỏ ý đã biết, rồi thoáng ngẩng lên nhìn vào tán rừng rậm rạp. Nàng bỗng có một cảm giác kỳ lạ - như thể những dây leo kia không hề muốn làm tổn thương nàng, mà chỉ đang hiếu kỳ.. quan sát nàng một chút mà thôi.

    Khẽ xua đi cảm giác có phần hơi ngớ ngẩn, nàng hướng mắt nhìn về phía những cây đại thụ, nơi Thọ đang cẩn trọng từng bước tiến đến gần.

    "Báo cáo tiểu Tư lệnh, đã tìm thấy Trụ, Tâm và Bảo!" giọng Thọ không lớn nhưng gấp gáp. Những binh sĩ quanh đó cũng chỉ dám trao đổi bằng ánh mắt. Trong rừng sâu, cả tiếng lá rơi cũng như có thể khuấy động thứ gì đó chưa rõ tên.

    Văn Ấn khẽ gật đầu. "Ừm. Ta sang xem."

    Đoàn người men theo dấu rễ uốn lượn dưới nền đất, tiến đến nơi Quý và Bửu đang cặm cụi. Giữa đám rễ rối rắm kia, Trụ hiện ra - bị nhốt trong một cấu trúc kỳ dị như một cái lồng sống, tạo thành từ vô số rễ cây cứng đan chéo, chồng lên nhau như một bào thai cây.

    "Trời ơi.. bên cạnh hắn.." là một cái xác đã chết khô. Cẩn xém buột miệng, nhưng đã kịp thời chặn lại.

    Không có dấu hiệu bị hành hung. Không có máu. Nhưng cái cách hắn bị giữ lại khiến ai nhìn cũng rợn sống lưng.

    "Dây leo đã kéo bọn họ vào đây ư? Đây là bẫy thú à?" Văn Ấn thầm quan sát, nhìn sang hai tên còn lại cũng đang bị nhốt trong những cái lồng tương tự, đôi mắt như soi rọi từng mắc nối của chiếc bẫy ghê gớm này. Tự nhiên đến hoàn hảo, tinh vi đến khó tin.

    "Những chiếc bẫy này lớn quá, nhưng từ lâu ở đây đã không còn thú lớn nữa rồi mà." Lê Trọng vuốt cằm, một thoáng rùng mình khẽ vụt qua người hắn.

    "Thú vị đây." Nàng lẩm bẩm, ánh nhìn dừng ở chỗ các đầu rễ vẫn còn động nhẹ, như chưa thực sự "ngủ".

    "Dường như.. Tịch Lâm có cơ chế đề kháng tự nhiên."

    Trong đầu nàng thoáng hiện lên nhiều giả thuyết, nhưng không vội thiên về cái nào. Nàng ra hiệu cho binh lính không dùng lửa, không dùng lực chặt. Chỉ sử dụng dao nhỏ và cưa tay, từ từ tháo gỡ từng đoạn rễ như gỡ bẫy thú rừng.

    Cái lồng này.. đường vào thì dễ, nhưng thoát ra thì như đang tháo từng sợi tóc khỏi bàn tay vô hình của một thực thể ma quái.

    Phải mất gần nửa canh giờ mới đưa được ba tên lính ra ngoài. Dù không bị thương, nhưng sắc mặt bọn hắn đều trắng bệch, trán đẫm mồ hôi lạnh. Ánh mắt vẫn còn hoảng loạn, như vừa bị nhốt trong giấc mơ mình không hiểu nổi. Những tên lính khác mặt đầy cảm thông, có người còn không kìm được mà nói khẽ:

    "Bên trong mỗi cái lồng đấy chắc phải đến mấy cái tử thi." Chưa kịp dứt lời, hắn đã bị kẻ bên cạnh huých cho một cái thật mạnh vào vai.

    Trong lòng quân, sự xao động âm thầm lại lan ra như những vòng sóng.

