Đề: "Đoàn thuyền đánh cá" là khúc tráng ca của người lao động. (p/s: ** Mở bài, *** Đánh giá, * Luận điểm chứng minh nhận định. Mỗi phần được đánh dấu khi bắt đầu viết đoạn đó sẽ lùi vào so với lề) Bài làm **Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. Sau cách mạng ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" được ông sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sự là một khúc tráng ca, ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới. * Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: Cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hòa của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ. *Mở đầu bài thơ Huy Cận đã vẽ nên bức tranh hoàng hôn tráng lệ nhưng không lại vô cùng bình dị với người dân làng chài: "Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa" Nghệ thuật so sánh và nhân hóa được sử dụng thật độc đáo. Hình ảnh mặt trời được ông ví như "hòn lửa" ấm nóng, đỏ rực đang từ từ chìm dần và hòa mình vào đại dương mênh mông, vô tận. Trong khoảnh khắc ấy ta tưởng chừng như mọi giới hạn của trời đất như bị xóa bỏ, tất cả hòa hợp lại với nhau tạo thành một mảng không gian bất tận nhuốm màu đỏ của ánh nắng chiều tà. Vũ trụ là một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà sóng biến là những chiếc then cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái nghỉ ngơi sau một ngày dài mỏi mệt thì khi ấy có những con người bắt đầu công việc của mình: "Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi" Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời chìm vào giấc ngủ say nồng thì khi ấy vị chủ nhân thứ hai- những người dân chài đã mở cánh cửa ấy ra để đi đánh cá. Hình ảnh "đoàn thuyền" là hình ảnh hoán dụ ý muốn nói đến cuộc sống lao động tập thể của những dân chài. Công việc của họ diễn ra như một nhịp sống đều đặn trở thành quen thuộc, nền nếp ( "lại ra khơi"). Nếu màn đêm ngưng lại sức sống của thiên nhiên thì sự xuất hiện của đoàn thuyền như nối tiếp nhịp sống đó. Dù đã cài then, sập của nhưng biển khơi không chìm trong sự hoang vu, lạnh lẽo của đêm tối, biển khơi đã trở thành chứng nhân cho sự chăm chỉ và hăng say trong công việc của những người dân chài ấy. Ở câu thơ thứ hai xuất hiện ba sự vật khác biệt nhau nhưng lại có một sự gắn kết không tưởng bởi bút pháp lãng mạng tuyệt đẹp. Gió hòa cùng tiếng hát khoẻ khắn của cả tập thể như thổi căng cánh buồm trắng xóa đưa con thuyền rẽ sóng vút nhanh trên mặt biển. Câu hát là niềm tin, là sự hào hứng, phấn chấn khi ra khơi của những người dân chài cũng chính là không khí vui tươi, hứng khởi của những người lao động trong cuộc sống mới Sự kết hợp của nhịp điệu gấp gáp khẩn trương ở hai câu thơ đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc ở hai câu thơ sau. Tác giả đã thành công vẽ nên bức tranh ra khơi đầy hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ đầu còn là sự kết hợp giữa các liên tưởng độc đáo với những phép tu từ nhân hóa, so sánh cùng bút pháp lãng mạng tuyệt đẹp đã giúp tác giả Huy Cận thể hiện khúc tráng ca ra khơi hồ hởi, hào hùng của người dân chài. *Ko chỉ hát khi ra khơi người dân chài còn cất tiếng hát hòa cùng công việc của mình. Tiếng hát của mong ước, hi vọng thu hoạch được mẻ lưới lớn: "Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi" Chuyện đánh bắt trên biển thường có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng hồn hậu của ngư dân đã từng trải qua nhiều nắng, gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt ngào, ngắn dài và vang xa: "Cá bạc", "đoàn thoi", "dệt biển", "luồng sáng", "dệt lưới" vẫn những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về lao động. Từ con cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn và đẹp. Hay hình ảnh cá thu từng đoàn rẽ nước tỏa sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cửa biển là sự liên tưởng vô cùng độc đáo, đó chắc hẳn kết quả của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên thật gần gũi. Trong lời hát của người ngư dân, biển thật giàu có: "Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng. Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!" Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên những khúc ca hoành tráng của người lao động. Lời ca tiếng hát là những ước mơ đẹp, ước mơ về một chuyến đi với những thành quả lao động cao, góp phần tích cực vào việc xây dựng cuộc sống mới tươi đẹp. Hình ảnh của sự liên tưởng sáng tạo, giàu ý nghĩa; hình ảnh mang chất thơ, thi vị hóa công việc đánh bắt cá nặng nhọc. Câu hát yêu đời, thiết tha, trìu mến, ca ngợi sự giàu đẹp của biển Đông Việt Nam, thiên nhiên Việt Nam. Trên phông nền thiên nhiên đầy tráng lệ ấy sức mạnh của cánh buồm, sức mạnh làm chủ của con người hiện lên rõ ràng hơn bao giờ hết: "Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng" Hình ảnh con thuyền được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng bay bổng. Thuyền có "lái" cũng có buồm nhưng "lái" bằng "gió" và buồm là "buồm trăng". Câu thơ làm ta tưởng như con thuyền lướt đi trong đêm không phải bằng sức mạnh con người mà bằng sức mạnh của câu hát, sức mạnh của gió cộng hưởng với sức mạnh của trăng. Có lẽ bởi vậy con thuyền như "lướt", như bay lên. Con thuyền vốn dĩ nhỏ bé giữa không gian mênh mông, rộng lớn ấy nhưng qua cảm hứng vũ trụ của Huy Cận con thuyền như trở nên kỳ vĩ, khổng lồ, sánh ngang với thiên nhiên, vũ trụ. Nó khác hẳn với con thuyền cô đơn, nhỏ bé, lạc lõng giữa không cùng trời đất mênh mang trong bài thơ "Tràng Giang" trước cách mạng: "Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng". Trong con thuyền khổng lồ, sánh ngang tầm với thiên nhiên, vũ trụ ấy. Hình ảnh những người dân chài dần hiện lên trong ta thế chủ động: "Ra đậu dặm xa dò bụng biển, Dàn đan thế trận lưới vây giăng" Đã qua rồi thời con người nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả rộng lớn. Con người hiện lên với khí thế của người làm chủ, biển khơi như thu hẹp lại để con người "dàn đan thế trận" và "dò bụng" để con người tìm tòi, khám phá. Họ - những người dân chài mang trong mình sức mạnh, sự khoẻ khắn mang trong mình cả sự tìm tòi, khám phá để tung hành thế giới thiên nhiên, biển cả rộng lớn và đầy bí hiểm. Đó là một cuộc chiến mà mỗi người dân chài là một chiến sĩ dũng cảm. Hát khi ra khơi, hát cho cuộc hành trình và những người lao động còn hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả: "Cá nhụ cá chim cùng cá đé, Cá song lấp lánh đuốc đen hồng, Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé." Các loài cá được kể tên: Cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyển động dưới làn nước biển. Hình ảnh ấy cũng từng gợi hứng cho nhà thơ Chế Lan Viên viết nên câu thơ kì tài: "Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về". Có thể nói, với hình ảnh cá song, hai nhà thơ không chỉ gặp nhau ở sức liên tưởng mà còn "cùng chí hướng" ở cảm hứng sáng tác: Nghệ thuật bắt nguồn từ hiện thực, từ đời sống lao động của quần chúng nhân dân. Đoạn thơ mang nhiều màu sắc, ánh sáng: Ánh sáng đen hồng, lấp lánh của cá song, ánh sáng vàng choé của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hòa cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu, biển lại như thấy hơi thở: "Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long." Hình ảnh nhân hóa thật độc đáo. Đêm vẫn thư giãn trên mặt biển thuỷ triều lên xuống như tạo ra hơi thở cho đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên mặt nước, trôi dạt, nhảy múa trên đầu những ngọn sóng chiều đập vào bãi cát được ví như "lùa nước Hạ Long". Sao với nước cũng xuất hiện và tồn tại trong nhịp thở của đêm. Nối những miền không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kì ảo. Đặc biệt, nhà thơ gọi cá bằng em. Một cách gọi trìu mến, cá không còn là dối tượng đánh bắt mà trở nên thân gần đáng mến. Tiếng hát theo những người dân chài trong suốt cả cuộc hành trình và giờ đây tiếng hát cất lên là để gọi cá vào lưới: "Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao." Người dân gọi cá bằng tiếng hát và bằng nhịp gõ của trăng. Động tác lao động vô cùng bình thường: Gõ nhịp vào mạn thuyền để dồn cá nhưng qua lăng kính cảm xúc bỗng trở nên đẹp đẽ đến lạ thường. Trăng lên cao dần ánh trăng từng chút, từng chút tan vào nước biển, vỗ vào mạn thuyền làm con thuyền lướt dập dềnh, bồng bềnh giữa biển khơi. Công việc đánh bắt cá đầy nặng nhọc bỗng trở nên thi vị, lãng mạn đến siêu lòng. Từ sự giàu đẹp của biển là những suy ngẫm về lòng biển bao dung: "Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào." Nhà thơ Huy Cận đã thật tài tình khi so sánh lòng biển với "lòng mẹ". Lòng biển mênh mông, rộng rãi đầy cá như tấm lòng của người mẹ bao dung và độ lượng. Đối với những người dân chài chính lòng biển là lòng mẹ đã "nuôi lớn" đời họ "tự buổi nào". Câu thơ là khúc tâm tình thiết tha với biển cả thân yêu, là lời cảm ơn chân thành từ tận cõi lòng đối với biển. Vì biển vừa bao la lại vừa trĩu nặng yêu thương. Suốt dọc cả bài thơ là tiếng hát, sau những tiếng hát ca ngợi, những tiếng hát lao động hăng say là tiếng hát niềm vui thu hoạch: "Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng, Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng." Nếu để ý kĩ ta có thể nhận ra rằng, đây là chi tiết cụ thể duy nhất về hình ảnh con người hiện ra trong sớm mai trên biển. Hình ảnh những người dân chài như có hình, có khối đó là hình ảnh khoẻ mạnh, đẹp đẽ của con người trong sự làm chủ. "Kéo xoăn tay" – kéo mạnh, kéo bằng tất cả sức lực, khiến cho các cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Hình ảnh thơ ấy như đã tạc bức tượng đồng về người ngư dân. "Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông, Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng". Câu thơ vừa thực mà vừa có nghĩa ẩn dụ. Không chỉ tả màu của vẩy, của đuôi cá trong sớm mai mà còn gợi cho ta ý nghĩ đến bạc, vàng – những tài sản quý giá lấy lên từ biển cả. Bởi không chỉ nhận ánh sáng phản chiếu từ tràng sao. "Vẩy bạc đuôi vàng" như tự phát sáng làm loé rạng đông tạo nên một ngày mới, làm cuộc sống đổi thay. Đó cũng chính là mục đích của người lao động, là hướng đi của nhân dân ta trong những năm đó. * Thống nhất với cảm hứng và bút pháp lãng mạn, khổ cuối của bài thơ là bức tranh hoành tráng với âm thanh, hình ảnh tràn đầy sức mạnh của con người, đoàn thuyền và ngập tràn ánh sáng: "Câu hát căng buồm cùng gió khơi, Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời." "Câu hát" cùng "gió khơi" đưa thuyền đi, nay vẫn "câu hát" ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng giờ đây không chỉ đơn thuần là sức mạnh của gió nữa mà còn có sức mạnh đến từ niềm vui của con người vì họ đã thu được những chiếc thuyền đầy cá. Nếu như ở khổ thơ đầu, sau khi màn đêm bao trùm trên biển thì con người mở cửa đêm ra khơi đánh cá thì giờ đây họ lại đang chạy đua cùng mặt trời. Không chỉ còn là sự nối tiếp của nhịp sống thiên nhiên, con người mà quan hệ của thiên nhiên, con người là quan hệ song song, đua tranh. Chạy đua với mặt trời cũng là chạy đua với thời gian. Con người đang giữ lấy từng giây, từng phút, đang vượt lên trên cả thời gian để tạo của cải cho cuộc sống mới, để xây dựng và cống hiến cho nước nhà. Những con người lao động đã về đến bến khi bình minh vừa ló dạng. "Mặt trời đội biển nhô màu mới, Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi" Cảnh biển một ngày mới được mở rộng đến muôn dặm và ngập tràn ánh sáng. Hình ảnh nhân hóa "mặt trời đội biển và" nhô "lên đã mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn. Ánh sáng của mặt trời không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang" màu mới"cho cuộc sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Sức tưởng tượng của bút pháp lãng mạn khiến bờ bãi thuyền trong dòng thơ cuối rực rỡ huy hoàng trong ánh sáng. Mắt của ngàn vạn con cá phơi trên bờ biển như cùng hướng về một phía, phản chiếu tia sáng bình minh rực sáng muôn dặm trải dài, xa như bờ biển đất nước. Đây là hình ảnh đẹp lung linh, kì ảo, thể hiện thành quả tốt đẹp của người ngư dân sau một đêm lao động vất vả. * * *Bằng bút pháp lãng mạn với những hình ảnh đẹp, sáng tạo kết hợp với những biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh.. Huy Cận đã thành công khắc họa vẻ đẹp hùng tráng và thơ mộng của biển khơi, cuộc sống tưng bừng niềm vui xây dựng chủ nghĩa xa hội ở miền Bắc. Bài thơ thực sự là khúc tráng ca của người lao động cất lên từ hồn thơ Huy Cận. Mang trong mình cả phong vị cổ điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cả cảm hứng vũ trụ hòa cùng luồng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa - Hết_