ĐỀ ÔN TẬP 4 I. Đọc – hiểu (3,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu Mùa xuân về trên mộ hai lính trận Chử Văn Long Mùa xuân về trên mộ hai người lính Một phía bên kia, một phía bên này Những sợi cỏ gà bò lan chầm chậm Như những bàn tay tìm gặp bàn tay Dường như tất cả đã xóa đi mọi điều thù hận Ai nỡ phân chia ranh giới ở nơi này! Hoa đồng nở bừng lên quanh hai nấm mộ Cánh bướm ngây thơ cũng tới vẽ vòng, Cả tiếng sáo tận bờ tre êm ả Ru vọng về giấc ngủ ngàn năm... (Thơ hay Việt Nam thế kỉ XX, NXB Văn hóa thông tin, 2006, tr.253) Câu 1: Xác định thể thơ của văn bản. Câu 2: Chỉ ra các hình ảnh gợi tả không khí mùa xuân trong khổ thơ cuối. Câu 3: Nêu tác dụng của biện pháp tu từ so sánh trong hai câu thơ: Những sợi cỏ gà bò lan chầm chậm Như những bàn tay tìm gặp bàn tay Câu 4: Lí giải về thông điệp cuộc sống mà anh(chị) nhận được qua văn bản. II. Làm văn (7,0 điểm) Câu 1 :(2,0 điểm) Dựa vào văn bản phần Đọc hiểu, anh (chị) hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày những suy nghĩ về sức lan tỏa của lòng vị tha trong cuộc sống. Câu 2 :(5,0 điểm) ... "Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung rít lên như tuyếc- bin thủy điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trong tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào..." (Trích Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ Văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr.187 – 188) Phân tích hình tượng dòng sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về nét đặc sắc trong ngôn ngữ tùy bút của Nguyễn Tuân.