    Văn Ấn lặng lẽ lấy bản đồ trong áo ra. Ở những điểm cha từng đánh dấu, người chỉ ghi lại các cơ quan thật sự hiểm hóc trong rừng - hoàn toàn không có dấu hiệu gì về những hiện tượng kỳ dị vừa rồi. Không lẽ chúng đều là phản ứng tự nhiên của rừng? Chưa rõ ràng lắm, nhưng trước mắt nàng cảm thấy những cái bẫy này không đến mức nguy hiểm.

    Dẫu vậy, Văn Ấn vẫn cẩn trọng lấy sợi vải đỏ, buộc đánh dấu từng điểm bất thường và ghi chú thêm trên bản đồ, đồng thời cất giọng hỏi nhẹ: "Minh đã từng thấy qua những cơ quan thế này chưa?"

    "Chưa từng ạ thưa Tiểu Tư lệnh, những kiểu cơ quan này không phổ biến ở các khu rừng bình thường cho lắm." Minh lắc đầu, xem ra cũng chỉ vừa chứng kiến lần đầu tiên.

    Ba hiện tượng kì dị liên tiếp xảy ra ngay từ khi mới đến, khiến binh lính vừa đặt chân vào Tịch Lâm đã sớm hoang mang.

    Quả nhiên danh xưng "Tịch Lâm tử địa" không phải truyền miệng suông - chỉ mới là bước đầu một nhiệm vụ khảo sát địa hình mà đã khó nhằn như thế. Chặng đường trước mặt còn dài, còn bao nhiêu hiểm họa đang rình rập chờ họ?

    Từ phía sau, tiếng rầm rì bắt đầu dấy lên:

    "Không ổn rồi.. Rừng này sống. Nó sống thật sự."

    "Ban nãy là Thọ, Cẩn, rồi Trụ, Tâm, Bảo. Tiếp theo sẽ đến lượt ai đây?"

    Giọng Văn Ấn vang lên, không lớn, nhưng đủ dứt khoát để tất cả im bặt:

    "Quân tâm không được dao động. Đừng để sự sợ hãi tự chia rẽ đội ngũ trước khi có thứ gì đó ngoài kia kịp ra tay."

    Nàng cúi xuống, nhặt một đoạn rễ đã bị cắt, đưa lên quan sát ánh sáng mờ

    "Đây có thể là phản xạ sinh học mà chúng ta chưa hiểu hết. Đó là lý do vì sao chúng ta nhận lệnh, và có mặt ở nơi này."

    Xác định phương hướng trên bản đồ, Văn Ấn đảo mắt một vòng kiểm tra xung quanh, cảm thấy tạm an toàn mới tiếp tục dẫn quân đi tiếp.

    Chỉ trong chưa đầy một ngày, có không ít binh sĩ đã lần lượt mất kiểm soát. Nhưng đó vẫn chưa phải điều đáng sợ nhất. Khi cả tiểu đội tiến sâu thêm hai trượng, tới một vùng rừng thưa, nơi không còn những tập kích bất ngờ từ cỏ cây - thì thứ rợn người nhất mới hiện ra.

    Trước mắt họ, một bãi chiến trường cháy đen trải dài.

    Ngựa không còn đầu. Người bị ghim thẳng vào thân cây bằng những chông tre mục nát, chẳng thứ gì còn nguyên vẹn. Dưới đáy bãi bồi chỉ còn là những bộ hài cốt ai oán, những bộ giáp đồng phục chất chồng lên nhau. Phía xa kia là một cỗ xe ngựa mất mái đổ nghiêng bên vệ đường, lửa dường như đã nuốt trọn từ bên trong, để lại những vết cháy đen kịt, tàn lụi.

    "Đây.. đây là đoàn tiếp tế quân nhu đấy.." Lê Trọng thoáng kinh hãi, cả một binh đoàn vận lương, giờ chỉ còn là đống tro bụi mục ruỗng.

    Văn Ấn đảo mắt nhìn quanh, nhìn thấy ở chính giữa hai bên bãi bình địa là một dải đất bằng phẳng đến kì lạ, như thể có ai đó cố tình vạch ra giữa chiến trường điêu tàn. Lê Trọng đảo mắt một lượt, thận trọng định bước tới.

