Định Mệnh Một Đời Người Tác giả: Toiyeumientay Thể loại: Tản văn Nó giống như một con chuột nhỏ rơi vào tay của con mèo định mệnh. Định mệnh quất ngã nó, làm nó đớn đau quằn quại, kiên nhẫn chờ nó phục hồi, đứng lên để rồi lại quất nó lần nữa, lần nữa, cả đến đòn chí mạng. Nó sinh ra là một bé gái bụ bẩm, khỏe mạnh như những anh chị em của nó trong một gia đình bình thường ở một làng quê nhỏ yên bình. Khi vừa hơn 10 tháng tuổi, một cơn dịch sốt bại liệt đã đi qua ngôi làng yên bình của nó. Nó là một trong những nạn nhân của bệnh dịch, đó là ngọn roi đầu tiên định mệnh quất lên người nó. Dù ba má nó đã cố giang người ra hứng đỡ, nhưng ngọn roi đó vẫn rơi trúng nó, hằn vết trên người nó đến cuối cuộc đời. Mãi đến gần 6 tuổi nó mới bắt đầu đi những bước chân đầu tiên, khập khiễng, trên đôi chân yếu ớt và không chịu nghe lời của nó. Đôi chân đó có thể để cho cơ thể nó ngã khụy xuống bất cứ lúc nào, cả những lúc nó không hề ngờ đến. Cả ba má nó, anh chị em của nó đều không biết rằng trong cơ thể yếu đuối, tật nguyền của nó là một sức sống mãnh liệt, một nghị lực phi thường. Bằng quyết tâm, nó bắt đôi tay không chịu hoạt động phải cầm bút, tập vẽ, tập viết những nét từ nguệch ngoạc dần thành chữ viết đều đặn, rõ ràng. Một con đường đất dài khoảng nửa cây số nối liền làng nó và con lộ đá. Bọn trẻ cùng tuổi nó thường chạy chơi từ nhà ra lộ vài ba bận mỗi ngày, nhưng với nó, đó là một đoạn đường rất dài. Vào mùa mưa, con đường đất lầy lội, trơn như thoa mỡ lại còn phải qua một chiếc cầu khỉ gập ghềnh. Trẻ con đi học hàng ngày nên đã quá quen với những điều này. Chúng nó xắn quần lên đến gối, vai mang cặp, tay xách dép, thận trọng bấm chặt mười đầu ngón chân trên mặt đất để giữ thăng bằng. Khi ra đến đường lộ, chúng tìm một vũng nước sạch để rửa chân, mang dép vào, thế là đường hoàng, sạch sẽ đi đến trường. Nó không có được cái may mắn đó. Những ngày nắng ráo, đôi chân dù mệt mỏi, đau đớn, nó vẫn cần mẫn, chịu đựng đi đến trường. Để kịp giờ học, nó phải thức sớm hơn, đi sớm hơn những đứa trẻ khác. Vào ngày đường lầy lội, nó bất lực, nhưng quyết không chịu nghỉ học dù chỉ một ngày. Ngày có ba ở nhà, ba cõng nó trên lưng, an toàn đưa nó ra đến đường lộ. Thỉnh thoảng có người trong làng hỏi ba nó "Tật nguyền như vậy sao không cho nó ở nhà phứt, học làm gì mà phải cõng mỗi ngày cho cực khổ?" Ba nó cười tự hào "Nó học giỏi nhất mà, nghỉ thì uổng chết". Nó cúi đầu vào gáy ba, vừa tủi thân, vừa tự hào và yêu thương ba má nó nhiều hơn. Ngày không có ba, má và các chị không cõng được nó, nên chỉ thay phiên dìu nó đi. Khi nó sắp trượt chân, má hoăc chị nó cố gượng giữ thang bằng cho nó, nhưng khi chân nó mà khụy xuống thì cả má hay chị cũng không gượng nổi và khụy theo nó. Thế là cả hai đều lắm lem, có khi bùn bết cả lên mặt và tóc nó. Nhứng ngày đó, trong cặp nó ngoài sách vở còn có thêm một bộ quần áo sạch. Ra đến lộ, nó rửa ráy hoa loa rồi vào nhà một người họ hàng để thay quần áo, tiếp tục đi bộ thêm gần ba cây số nữa để đến trường. Lần hồi rồi nó cũng học xong phổ thông, đậu vào đại học sư phạm. Mười hai năm phổ thông nó trãi qua trăm ngàn lần té ngã trên đường, trong sân trường, lớp học. Mười hai năm, bao nhiêu lần nó nghe tiếng cười cợt chế nhạo, bao nhiêu lần nó bắt gặp ánh mắt tội nghiệp xót thương. Nó không giận, không oán trách, mà làm quen với tất cả những điều đó và vẫn quyết chí đến trường để có được ngày này. Nó hớn hở chuẩn bị, chờ ngày vào đại học. Ngày vào làm thủ tục nhập học, người giáo viên làm thủ tục, nhìn nó ái ngại rồi nói rằng với điều kiện của nó chắc chắn sau này sẽ không thể làm giáo viên đứng lớp được, khuyên nó nên chọn học trường khác. Ngày đó thiếu thốn phương tiện thông tin, nó đâu biết rằng, tốt nghiệp sư phạm không nhất thiết phảo làm giáo viên đứng lớp. Nghe lời nói đó nó như bị đánh, rơi từ trên cao xuống. Đau đớn cả tâm hồn lẫn thể xác, nó lầm lũi gói ghém hành lý, rời thành phố trở lại làng quê. Rồi nó lại vượt qua nỗi đau, chấp nhận định mệnh, từ bỏ đại học Sư phạm, chuyển xuống cao đẳng Văn Hóa. Có đợt nó nằm viện, tình cờ quen một đứa con trai người Chăm, cũng đang nằm viện. Hai đứa trước quen, sau thành bạn, thành người yêu. Sau khi tốt nghiệp hai đứa kết hôn, cả nhà đều, mừng cho nó, nhất là ba má. Ba má cứ nghĩ nó như vậy chắc sẽ không có được chồng, giờ mừng như mở cờ trong bụng. Sau đám cưới, cả nhà gom góp được chút đỉnh đủ cho vợ chồng nó cất một căn nhà nho nhỏ để sống với nhau. Mấy tháng sau nó có thai. Gần đến ngày sinh, nó khăn gói về nhà ba má để có người chăm lo cho nó. Trong thời gian đó, chồng nó bị mất việc làm, bán đi ngôi nhà nhỏ để làm lộ phí đi tìm việc ở tỉnh xa. Sinh con xong nó không còn nhà để về, phải ở lại nhà ba má. Cầm cái bằng cao đẳng đi xin việc khắp nơi, nhưng có lẽ không cơ quan nào muốn nhận một người tật nguyền như nó. Nó đành bấm bụng gửi con cho ba má, lên Sài Gòn may thuê cho một tổ hợp may gia công. Mỗi năm chỉ vài lần gặp chồng, vài bận về thăm con. Mấy năm sau, một thầy giáo cũ ở trường cấp ba ngày xưa nó theo học nay trở thành hiệu trưởng. Thầy nhận nó vào làm thủ thư của thư viện trường. Thế là nó được về lại quê, sống cùng con trai và gần ba má, anh chị em. Lương của một thủ thư thời bao cấp có là bao, không đủ nuôi sống hai mẹ con nó dù có phải tằn tiện thừng chút một. Nó làm đủ việc từ nhận thêm việc ghi sổ sách cho trường, viết báo, làm thơ đăng trên các tạp chí, gom góp từng đồng nhuận bút để có thêm miếng cá, miếng cơm cho con. Tuy được hạnh phúc sống cùng nhau, nhưng cuộc sống của hai mẹ con nó là chuỗi ngày chờ đợi, chờ ngày nhận lương, nhận nhuận bút, chờ thư, chờ điện thoại của chồng, chờ chồng về thăm. Nhưng rồi những lá thư, những cuộc điện thoại cứ thưa dần, ngắn dần đi, những lần về thăm của chồng lại càng hiếm hoi. Nó héo hắt, gầy mòn trông đợi cho đến một ngày nó biết ra chồng nó đang ở cùng một người đàn bà khác. Nó đau đớn đến điên cuồng. Hàng ngày nó vẫn đi làm, vẫn chăm sóc con chu đáo, nhưng cứ đêm đến thì nước mắt như mưa, oằn mình trong nỗi đau khổ, mất mát. Trái tim của nó tan nát, nhưng lý trí nó vẫn vững vàng. Sau mấy năm trời thổn thức, đớn đau, môt lần nữa nó lại đứng lên mạnh mẽ hơn, vững vàng hơn. Con