    Một luồng gió chợt thổi qua, lùa tán cây xào xạc, tiếng rít xuyên qua kẽ lá heo hắt như tiếng sáo vọng. Từ tâm rừng như đang phả một hơi vào người nàng.

    Một tia nghi hoặc vụt lóe lên trong mắt, Văn Ấn chặn người kế bên. Nhanh như cắt, nàng rút ra một nhánh giáo ngắn, ném thẳng về phía trước.

    "Xoẹt!"

    Ngọn giáo đứt làm ba khúc theo đường ngang, giữa không khí.

    Không tiếng cơ quan. Không dây cáp. Không ánh thép lóe sáng. Chỉ có một vệt mờ gợn sóng giữa thinh không, hoàn toàn không thể phân biệt bằng mắt thường.

    Toàn đội chết lặng.

    Không khí nơi này.. cắt đứt thanh giáo?

    "Tịch Lâm quả nhiên không tha người."

    Lê Trọng mặt cắt không còn giọt máu. Văn Ấn nội tâm bất chợt run rẩy, như vừa mới chứng kiến cái chết của mình thoảng qua trước mắt. Dưới ánh nhìn căng thẳng của toàn đội, nàng quay lại, kiên quyết:

    "Ta nghĩ.. chúng ta phải quay về doanh trại."

    Lời nói khiến toàn đội sững lại.

    "Tiểu Tư lệnh. Ngài chắc chứ? Chúng ta đã đi được một đoạn khá xa.." Lê Trọng không giấu nổi vẻ lo lắng. "Thế còn nhiệm vụ?"

    Nàng hít sâu một hơi, trầm tĩnh như mặt nước trước cơn sóng lớn:

    "Nhiệm vụ vẫn còn đó. Nhưng khu rừng này không đơn giản như những gì được ghi lại. Quân sĩ là gốc rễ của thành bại. Dẫu chỉ là một cành khô, ta cũng không để Tịch Lâm này nuốt mất."

    "Ta cần thêm thời gian. Khu rừng này hiện tại không an toàn."

    Không đợi tranh cãi thêm, Văn Ấn đã ra lệnh dứt khoát:

    "Lập tức rút quân khỏi Tịch Lâm, tiến về doanh trại!"

    Đoàn quân quay đầu, đi ngược lại hướng đi cũ. Không ai nói một lời, tất cả đều theo chân và tin tưởng tuyệt đối vào tiểu Tư lệnh của họ.

    Tiếng rừng rít bên tai Văn Ấn u u như tiếng gọi tịch mịch giữa đêm lặng. Nàng ngoái nhìn về phía sau, môi hiện nét cười nhạt, nhìn sâu vào tâm rừng hun hút.

    "Liệu lúc đó.. ta làm như vậy.. thì kết quả có khác đi không?"

    Một tiếng nói ong lên trong đầu Văn Ấn. Giọng nói ấy âm ỉ, khắc khoải liên tục, đeo bám lấy nàng, khiến nụ cười trên môi dần tắt.

    Bóng tối từ khoảng rừng sâu.. như đang dần tràn ra..

    "Có khác đi không?"

    "Văn Ấn!" Từ trong lòng rừng dội ra một tiếng thét xé rách tầng không, mang theo một màu đen đặc bao trùm lấy mọi thứ.

    * * *Tách.. Tiếng giọt sương trên lá rơi tạch bên tai.

    Văn Ấn mở mắt, trán đẫm mồ hôi. Hơi thở nghẹn giữa ngực, nàng ngồi bật dậy trong chiếc lều tạm.

    Trời đã hửng sáng.

    Cả người nàng vô lực, cổ họng khô khốc, giống như vừa trải qua một cuộc hành trình dài đằng đẵng mà không có điểm dừng. Đôi mắt nặng trĩu mở ra, nhưng không thể thoát khỏi cảm giác u ám và ngột ngạt. Những ngày qua dường như hòa lẫn vào nhau trong một đêm dài không thấy ánh sáng.

    Đã là ngày thứ hai mươi hai trong rừng Tịch Lâm, và nàng..

    * * *lại vừa mơ lại giấc mơ ấy..

    ###​
     
Trả lời qua Facebook
Đang tải...