trai càng lớn, nỗi lo tiền bạc càng cao, nó phải kiếm tiền cho con nó được học hành đến nơi đến chốn. Nó lao vào viết lách. Từ truyện ngắn, thơ, dần dần qua viết kịch bản phim cho người ta, rồi trở thành biên kịch độc lập. Khi con trai học lớp 12 thì nghề viết lách của nó bắt đầu khởi sắc, nó nhẹ nhõm cất được gánh lo chi phí đại học cho con. Con nó tốt nghiệp đại học, có việc làm ổn định. Nó trở thành nhà biên kịch nổi tiếng. Trái tim đau thương của nó hầu như đã hoàn toàn lành lặn. Hai mẹ con rất hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Cả hai lên kế hoạch xây một ngôi nhà khang trang hơn. Nó bắt đầu tưởng tượng đến ngày con trai có vợ, nó có con dâu, có cháu nội. Lần này định mệnh đã rất kiên nhẫn chờ cho nó thật sự cảm thấy hạnh phúc, thật sự quên hẳn những cú đánh trong đời, và nghĩ rằng định mệnh cuối cùng đã trả cho nó cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Nó vẫn đang miên man trong hạnh phúc thì hay tin con trai bị tai nạn giao thông trên đường đi công tác thiện nguyện ở vùng xa. Nó hớt hải thuê xe đến bệnh viện, nhưng con nó đã ra đi. Đứa con yêu quý của nó, lẽ sống của nó đã rời xa nó. Bầu trời như sụp xuống trên đầu nó, nó quỵ ngã, đau đớn đến tê dại. Đứa con ngoan, hiền, thông minh, giỏi giang và luôn yêu thương mẹ hết lòng hết dạ đã rời xa nó. Đứa con trai đã cùng nó trãi qua những tháng năm vất vả khó khăn, giờ không ở lại cùng nó tiếp tục những ngày hạnh phúc, yên bình. Từ gia đình, người thân của nó, cho đến những người chỉ biết nó qua những bộ phim do nó biên kịch, đều xót xa cho nó. Chị em nó vừa đau đớn vì mất cháu, vừa lo lắng sẽ mất luôn cả nó. Họ lo rằng cú đánh này của định mệnh quá đỗi tàn nhẫn, không chừa cho nó con đường sống, lo nó không thể vực dậy như bao lần trước. Nó ngụp lặn trong đau đớn và tuyệt vọng. Nó rơi vào trầm uất, tránh xa mọi giao tiếp. Gần một năm trôi qua, nó lần hồi gượng dậy. Nó lại thầm cảm ơn định mệnh. Vâng, nó không oán trách định mệng đã cướp đi con trai, nó lại cảm ơn định mệnh đã cho con đến với nó, sống cùng nó hơn hai mươi năm qua. Vết thương lần này sẽ không bao giờ lành, trái tim của nó vẫn luôn âm ỉ nhức nhối. Nhưng nó quyết vực dậy, quyết tiếp tục cuộc sống, sống thật tốt, thật vui cho con trai nó được yên lòng. Những kịch bản phim của nó tiếp tục ra đời, tiếp tục được khán giả nồng nhiệt khen ngợi. Giờ đây nó không viết để kiếm tiền, nó viêt để chứng minh rằng nó vẫn sống, vẫn có ích cho đời. Từ đứa bé tật nguyền phải nương tựa vào sự giúp đỡ của gia đình, bè bạn, giờ đây nó lại trở thành nguồn động viên cho họ cả về tinh thần lẫn vật chất. Nó đã ngộ ra sự vô thường, được mất của cuộc đời. Giờ đây nó sống rất an yên tự tại. Sống để sẵn sàng đón nhận ngày ra đi của chính bản thân, sống trong hy vọng sẽ được gặp lại đứa con trai thương yêu ở một nơi nào đó. Vì không được phép của nó nên tôi không nêu tên nó hay tên những bộ phim do nó biên kịch, nhưng tôi tin rằng những khán giả yêu phim của nó, nếu đã từng tìm hiểu một chút về đời tư của nhà biên kịch hẳn đã đoán tên của nhân vật chính trong câu chuyện này. Hết.